Quá trình thử nghiệm cho thấy, các chủng
vi sinh vật được phân lập và tuyển chọn
từ bùn và nước của Âu thuyền Thọ Quang
có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt
sau khi đưa trở lại môi trường của nó ở
điều kiện phòng thí nghiệm. Kết quả cho
thấy những chủng VSV này có khả năng
thích ứng và hoạt động mạnh trong môi
trường có chứa các thành phần hữu cơ
như protein, kitin, xenlulo cao với điều
kiện nồng độ muối của môi trường là
23,5 ‰. Hiệu quả xử lý cao nhất các
thành phần này được thể hiện thông qua
mức độ giảm nồng độ TOC, TN tương
ứng với 32 và 44% sau 2 tháng thử
nghiệm. Như vậy, có thể khẳng định rằng
VSV có vai trò rất lớn trong việc làm
giảm thiểu các thành phần ô nhiễm có
trong môi trường nước. Các số liệu thu
được trong nghiên cứu hoàn toàn có giá
trị rất cao, có thể là tiền đề cho những
nghiên cứu chuyên sâu hơn, qua đó góp
phần cải thiện chất lượng môi trường ở
các lưu vực ven biển đang có nguy cơ ô
nhiễm nặng tại Việt Nam
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 625 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng chế phẩm vi sinh vật chịu mặn để xử lý ô nhiễm nền đáy tại Âu Thuyền Thọ Quang, Đà Nẵng - Đỗ Văn Mạnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
52
Tạp chí phân tích Hóa, Lý và Sinh học - Tập 22/ số 1 (Đặc biệt)/ 2017
ỨNG DỤNG CHẾ PHẨM VI SINH VẬT CHỊU MẶN ĐỂ XỬ LÝ Ô NHIỄM
NỀN ĐÁY TẠI ÂU THUYỀN THỌ QUANG, ĐÀ NẴNG
Đến tòa soạn 05/12/2016
Đỗ Văn Mạnh, Lê Xuân Thanh Thảo, Huỳnh Đức Long
Trung tâm Công nghệ Môi trường tại Đà Nẵng, Viện Công nghệ Môi trường,
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Tăng Thị Chính
Viện Công nghệ Môi trường, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Vũ Đình Ngọ
Đại học Công nghiệp Việt Trì
SUMMARY
THE APPLICATION OF SALT-TOLERANT MICROORGANISMS PRODUCT
TO TREAT SEDIMENT POLLUTION IN THO QUANG DOCK, DA NANG
The digestion efficiency of total organic carbon, nitrogen (TOC and T-N) of organic
sludge (OS) by microorganism is examined in this study. OS is filled with volume of 5 L
for four chambers, microorganism is added in dosing of 10, 5, 1 and 0 mL corresponding
to B1, B2, B3 and B4, respectively. OS is collected from Tho Quang dock (Danang city),
entire digested experiment is carried out in the lab scale during 63 days. The TOC and T-
N removed efficiency of M1 is 32and 44%; M2 is 22 and 31%; M3 is 20 and 28%, and M4
is 12 and 14%, respectively, corresponding to initial values of 6575 and 70.5 mg/kg. It is
surely conclusion that the big role of microorganism could contribute to reduce
contaminant of the water body-bed. The obtained data of this work are high valuable to
further studies and promising to improve environmental quality of coastal basin of
Vietnam.
