Quá trình thử nghiệm cho thấy, các chủng
vi sinh vật được phân lập và tuyển chọn
từ bùn và nước của Âu thuyền Thọ Quang
có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt
sau khi đưa trở lại môi trường của nó ở
điều kiện phòng thí nghiệm. Kết quả cho
thấy những chủng VSV này có khả năng
thích ứng và hoạt động mạnh trong môi
trường có chứa các thành phần hữu cơ
như protein, kitin, xenlulo cao với điều
kiện nồng độ muối của môi trường là
23,5 ‰. Hiệu quả xử lý cao nhất các
thành phần này được thể hiện thông qua
mức độ giảm nồng độ TOC, TN tương
ứng với 32 và 44% sau 2 tháng thử
nghiệm. Như vậy, có thể khẳng định rằng
VSV có vai trò rất lớn trong việc làm
giảm thiểu các thành phần ô nhiễm có
trong môi trường nước. Các số liệu thu
được trong nghiên cứu hoàn toàn có giá
trị rất cao, có thể là tiền đề cho những
nghiên cứu chuyên sâu hơn, qua đó góp
phần cải thiện chất lượng môi trường ở
các lưu vực ven biển đang có nguy cơ ô
nhiễm nặng tại Việt Nam
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
8 trang | 
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 769 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng chế phẩm vi sinh vật chịu mặn để xử lý ô nhiễm nền đáy tại Âu Thuyền Thọ Quang, Đà Nẵng - Đỗ Văn Mạnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 52 
Tạp chí phân tích Hóa, Lý và Sinh học - Tập 22/ số 1 (Đặc biệt)/ 2017 
ỨNG DỤNG CHẾ PHẨM VI SINH VẬT CHỊU MẶN ĐỂ XỬ LÝ Ô NHIỄM 
NỀN ĐÁY TẠI ÂU THUYỀN THỌ QUANG, ĐÀ NẴNG 
Đến tòa soạn 05/12/2016 
Đỗ Văn Mạnh, Lê Xuân Thanh Thảo, Huỳnh Đức Long 
Trung tâm Công nghệ Môi trường tại Đà Nẵng, Viện Công nghệ Môi trường, 
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
 Tăng Thị Chính 
Viện Công nghệ Môi trường, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
Vũ Đình Ngọ 
Đại học Công nghiệp Việt Trì 
SUMMARY 
THE APPLICATION OF SALT-TOLERANT MICROORGANISMS PRODUCT 
TO TREAT SEDIMENT POLLUTION IN THO QUANG DOCK, DA NANG 
The digestion efficiency of total organic carbon, nitrogen (TOC and T-N) of organic 
sludge (OS) by microorganism is examined in this study. OS is filled with volume of 5 L 
for four chambers, microorganism is added in dosing of 10, 5, 1 and 0 mL corresponding 
to B1, B2, B3 and B4, respectively. OS is collected from Tho Quang dock (Danang city), 
entire digested experiment is carried out in the lab scale during 63 days. The TOC and T-
N removed efficiency of M1 is 32and 44%; M2 is 22 and 31%; M3 is 20 and 28%, and M4 
is 12 and 14%, respectively, corresponding to initial values of 6575 and 70.5 mg/kg. It is 
surely conclusion that the big role of microorganism could contribute to reduce 
contaminant of the water body-bed. The obtained data of this work are high valuable to 
further studies and promising to improve environmental quality of coastal basin of 
Vietnam. 