Keywords: microorganism, total organic carbon, nitrogen
1. MỞ ĐẦU
Hiện nay, việc nghiên cứu nhằm kiểm
soát ô nhiễm tại các thủy vực ngày càng
được đề cập nhiều hơn do hoạt động gây
ô nhiễm từ nước thải xả vào các lưu vực
chưa được kiểm soát, trong đó nhiều
nghiên cứu đã chỉ ra vai trò của vi sinh
vật (VSV) trong thủy vực và đặc biệt nền
đáy là rất quan trọng [1-7]. Sự có mặt của
các nhóm VSV trong môi trường không
53
những làm chức năng chỉ thị sinh học để
đánh giá hiện trạng môi trường mà còn
đóng một vai trò quan trọng trong việc
duy trì sự cân bằng của tự nhiên. Nghiên
cứu của Atreyee năm 2013 [1] và Huiluo
Cao năm 2011 [2] được thực hiện tại vịnh
Jiaozhou phía Bắc Trung Quốc, khu bảo
tồn thiên nhiên Po Mai ven biển của Hồng
Kông đã cho thấy cấu trúc quần xã của tác
nhân oxy hóa amoniac hiếu khí gồm
amoniac-oxy hóa Betaproteobacteria
(Beta-AOB) và vi khuẩn cổ oxy hóa
amoniac (AOA) và gần đây hơn, tác nhân
kị khí oxy hóa amoni (anammox) bởi vi
khuẩn có thể thích ứng ở điều kiện môi
trường bao gồm độ mặn, pH, các ion kim
loại, nồng độ nitơ vô cơ, tổng phốt pho, tỷ
lệ carbon hữu cơ-nitơ và các yếu tố trầm
tích như kích thước hạt trung bình. Những
nghiên cứu này đều chỉ ra mối quan hệ
giữa nồng độ các chất ô nhiễm và mắt
xích vi sinh vật trong vai trò chuyển hóa
chúng trong tự nhiên, tốc độ chuyển hóa
các chất ô nhiễm đều phụ thuộc vào nồng
độ và các yếu tố tác động bên ngoài môi
trường và mật độ VSV trong môi trường.
Tại Việt Nam, nghiên cứu về các thủy vực
cũng đã dần được đề cập trong thời gian
gần đây, tuy nhiên các công trình mới chỉ
tập trung phần lớn vào các ao hồ tại các
đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh và một số tỉnh thành khác như Đà
Nẵng, Đà Lạt, Hà Nam, Thái
Nguyên....[8-10]. Các kết quả nghiên cứu
từ nhiều đề tài đều có nhận định nguyên
nhân gây ô nhiễm chính các thủy vực là
do nước thải sinh hoạt và một phần nước
thải từ làng nghề, các hộ sản xuất nhỏ tùy
tiện thải xuống thủy vực tiếp nhận. Các
nguồn ô nhiễm này thường làm tăng nồng
độ các thành phần hữu cơ, dinh dưỡng và
các kim loại nặng do đó vượt quá khả
năng tự làm sạch của ao hồ, dẫn đến suy
thoái chất lượng nước, thiếu hụt oxy, tăng
lượng trầm tích. Từ đó, khiến cho môi
trường nước của nhiều ao hồ đục bẩn,
biến thành màu đen, hệ thống sinh thái bị
đe dọa và rối loạn nghiêm trọng.
2. THỰC NGHIỆM
2.1. Hóa chất
Nghiên cứu sử dụng chế phẩm VSV chịu
mặn dạng nước được phân lập từ mẫu bùn
và mẫu nước thu nhận tại khu vực âu
thuyền Thọ Quang thành phố Đà Nẵng,
sau đó nuôi cấy và phối trộn để có được
chế phẩm theo yêu cầu nhằm sử dụng cho
quá trình thí nghiệm. Các chủng VSV
được phân lập bao gồm Bacillus suptilis
(DN 13) - Sinh enzym kitinase phân giải
mạnh kitin; Bacillus amyloquenfacciens
(TQ10)- sinh enzym amylase, enzym
xenlulase; Bacillus amyloquenfacciens
(TQ12)- sinh enzym amylase, enzym
xenlulase và Bacillus licheniformis
(TQ21) - Sinh enzym protease. Mật độ
các nhóm VSV như sau:
DN13: 2,9108 CFU/ml;
TQ10: 3,1108 CFU/ml;
TQ12: 2,7108 CFU/ml;
TQ21: 3,5108 CFU/ml.