Keywords: microorganism, total organic carbon, nitrogen 
1. MỞ ĐẦU 
Hiện nay, việc nghiên cứu nhằm kiểm 
soát ô nhiễm tại các thủy vực ngày càng 
được đề cập nhiều hơn do hoạt động gây 
ô nhiễm từ nước thải xả vào các lưu vực 
chưa được kiểm soát, trong đó nhiều 
nghiên cứu đã chỉ ra vai trò của vi sinh 
vật (VSV) trong thủy vực và đặc biệt nền 
đáy là rất quan trọng [1-7]. Sự có mặt của 
các nhóm VSV trong môi trường không 
 53 
những làm chức năng chỉ thị sinh học để 
đánh giá hiện trạng môi trường mà còn 
đóng một vai trò quan trọng trong việc 
duy trì sự cân bằng của tự nhiên. Nghiên 
cứu của Atreyee năm 2013 [1] và Huiluo 
Cao năm 2011 [2] được thực hiện tại vịnh 
Jiaozhou phía Bắc Trung Quốc, khu bảo 
tồn thiên nhiên Po Mai ven biển của Hồng 
Kông đã cho thấy cấu trúc quần xã của tác 
nhân oxy hóa amoniac hiếu khí gồm 
amoniac-oxy hóa Betaproteobacteria 
(Beta-AOB) và vi khuẩn cổ oxy hóa 
amoniac (AOA) và gần đây hơn, tác nhân 
kị khí oxy hóa amoni (anammox) bởi vi 
khuẩn có thể thích ứng ở điều kiện môi 
trường bao gồm độ mặn, pH, các ion kim 
loại, nồng độ nitơ vô cơ, tổng phốt pho, tỷ 
lệ carbon hữu cơ-nitơ và các yếu tố trầm 
tích như kích thước hạt trung bình. Những 
nghiên cứu này đều chỉ ra mối quan hệ 
giữa nồng độ các chất ô nhiễm và mắt 
xích vi sinh vật trong vai trò chuyển hóa 
chúng trong tự nhiên, tốc độ chuyển hóa 
các chất ô nhiễm đều phụ thuộc vào nồng 
độ và các yếu tố tác động bên ngoài môi 
trường và mật độ VSV trong môi trường. 
Tại Việt Nam, nghiên cứu về các thủy vực 
cũng đã dần được đề cập trong thời gian 
gần đây, tuy nhiên các công trình mới chỉ 
tập trung phần lớn vào các ao hồ tại các 
đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí 
Minh và một số tỉnh thành khác như Đà 
Nẵng, Đà Lạt, Hà Nam, Thái 
Nguyên....[8-10]. Các kết quả nghiên cứu 
từ nhiều đề tài đều có nhận định nguyên 
nhân gây ô nhiễm chính các thủy vực là 
do nước thải sinh hoạt và một phần nước 
thải từ làng nghề, các hộ sản xuất nhỏ tùy 
tiện thải xuống thủy vực tiếp nhận. Các 
nguồn ô nhiễm này thường làm tăng nồng 
độ các thành phần hữu cơ, dinh dưỡng và 
các kim loại nặng do đó vượt quá khả 
năng tự làm sạch của ao hồ, dẫn đến suy 
thoái chất lượng nước, thiếu hụt oxy, tăng 
lượng trầm tích. Từ đó, khiến cho môi 
trường nước của nhiều ao hồ đục bẩn, 
biến thành màu đen, hệ thống sinh thái bị 
đe dọa và rối loạn nghiêm trọng. 
2. THỰC NGHIỆM 
2.1. Hóa chất 
Nghiên cứu sử dụng chế phẩm VSV chịu 
mặn dạng nước được phân lập từ mẫu bùn 
và mẫu nước thu nhận tại khu vực âu 
thuyền Thọ Quang thành phố Đà Nẵng, 
sau đó nuôi cấy và phối trộn để có được 
chế phẩm theo yêu cầu nhằm sử dụng cho 
quá trình thí nghiệm. Các chủng VSV 
được phân lập bao gồm Bacillus suptilis 
(DN 13) - Sinh enzym kitinase phân giải 
mạnh kitin; Bacillus amyloquenfacciens 
(TQ10)- sinh enzym amylase, enzym 
xenlulase; Bacillus amyloquenfacciens 
(TQ12)- sinh enzym amylase, enzym 
xenlulase và Bacillus licheniformis 
(TQ21) - Sinh enzym protease. Mật độ 
các nhóm VSV như sau: 
DN13: 2,9108 CFU/ml; 
TQ10: 3,1108 CFU/ml; 
TQ12: 2,7108 CFU/ml; 
TQ21: 3,5108 CFU/ml. 