Để so sánh hiệu quả, nghiên cứu sử dụng
thêm chế phẩm BIO-EM có chứa VSV
54
phân hủy protein, tinh bột, xenllulo, kitin
với mật độ tổng là 3,7109 CFU/ml.
Ngoài ra, trong quá trình thí nghiệm
không sử dụng bất kỳ hóa chất nào khác.
2.2. Thiết bị
Việc thí nghiệm được tiến hành trong các
bể bằng thủy tinh có kích thước chiều dài
rộng cao của mỗi bể là 505040 cm,
các bể này được ghép nối với nhau tạo
thành dãy bể dính liền như hình dưới:
Hình 1. Mô hình thử nghiệm
Mô hình thí nghiệm được đặt trong phòng
có nhiệt độ khoảng từ 25-32 C, trên mỗi
bể được đánh số từ 1 đến 4. Ngoài ra còn
có 1 bể rời được đánh số thứ tự là 5.
2.3. Quy trình thí nghiệm
Hỗn hợp mẫu sử dụng cho thí nghiệm bao
gồm mẫu nước và mẫu bùn được lấy tại
khu vực bên trong Âu thuyền Thọ Quang.
Vị trí lấy mẫu là điểm giao tiếp của vùng
tiếp nhận nước thải từ các cống xả nước
thải từ các khu dân cư và đặc biệt là nước
thải từ trạm xử lý nước thải tập trung Khu
công nghiệp Dịch vụ thủy sản Thọ Quang
với nước thải từ khu vực tiếp nhận
nguyên liệu hải sản vào khu vực chợ. Do
đó thành phần các chất hữu cơ có chứa
protein, lipit, xenlulo và tinh bột cao.
Đối với mẫu bùn, việc lấy mẫu được thực
hiện bằng thiết bị lấy mẫu bùn trầm tích
của hãng Wilco/Mỹ. Tổng lượng bùn cần
lấy là 25 kg. Đối với mẫu nước, việc lấy
mẫu được thực hiện bằng thiết bị lấy mẫu
nằm ngang của hãng Wilco/Mỹ, độ sâu
của mẫu ở vị trí cách mặt nước khoảng 3
m, đây là vị trí khoảng giữa tính từ mặt
nước đến đáy âu thuyền.
Toàn bộ mẫu bùn và mẫu nước sau khi
lấy được chứa trong 2 thùng cách nhiệt
riêng biệt và vận chuyển về phòng thí
nghiệm.
2.4. Tiến hành thí nghiệm
Việc đánh giá được tiến hành bằng cách
sử dụng mẫu bùn và nước thu nhận được
từ Âu thuyền Thọ Quang sau đó tiến hành
bổ sung chế phẩm VSV được phân lập có
nguồn gốc từ bùn và nước của Âu thuyền
Thọ Quang. Mẫu sau khi mang về phòng
thí nghiệm được đồng nhất và định lượng
vào các bể với thể tích như nhau: 05 kg
bùn và 05 lít nước/bể. Sau đó tiến hành bổ
sung chế phẩm và bắt đầu quá trình theo
dõi. Lượng chế phẩm được bổ sung vào
các bể với thể tích lần lượt là: 10, 5, 1 và
0 ml tương ứng với các bể có số thứ tự từ
1 đến 4. Bên cạnh đó, để đánh giá khả
năng thích ứng của chế phẩm mới tạo ra
so sánh với chế phẩm thương mại bằng
cách chuẩn bị bể số 5 nhưng được bổ
sung chế phẩm thương mại BIO-EM.
Ngay sau khi bổ sung chế phẩm, tiến hành
lấy mẫu nước và mẫu bùn của tất cả 5 bể
để tiến hành phân tích các chỉ số ban đầu
của quá trình thử nghiệm.