Để so sánh hiệu quả, nghiên cứu sử dụng 
thêm chế phẩm BIO-EM có chứa VSV 
 54 
phân hủy protein, tinh bột, xenllulo, kitin 
với mật độ tổng là 3,7109 CFU/ml. 
Ngoài ra, trong quá trình thí nghiệm 
không sử dụng bất kỳ hóa chất nào khác. 
2.2. Thiết bị 
Việc thí nghiệm được tiến hành trong các 
bể bằng thủy tinh có kích thước chiều dài 
 rộng  cao của mỗi bể là 505040 cm, 
các bể này được ghép nối với nhau tạo 
thành dãy bể dính liền như hình dưới: 
Hình 1. Mô hình thử nghiệm 
Mô hình thí nghiệm được đặt trong phòng 
có nhiệt độ khoảng từ 25-32 C, trên mỗi 
bể được đánh số từ 1 đến 4. Ngoài ra còn 
có 1 bể rời được đánh số thứ tự là 5. 
2.3. Quy trình thí nghiệm 
Hỗn hợp mẫu sử dụng cho thí nghiệm bao 
gồm mẫu nước và mẫu bùn được lấy tại 
khu vực bên trong Âu thuyền Thọ Quang. 
Vị trí lấy mẫu là điểm giao tiếp của vùng 
tiếp nhận nước thải từ các cống xả nước 
thải từ các khu dân cư và đặc biệt là nước 
thải từ trạm xử lý nước thải tập trung Khu 
công nghiệp Dịch vụ thủy sản Thọ Quang 
với nước thải từ khu vực tiếp nhận 
nguyên liệu hải sản vào khu vực chợ. Do 
đó thành phần các chất hữu cơ có chứa 
protein, lipit, xenlulo và tinh bột cao. 
Đối với mẫu bùn, việc lấy mẫu được thực 
hiện bằng thiết bị lấy mẫu bùn trầm tích 
của hãng Wilco/Mỹ. Tổng lượng bùn cần 
lấy là 25 kg. Đối với mẫu nước, việc lấy 
mẫu được thực hiện bằng thiết bị lấy mẫu 
nằm ngang của hãng Wilco/Mỹ, độ sâu 
của mẫu ở vị trí cách mặt nước khoảng 3 
m, đây là vị trí khoảng giữa tính từ mặt 
nước đến đáy âu thuyền. 
Toàn bộ mẫu bùn và mẫu nước sau khi 
lấy được chứa trong 2 thùng cách nhiệt 
riêng biệt và vận chuyển về phòng thí 
nghiệm. 
2.4. Tiến hành thí nghiệm 
Việc đánh giá được tiến hành bằng cách 
sử dụng mẫu bùn và nước thu nhận được 
từ Âu thuyền Thọ Quang sau đó tiến hành 
bổ sung chế phẩm VSV được phân lập có 
nguồn gốc từ bùn và nước của Âu thuyền 
Thọ Quang. Mẫu sau khi mang về phòng 
thí nghiệm được đồng nhất và định lượng 
vào các bể với thể tích như nhau: 05 kg 
bùn và 05 lít nước/bể. Sau đó tiến hành bổ 
sung chế phẩm và bắt đầu quá trình theo 
dõi. Lượng chế phẩm được bổ sung vào 
các bể với thể tích lần lượt là: 10, 5, 1 và 
0 ml tương ứng với các bể có số thứ tự từ 
1 đến 4. Bên cạnh đó, để đánh giá khả 
năng thích ứng của chế phẩm mới tạo ra 
so sánh với chế phẩm thương mại bằng 
cách chuẩn bị bể số 5 nhưng được bổ 
sung chế phẩm thương mại BIO-EM. 
Ngay sau khi bổ sung chế phẩm, tiến hành 
lấy mẫu nước và mẫu bùn của tất cả 5 bể 
để tiến hành phân tích các chỉ số ban đầu 
của quá trình thử nghiệm. 