55
Tiến hành thực nghiệm trong 02 tháng,
định kì 07 ngày/lần lấy mẫu bùn để phân
tích, theo dõi sự thay đổi của các thông
số: TOC, TN, mật độ VSV hiếu khí, kị
khí; VSV phân giải protein, kitin, tinh bột
và xenlulo. Ngoài ra, nghiên cứu cũng
theo dõi các chỉ tiêu hóa lý của mẫu nước.
2.5. Phương pháp phân tích
Phân tích thông số môi trường đã nêu trên
theo phương pháp và thiết bị như sau:
Với mẫu nước: Nhiệt độ, pH, nồng độ
muối được đo bằng thiết bị đo pH
TOADKK, Nhật Bản.
Với mẫu bùn: Tổng Carbon hữu cơ được
xác định theo TCVN 6642:2000 bằng
thiết bị TOC - VCPH/CPN Shimazu, Nhật
Bản.
Tổng Nito được xác định theo TCVN
6498:1999 bằng thiết bị TOC - VCPH/CPN
Shimazu, Nhật Bản.
Mật độ vi sinh vật kị khí được xác định
theo TCVN 6191-2:1996.
Mật độ VSV hiếu khí, VSV phân giải
protein; VSV phân giải kittin; VSV phân
giải tinh bột; VSV phân giải cellulose
được xác định theo TCVN 4884:2001.
2.6. Phương pháp xử lý số liệu
Toàn bộ kết quả của quá trình thực
nghiệm đều được lấy giá trị trung bình và
có độ lặp lại ba lần, số liệu trình bày trong
các bảng biểu và hình được thống kê và
vẽ đồ bằng phần mềm Microsoft Excel.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Sự thay đổi của các thông số hóa lý
Trong suốt quá trình, các chỉ số pH, nồng
độ muối và nhiệt độ của mẫu đều được đo
nhanh hằng tuần. Chỉ số pH trung bình
của các mẫu là 7,8; độ muối là 23,5‰ và
nhiệt độ dao động trong khoảng từ 25 đến
30 °C. Tại Bảng 1 cho thấy, chỉ số pH của
mẫu cũng như nồng độ muối không thay
đổi nhiều trong suốt quá trình thử nghiệm,
điều này chứng tỏ các hoạt động sống và
sinh trưởng của các chủng VSV bổ sung
không làm thay đổi những thông số trên.
Bảng 1. Các thông số đo nhanh hàng tuần
Sau mỗi tuần thử nghiệm, các mẫu bùn tại
mỗi bể được lấy để xác định tổng hàm
lượng cacbon hữu cơ, tổng nitơ và các chỉ
số vi sinh. Kết quả phân tích nhằm đánh
giá khả năng thích ứng cũng như hiệu quả
xử lý bùn của chế phẩm được mô tả sau
đây.
3.2. Khả năng thích ứng của chế phẩm
Hình 2 biểu thị mật độ của các nhóm
VSV tại bể thử nghiệm số 1 với lượng chế
phẩm bổ sung là 10 ml. Trong tuần đầu
tiên sau khi cho chế phẩm thì các nhóm
VSV bắt đầu phát triển. Đối với tổng
VSV hiếu khí, mật độ VSVnhóm này tăng
1,9 lần sau 1 tuần thử nghiệm, sau thời
gian khoảng 4 tuần thì mật độ VSV thuộc
nhóm này tương đối ổn định và tăng hơn
5 lần so với thời điểm ban đầu.
56
Đối với VSV phân giải protein, sau khi bổ
sung chế phẩm vào mẫu cho thấy mật độ
VSV nhóm này tăng lên khá nhanh, đạt tỷ
lệ 19,5 lần sau 1 tuần và đạt 40,9 lần sau
khoảng thời gian 3 tuần. Tuy nhiên, đến
tuần thứ 5 thì mật độ VSV thuộc nhóm
này bắt đầu giảm dần nhưng vẫn duy trì ở
mức cao, điều này có thể do nguyên nhân
hàm lượng các thành phần hữu cơ có chứa
protein giảm đáng kể trên lớp bề mặt. Sau
2 tháng thử nghiệm mật độ VSV thuộc
nhóm này vẫn duy trì và đạt 14,8 lần so
với thời điểm ban đầu.