 55 
Tiến hành thực nghiệm trong 02 tháng, 
định kì 07 ngày/lần lấy mẫu bùn để phân 
tích, theo dõi sự thay đổi của các thông 
số: TOC, TN, mật độ VSV hiếu khí, kị 
khí; VSV phân giải protein, kitin, tinh bột 
và xenlulo. Ngoài ra, nghiên cứu cũng 
theo dõi các chỉ tiêu hóa lý của mẫu nước. 
2.5. Phương pháp phân tích 
Phân tích thông số môi trường đã nêu trên 
theo phương pháp và thiết bị như sau: 
Với mẫu nước: Nhiệt độ, pH, nồng độ 
muối được đo bằng thiết bị đo pH 
TOADKK, Nhật Bản. 
Với mẫu bùn: Tổng Carbon hữu cơ được 
xác định theo TCVN 6642:2000 bằng 
thiết bị TOC - VCPH/CPN Shimazu, Nhật 
Bản. 
Tổng Nito được xác định theo TCVN 
6498:1999 bằng thiết bị TOC - VCPH/CPN 
Shimazu, Nhật Bản. 
Mật độ vi sinh vật kị khí được xác định 
theo TCVN 6191-2:1996. 
Mật độ VSV hiếu khí, VSV phân giải 
protein; VSV phân giải kittin; VSV phân 
giải tinh bột; VSV phân giải cellulose 
được xác định theo TCVN 4884:2001. 
2.6. Phương pháp xử lý số liệu 
Toàn bộ kết quả của quá trình thực 
nghiệm đều được lấy giá trị trung bình và 
có độ lặp lại ba lần, số liệu trình bày trong 
các bảng biểu và hình được thống kê và 
vẽ đồ bằng phần mềm Microsoft Excel. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Sự thay đổi của các thông số hóa lý 
Trong suốt quá trình, các chỉ số pH, nồng 
độ muối và nhiệt độ của mẫu đều được đo 
nhanh hằng tuần. Chỉ số pH trung bình 
của các mẫu là 7,8; độ muối là 23,5‰ và 
nhiệt độ dao động trong khoảng từ 25 đến 
30 °C. Tại Bảng 1 cho thấy, chỉ số pH của 
mẫu cũng như nồng độ muối không thay 
đổi nhiều trong suốt quá trình thử nghiệm, 
điều này chứng tỏ các hoạt động sống và 
sinh trưởng của các chủng VSV bổ sung 
không làm thay đổi những thông số trên. 
Bảng 1. Các thông số đo nhanh hàng tuần 
Sau mỗi tuần thử nghiệm, các mẫu bùn tại 
mỗi bể được lấy để xác định tổng hàm 
lượng cacbon hữu cơ, tổng nitơ và các chỉ 
số vi sinh. Kết quả phân tích nhằm đánh 
giá khả năng thích ứng cũng như hiệu quả 
xử lý bùn của chế phẩm được mô tả sau 
đây. 
3.2. Khả năng thích ứng của chế phẩm 
Hình 2 biểu thị mật độ của các nhóm 
VSV tại bể thử nghiệm số 1 với lượng chế 
phẩm bổ sung là 10 ml. Trong tuần đầu 
tiên sau khi cho chế phẩm thì các nhóm 
VSV bắt đầu phát triển. Đối với tổng 
VSV hiếu khí, mật độ VSVnhóm này tăng 
1,9 lần sau 1 tuần thử nghiệm, sau thời 
gian khoảng 4 tuần thì mật độ VSV thuộc 
nhóm này tương đối ổn định và tăng hơn 
5 lần so với thời điểm ban đầu. 
 56 
Đối với VSV phân giải protein, sau khi bổ 
sung chế phẩm vào mẫu cho thấy mật độ 
VSV nhóm này tăng lên khá nhanh, đạt tỷ 
lệ 19,5 lần sau 1 tuần và đạt 40,9 lần sau 
khoảng thời gian 3 tuần. Tuy nhiên, đến 
tuần thứ 5 thì mật độ VSV thuộc nhóm 
này bắt đầu giảm dần nhưng vẫn duy trì ở 
mức cao, điều này có thể do nguyên nhân 
hàm lượng các thành phần hữu cơ có chứa 
protein giảm đáng kể trên lớp bề mặt. Sau 
2 tháng thử nghiệm mật độ VSV thuộc 
nhóm này vẫn duy trì và đạt 14,8 lần so 
với thời điểm ban đầu. 