Hình 2. Tỷ lệ tăng mật độ VSV tại Bể 1
Đối với nhóm VSV phân giải kitin, mật
độ VSV thuộc nhóm này tăng 8,6 lần sau
1 tuần và tăng lên 41,4 lần sau 4 tuần nuôi
cấy sau đó mật độ VSV nhóm này bắt đầu
giảm dần và sau 2 tháng thử nghiệm thì
mật độ VSV thuộc nhóm này vẫn duy trì
ở mức 9,3 lần so với thời điểm ban đầu.
Đối với nhóm VSV phân giải tinh bột và
phân giải xenlulo thì mật độ VSV thuộc
các nhóm này cũng tăng lên nhưng mức
độ tăng thấp hơn. Sau 1 tuần kể từ khi bổ
sung chế phẩm thì mật độ VSV phân giải
tinh bột tăng 4,0 lần trong khi đó mật độ
VSV phân giải cellulose tăng khoảng 2,6
lần. Sau thời gian 4 tuần kể từ khi bắt đầu
bổ sung chế phẩm thì mật độ VSV thuộc
nhóm phân giải tinh bột đạt 7,2 lần và mật
độ VSV nhóm phân giải cellulose đạt 4,0
lần sau đó mật độ của cả 2 nhóm này bắt
đầu giảm, nhưng vẫn duy trì ở mức 1,7
lần đối với nhóm phân giải tinh bột và 3,3
lần đối với nhóm phân giải xenlulo sau 2
tháng thử nghiệm.
Đối với các bể số 2 và số 3, tỷ lệ chế
phẩm bổ sung vào các bể này theo thể tích
tương ứng là 5 và 1 ml nên mật độ các
nhóm VSV bổ sung thấp hơn nhiều so với
bể số 1. Từ Hình 3 và Hình 4 cho thấy,
mật độ các nhóm VSV phân giải protein,
kitin, tinh bột và xenlulo đều tăng lên sau
khoảng thời gian thử nghiệm, tuy nhiên
mức độ tăng thấp hơn so với Bể 1.
Hình 3. Tỷ lệ tăng mật độ VSV tại Bể 2
Hình 4. Tỷ lệ tăng mật độ VSV tại Bể 3
Đối với bể số 4, từ Hình 5 cho thấy mật
độ các nhóm VSV tương ứng gần như ít
biến động sau thời gian thử nghiệm.
57
Ngoài ra, ở tất cả các mẫu, mật độ VSV
kỵ khí sau thời gian thử nghiệm 1 tuần
cũng như trong suốt quá trình thử nghiệm
đều có xu hướng giảm dần, điều này có
thể do nguyên nhân chiều sâu của lớp
nước và bùn nhỏ, khả năng khuếch tán
oxy vào lớp nước và bùn tăng theo thời
gian nên sẽ gây ức chế hoạt động của
những nhóm VSV kỵ khí.
Hình 5. Tỷ lệ tăng mật độ VSV tại Bể 4
Hình 6 cho thấy khả năng thích ứng của
chế phẩm thương mại so với chế phẩm
thu nhận từ việc phân lập, tuyển chọn từ
mẫu bùn và nước tại Âu thuyền. Ngay
tuần đầu tiên sau khi bổ sung chế phẩm,
mật độ các nhóm VSV tại bể 5 đều giảm
đáng kể, điều này cho thấy khả năng thích
ứng của các nhóm VSV là không tốt.
Hình 6. Tỷ lệ tăng mật độ VSV tại Bể 1 và 5
3.3. Đánh giá hiệu quả xử lý các thành
phần hữu cơ có trong bùn
Từ Hình 7 và 8 cho thấy, sau khi bổ sung
chế phẩm thì hiệu quả xử lý các thành
phần TOC và TN tăng lên rõ rệt. Mức độ
xử lý tăng theo thời gian và thể tích chế
phẩm bổ sung vào trong mẫu. Với hàm
lượng TOC trung bình ban đầu trước khi
bổ sung chế phẩm là 6575 mg/kg, sau 4
tuần thử nghiệm thì hiệu quả xử hàm
lượng TOC tại các bể 1, bể 2 bể 3 và 4 lần
lượt là 22%, 6%, 5% và 4%. Giá trị này
tăng tương ứng sau 2 tháng thử nghiệm
lần lượt là 32, 22, 20 và 12%.
Hình 7. Hiệu quả xử lý TOC tại các bể
Đối với bể 4, mặc dù không được bổ sung
chế phẩm, tuy nhiên sau 2 tháng xử lý thì
lượng TOC cũng giảm khoảng 12%. Điều
này chứng tỏ các nhóm VSV có khả năng
phân hủy các thành phần có chứa cacbon
hữu cơ đã có sẵn trong môi trường bùn
của đáy Âu thuyền, tuy nhiên mật độ
không cao nên hiệu quả xử lý chậm hơn.
Hình 8. Hiệu quả xử lý TN tại các bể
Đối với Bể 1 được bổ sung lượng chế
phẩm là 10 ml thì tốc độ phân giải TOC
tăng nhanh nhất trong thời gian 4 tuần đầu,
58
sau đó tốc độ này tăng chậm lại. Điều này
có thể được lý giải thông qua hàm lượng
TOC trong bùn ở lớp bề mặt giảm dần sau
thời gian xử lý đồng thời mật độ của các
nhóm VSV có khả năng phân giải cabon
hữu cơ ở lớp bùn cách bề mặt giảm dần.
Đối với hàm lượng TN, từ Hình 8 cho
thấy sau khi bổ sung chế phẩm vào trong
bùn thì tốc độ phân giải TN trong mẫu
cũng tăng lên đáng kể. Sau thời gian 5
tuần kể từ khi bổ sung chế phẩm, hàm
lượng TN trong bùn tại các bể 1, bể 2 và
bể 3 đều giảm với tỷ lệ giảm tương ứng là
32, 19 và 16%. Đối với bể 4, mặt dù
không được bổ sung chế phẩm nhưng
hàm lượng TN trong mẫu bùn thu nhận tại
cùng thời điểm sau 5 tuần thử nghiệm
cũng giảm khoảng 7%. Chứng tỏ có các
nhóm VSV phân giải nitơ có trong bùn.
Tương tự như TOC, tốc độ phân giải hàm
lượng TN tại các bể tăng nhanh trong
khoảng thời gian 5 tuần đầu kể từ khi bắt
đầu thử nghiệm. Kể từ tuần 6 trở đi thì tốc
độ phân giải này chậm hơn. Kết thúc quá
trình sau 2 tháng thử nghiệm cho thấy
hiệu quả xử lý hàm lượng TN trong các
bể thử nghiệm lần lượt là 44, 31, 28 và
14%. Từ kết quả trên ta có thể nhận định,
đối với nhóm VSV phân giải nito thì khả
năng thích ứng và phát triển tương đối
mạnh, với thể tích chế phẩm bổ sung vào
các bể lần lượt là 10, 5 và 1 ml thì sau 2
tháng thử nghiệm, mật độ các nhóm vi
sinh vật phân giải nitơ trong bùn tại Bể 1
tăng nhanh nhất do đó hiệu quả xử lý tại
bể này tương đối cao.