Hình 2. Tỷ lệ tăng mật độ VSV tại Bể 1 
Đối với nhóm VSV phân giải kitin, mật 
độ VSV thuộc nhóm này tăng 8,6 lần sau 
1 tuần và tăng lên 41,4 lần sau 4 tuần nuôi 
cấy sau đó mật độ VSV nhóm này bắt đầu 
giảm dần và sau 2 tháng thử nghiệm thì 
mật độ VSV thuộc nhóm này vẫn duy trì 
ở mức 9,3 lần so với thời điểm ban đầu. 
Đối với nhóm VSV phân giải tinh bột và 
phân giải xenlulo thì mật độ VSV thuộc 
các nhóm này cũng tăng lên nhưng mức 
độ tăng thấp hơn. Sau 1 tuần kể từ khi bổ 
sung chế phẩm thì mật độ VSV phân giải 
tinh bột tăng 4,0 lần trong khi đó mật độ 
VSV phân giải cellulose tăng khoảng 2,6 
lần. Sau thời gian 4 tuần kể từ khi bắt đầu 
bổ sung chế phẩm thì mật độ VSV thuộc 
nhóm phân giải tinh bột đạt 7,2 lần và mật 
độ VSV nhóm phân giải cellulose đạt 4,0 
lần sau đó mật độ của cả 2 nhóm này bắt 
đầu giảm, nhưng vẫn duy trì ở mức 1,7 
lần đối với nhóm phân giải tinh bột và 3,3 
lần đối với nhóm phân giải xenlulo sau 2 
tháng thử nghiệm. 
Đối với các bể số 2 và số 3, tỷ lệ chế 
phẩm bổ sung vào các bể này theo thể tích 
tương ứng là 5 và 1 ml nên mật độ các 
nhóm VSV bổ sung thấp hơn nhiều so với 
bể số 1. Từ Hình 3 và Hình 4 cho thấy, 
mật độ các nhóm VSV phân giải protein, 
kitin, tinh bột và xenlulo đều tăng lên sau 
khoảng thời gian thử nghiệm, tuy nhiên 
mức độ tăng thấp hơn so với Bể 1. 
Hình 3. Tỷ lệ tăng mật độ VSV tại Bể 2 
Hình 4. Tỷ lệ tăng mật độ VSV tại Bể 3 
Đối với bể số 4, từ Hình 5 cho thấy mật 
độ các nhóm VSV tương ứng gần như ít 
biến động sau thời gian thử nghiệm. 
 57 
Ngoài ra, ở tất cả các mẫu, mật độ VSV 
kỵ khí sau thời gian thử nghiệm 1 tuần 
cũng như trong suốt quá trình thử nghiệm 
đều có xu hướng giảm dần, điều này có 
thể do nguyên nhân chiều sâu của lớp 
nước và bùn nhỏ, khả năng khuếch tán 
oxy vào lớp nước và bùn tăng theo thời 
gian nên sẽ gây ức chế hoạt động của 
những nhóm VSV kỵ khí. 
Hình 5. Tỷ lệ tăng mật độ VSV tại Bể 4 
Hình 6 cho thấy khả năng thích ứng của 
chế phẩm thương mại so với chế phẩm 
thu nhận từ việc phân lập, tuyển chọn từ 
mẫu bùn và nước tại Âu thuyền. Ngay 
tuần đầu tiên sau khi bổ sung chế phẩm, 
mật độ các nhóm VSV tại bể 5 đều giảm 
đáng kể, điều này cho thấy khả năng thích 
ứng của các nhóm VSV là không tốt. 