4. KẾT LUẬN
Quá trình thử nghiệm cho thấy, các chủng
vi sinh vật được phân lập và tuyển chọn
từ bùn và nước của Âu thuyền Thọ Quang
có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt
sau khi đưa trở lại môi trường của nó ở
điều kiện phòng thí nghiệm. Kết quả cho
thấy những chủng VSV này có khả năng
thích ứng và hoạt động mạnh trong môi
trường có chứa các thành phần hữu cơ
như protein, kitin, xenlulo cao với điều
kiện nồng độ muối của môi trường là
23,5 ‰. Hiệu quả xử lý cao nhất các
thành phần này được thể hiện thông qua
mức độ giảm nồng độ TOC, TN tương
ứng với 32 và 44% sau 2 tháng thử
nghiệm. Như vậy, có thể khẳng định rằng
VSV có vai trò rất lớn trong việc làm
giảm thiểu các thành phần ô nhiễm có
trong môi trường nước. Các số liệu thu
được trong nghiên cứu hoàn toàn có giá
trị rất cao, có thể là tiền đề cho những
nghiên cứu chuyên sâu hơn, qua đó góp
phần cải thiện chất lượng môi trường ở
các lưu vực ven biển đang có nguy cơ ô
nhiễm nặng tại Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A. Sims, Y. Zhang, S. Gajaraj, P. B.
Brown, Z. Hu, “Toward the development
of microbial indicators for wetland
assessment”, Water Research., 47, (5),
1,1711-1725, (2013) .
2. H. Cao, M. Li, H. Dang, J. D. Gu,
“Responses of Aerobic and Anaerobic
Ammonia/Ammonium - Oxidizing
Microorganisms to Anthropogenic
59
Pollution in Coastal Marine
Environments”, Methods in Enzymology.,
496, 35-62, (2010).
3. C. Ahn, R. M. Peralta, “Soil bacterial
community structure and physicochemical
properties in mitigation wetlands created
in the Piedmont region of Virginia
(USA)”, EcologicalEngineering., 35 (7),
1036-1042, (2009).
4. C. Dorador, A. Busekow, I. Vila, J. F.
Imhoff, K. P. Witzel, “Molecular analysis
of enrichment cultures of ammonia
oxidizers from the Salar de Huasco, a
high altitude saline wetland in northern
Chile”, Extremophiles, 12(3), 405-414,
(2008).
5. R. Gorra, M. Coci, R. Ambrosoli, H. J.
Laanbroek, “Effects of substratum on the
diversity and stability of ammonia-
oxidizing communities in a constructed
wetland used for wastewater treatment”,
Journal of Applied Microbiology, 103 (5),
1442.-1452 (2007).
6. N. S. Moin, K. A. Nelson, A. Bush, A.
E. Bernhard, “Distribution and diversity
of archaeal and bacterial ammonia
oxidizers in salt marsh sediments”,
Applied and Environmental Microbiology,
75(23), 7461-7468 (2009).
7. L. Yan, R. Inamori, P. Gui, K. Q. Xu,
H. N. Kong, M. Matsumura, Y. Inamori,
“Distribution characteristics of ammonia-
oxidizing bacteria in the Typha latifolia
constructed wetlands using fluorescent in
situ hybridization (FISH)”, J. Environ.
Sciences, 17(6), 993-997 (2005).
8. S. Seitzinger, J. A. Harrison, J. K.
Bohlke, A. F. Bouwman, R. Lowrance, B.
Peterson, C. Tobias, G. V. Drecht,
“Denitrification across landscapes and
waterscapes: a synthesis”, Ecological
Applications, 16, 2064-2090 (2006).
9. T. E. Jordan, M. P. Andrews, R. P.
Szuch, D. F. Whigham, D. E. Weller, A.
D. Jacobs, “Comparing functional
assessments of wetlands to measurements
of soil characteristics and nitrogen
processing”, Wetlands, 27, 479-497
(2007).
10. W. R. Boynton, J. D. Hagy, J. C.
Cornwell, W. M. Kemp, S. M. Greene, M.
S. Owens, J. E. Baker, R. K. Larsen,
“Nutrient budgets and management
actions in the Patuxent River estuary,
Maryland”, Estuaries and Coasts, 31,
623-651 (2008).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 27371_91794_1_pb_6005_2096907.pdf