Hình 6. Tỷ lệ tăng mật độ VSV tại Bể 1 và 5 
3.3. Đánh giá hiệu quả xử lý các thành 
phần hữu cơ có trong bùn 
Từ Hình 7 và 8 cho thấy, sau khi bổ sung 
chế phẩm thì hiệu quả xử lý các thành 
phần TOC và TN tăng lên rõ rệt. Mức độ 
xử lý tăng theo thời gian và thể tích chế 
phẩm bổ sung vào trong mẫu. Với hàm 
lượng TOC trung bình ban đầu trước khi 
bổ sung chế phẩm là 6575 mg/kg, sau 4 
tuần thử nghiệm thì hiệu quả xử hàm 
lượng TOC tại các bể 1, bể 2 bể 3 và 4 lần 
lượt là 22%, 6%, 5% và 4%. Giá trị này 
tăng tương ứng sau 2 tháng thử nghiệm 
lần lượt là 32, 22, 20 và 12%. 
Hình 7. Hiệu quả xử lý TOC tại các bể 
Đối với bể 4, mặc dù không được bổ sung 
chế phẩm, tuy nhiên sau 2 tháng xử lý thì 
lượng TOC cũng giảm khoảng 12%. Điều 
này chứng tỏ các nhóm VSV có khả năng 
phân hủy các thành phần có chứa cacbon 
hữu cơ đã có sẵn trong môi trường bùn 
của đáy Âu thuyền, tuy nhiên mật độ 
không cao nên hiệu quả xử lý chậm hơn. 
Hình 8. Hiệu quả xử lý TN tại các bể 
Đối với Bể 1 được bổ sung lượng chế 
phẩm là 10 ml thì tốc độ phân giải TOC 
tăng nhanh nhất trong thời gian 4 tuần đầu, 
 58 
sau đó tốc độ này tăng chậm lại. Điều này 
có thể được lý giải thông qua hàm lượng 
TOC trong bùn ở lớp bề mặt giảm dần sau 
thời gian xử lý đồng thời mật độ của các 
nhóm VSV có khả năng phân giải cabon 
hữu cơ ở lớp bùn cách bề mặt giảm dần. 
Đối với hàm lượng TN, từ Hình 8 cho 
thấy sau khi bổ sung chế phẩm vào trong 
bùn thì tốc độ phân giải TN trong mẫu 
cũng tăng lên đáng kể. Sau thời gian 5 
tuần kể từ khi bổ sung chế phẩm, hàm 
lượng TN trong bùn tại các bể 1, bể 2 và 
bể 3 đều giảm với tỷ lệ giảm tương ứng là 
32, 19 và 16%. Đối với bể 4, mặt dù 
không được bổ sung chế phẩm nhưng 
hàm lượng TN trong mẫu bùn thu nhận tại 
cùng thời điểm sau 5 tuần thử nghiệm 
cũng giảm khoảng 7%. Chứng tỏ có các 
nhóm VSV phân giải nitơ có trong bùn. 
Tương tự như TOC, tốc độ phân giải hàm 
lượng TN tại các bể tăng nhanh trong 
khoảng thời gian 5 tuần đầu kể từ khi bắt 
đầu thử nghiệm. Kể từ tuần 6 trở đi thì tốc 
độ phân giải này chậm hơn. Kết thúc quá 
trình sau 2 tháng thử nghiệm cho thấy 
hiệu quả xử lý hàm lượng TN trong các 
bể thử nghiệm lần lượt là 44, 31, 28 và 
14%. Từ kết quả trên ta có thể nhận định, 
đối với nhóm VSV phân giải nito thì khả 
năng thích ứng và phát triển tương đối 
mạnh, với thể tích chế phẩm bổ sung vào 
các bể lần lượt là 10, 5 và 1 ml thì sau 2 
tháng thử nghiệm, mật độ các nhóm vi 
sinh vật phân giải nitơ trong bùn tại Bể 1 
tăng nhanh nhất do đó hiệu quả xử lý tại 
bể này tương đối cao. 
4. KẾT LUẬN 
Quá trình thử nghiệm cho thấy, các chủng 
vi sinh vật được phân lập và tuyển chọn 
từ bùn và nước của Âu thuyền Thọ Quang 
có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt 
sau khi đưa trở lại môi trường của nó ở 
điều kiện phòng thí nghiệm. Kết quả cho 
thấy những chủng VSV này có khả năng 
thích ứng và hoạt động mạnh trong môi 
trường có chứa các thành phần hữu cơ 
như protein, kitin, xenlulo cao với điều 
kiện nồng độ muối của môi trường là 
23,5 ‰. Hiệu quả xử lý cao nhất các 
thành phần này được thể hiện thông qua 
mức độ giảm nồng độ TOC, TN tương 
ứng với 32 và 44% sau 2 tháng thử 
nghiệm. Như vậy, có thể khẳng định rằng 
VSV có vai trò rất lớn trong việc làm 
giảm thiểu các thành phần ô nhiễm có 
trong môi trường nước. Các số liệu thu 
được trong nghiên cứu hoàn toàn có giá 
trị rất cao, có thể là tiền đề cho những 
nghiên cứu chuyên sâu hơn, qua đó góp 
phần cải thiện chất lượng môi trường ở 
các lưu vực ven biển đang có nguy cơ ô 
nhiễm nặng tại Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. A. Sims, Y. Zhang, S. Gajaraj, P. B. 
Brown, Z. Hu, “Toward the development 
of microbial indicators for wetland 
assessment”, Water Research., 47, (5), 
1,1711-1725, (2013) . 
2. H. Cao, M. Li, H. Dang, J. D. Gu, 
“Responses of Aerobic and Anaerobic 
Ammonia/Ammonium - Oxidizing 
Microorganisms to Anthropogenic 
 59 
Pollution in Coastal Marine 
Environments”, Methods in Enzymology., 
496, 35-62, (2010). 
3. C. Ahn, R. M. Peralta, “Soil bacterial 
community structure and physicochemical 
properties in mitigation wetlands created 
in the Piedmont region of Virginia 
(USA)”, EcologicalEngineering., 35 (7), 
1036-1042, (2009). 
4. C. Dorador, A. Busekow, I. Vila, J. F. 
Imhoff, K. P. Witzel, “Molecular analysis 
of enrichment cultures of ammonia 
oxidizers from the Salar de Huasco, a 
high altitude saline wetland in northern 
Chile”, Extremophiles, 12(3), 405-414, 
(2008). 
5. R. Gorra, M. Coci, R. Ambrosoli, H. J. 
Laanbroek, “Effects of substratum on the 
diversity and stability of ammonia-
oxidizing communities in a constructed 
wetland used for wastewater treatment”, 
Journal of Applied Microbiology, 103 (5), 
1442.-1452 (2007). 
6. N. S. Moin, K. A. Nelson, A. Bush, A. 
E. Bernhard, “Distribution and diversity 
of archaeal and bacterial ammonia 
oxidizers in salt marsh sediments”, 
Applied and Environmental Microbiology, 
75(23), 7461-7468 (2009). 
7. L. Yan, R. Inamori, P. Gui, K. Q. Xu, 
H. N. Kong, M. Matsumura, Y. Inamori, 
“Distribution characteristics of ammonia-
oxidizing bacteria in the Typha latifolia 
constructed wetlands using fluorescent in 
situ hybridization (FISH)”, J. Environ. 
Sciences, 17(6), 993-997 (2005). 
8. S. Seitzinger, J. A. Harrison, J. K. 
Bohlke, A. F. Bouwman, R. Lowrance, B. 
Peterson, C. Tobias, G. V. Drecht, 
“Denitrification across landscapes and 
waterscapes: a synthesis”, Ecological 
Applications, 16, 2064-2090 (2006). 
9. T. E. Jordan, M. P. Andrews, R. P. 
Szuch, D. F. Whigham, D. E. Weller, A. 
D. Jacobs, “Comparing functional 
assessments of wetlands to measurements 
of soil characteristics and nitrogen 
processing”, Wetlands, 27, 479-497 
(2007). 
10. W. R. Boynton, J. D. Hagy, J. C. 
Cornwell, W. M. Kemp, S. M. Greene, M. 
S. Owens, J. E. Baker, R. K. Larsen, 
“Nutrient budgets and management 
actions in the Patuxent River estuary, 
Maryland”, Estuaries and Coasts, 31, 
623-651 (2008). 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
27371_91794_1_pb_6005_2096907.pdf