Application of remote sensing and GIS (Geographic Information System)
technologies found that: Fluctuation process of shoreline in O Loan lagoon became evident,
through which a general picture of the shoreline development in a long time from 1965 - 2014 has
been launched. The process of erosion - accretion evolutions occurred time by time. In which, the
period from 1965 - 1995 was the process of erosion - accretion and gradual northward movement
of O Loan lagoon inlet, with erosion area greater than deposition area. The period after 1995 was
the process of erosion and An Hai inlet opening during rainy season, coincident with northeast
monsoon and typhoon activity; and the process of accretion and An Hai inlet closing during dry
season, coincident with southwest monsoon.
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 621 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng công nghệ viễn thám và gis nghiên cứu quá trình dịch chuyển đường bờ và đóng/mở cửa đầm Ô Loan (Phú Yên) giai đoạn 1965 - 2014, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
242
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 15, Số 3; 2015: 242-249
DOI: 10.15625/1859-3097/15/3/7219
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ VIỄN THÁM VÀ GIS NGHIÊN CỨU
QUÁ TRÌNH DỊCH CHUYỂN ĐƯỜNG BỜ VÀ ĐÓNG/MỞ
CỬA ĐẦM Ô LOAN (PHÚ YÊN) GIAI ĐOẠN 1965 - 2014
Trần Văn Bình*, Tống Phước Hoàng Sơn, Nguyễn Đình Đàn, Phạm Bá Trung
Viện Hải dương học-Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
*E-mail: tranbinhion@gmail.com
Ngày nhận bài: 31-3-2015
TÓM TẮT: Trên cơ sở ứng dụng công nghệ viễn thám và GIS (hệ thông tin địa lý) cho thấy:
Quá trình biến động của đường bờ biển khu vực đầm Ô Loan được thể hiện rõ rệt, qua đó đã đưa ra
bức tranh tổng quát về quá trình phát triển của đường bờ, trong một thời gian dài từ năm 1965 -
2014. Các quá trình xói lở - bồi tụ diễn biến theo thời gian. Trong đó, thời kỳ từ năm 1965 - 1995 là
các quá trình xói lở - bồi tụ và dịch chuyển cửa biển đầm Ô Loan dần lên phía bắc, với diện tích bị
xói lở lớn hơn diện tích được bồi tụ. Thời kỳ từ sau năm 1995 đến nay là quá trình xói lở và mở cửa
biển An Hải chủ yếu xảy ra vào mùa mưa, trùng với thời kỳ gió mùa Đông Bắc và bão hoạt động,
còn bồi lấp cửa biển xảy ra vào mùa khô, trùng với thời kỳ gió mùa Tây Nam.
Từ Khóa: Viễn thám, đầm Ô Loan, cửa An Hải, xói lở - bồi tụ, đường bờ
MỞ ĐẦU
Ngày nay, bờ biển và vùng cửa sông, cửa
đầm phá đang được coi là một dạng tài nguyên
địa hình để khai thác phục vụ phát triển kinh tế
xã hội. Nhưng hiện tượng xói lở - bồi tụ, bồi
lấp cửa biển đã và đang dẫn đến những khó
khăn cho phát triển kinh tế xã hội. Để có được
kết quả của sự biến động đường bờ như: quá
trình dịch chuyển đường bờ, cửa sông, cửa đầm
phá và đóng/mở cửa biển một cách tương đối
chính xác, nhanh chóng, thì ngày nay có nhiều
phương pháp và nhiều cách tiếp cận khác nhau
có thể được lựa chọn để nghiên cứu sự biến
động đường bờ. Trong tất cả các phương pháp
nghiên cứu thì viễn thám và GIS là phương
pháp hiện đại, có khả năng giải quyết những
vấn đề ở tầm vĩ mô (về không gian) trong thời
gian ngắn. Với dữ liệu viễn thám có các ưu
điểm là đa thời gian, kênh phổ và độ phân giải,
đồng thời có độ phủ trùm vùng lãnh thổ nghiên
cứu lớn, nên đã được sử dụng để theo dõi biến
động bề mặt địa lý tự nhiên nói chung và
nghiên cứu biến động đường bờ nói riêng. Tuy
nhiên, nhược điểm là tần suất bay chụp lặp lại
không cao và giá thành không rẻ.
Ngoài ra, ứng dụng viễn thám và GIS còn
cho chúng ta thấy được toàn cảnh bức tranh tai
biến thiên nhiên như: tai biến xói lở, bồi tụ, quá
trình dịch chuyển và đóng mở cửa biển, những
tai biến này đã xảy ra và gây thiệt hại nghiêm
trọng, ảnh hưởng tới đời sống và sản xuất ở
nhiều địa phương. Do đó, bài báo trình bày về
tai biến xói lở - bồi tụ bờ biển, quá trình
đóng/mở và dịch chuyển cửa đầm Ô Loan (Phú
Yên), nhằm giảm thiểu thiệt hại, góp phần phát
triển kinh tế xã hội bền vững.
TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Tài liệu
Tài liệu tổng quan và khảo sát
Hải đồ tỷ lệ 1:50.000, lưới chiếu UTM, do
Hải quân Mỹ thành lập và xuất bản năm 1967
(số liệu năm 1965), tờ số 93E31 vụng Xuân Đài.
Ứng dụng công nghệ viễn thám và GIS
243
Báo cáo tổng kết đề tài KHCN 06.08, 2001:
“Nghiên cứu, dự báo hiện tượng xói lở-bồi tụ
bờ biển và cửa sông Việt Nam” do TSKH. Lê
Phước Trình làm chủ nhiệm và các tài liệu liên
quan đã công bố.
Báo cáo tổng kết đề tài độc lập 2007-2008:
“Đánh giá tác động của các trường sóng trong
gió mùa đến dải ven biển Nam Trung Bộ từ
Phú Yên đến Bình Thuận và đề xuất các giải
pháp giảm nhẹ thiệt hại phục vụ phát triển bền
vững”, chủ nhiệm: TS. Bùi Hồng Long và các
tài liệu liên quan.
Tài liệu khảo sát thực tế bao gồm các đợt
khảo sát: (11/2007, 8/2008,11/2009, 05/2010,
11/2010 và 05/2011).
Tài liệu các ảnh vệ tinh
Nguồn dữ liệu ảnh vệ tinh thu thập từ trang
web của Cơ quan Địa chất Hoa Kỳ [1], và
Trung tâm Dữ liệu và GIS - Viễn thám (Viện
Hải dương học). Các ảnh vệ tinh trong khu vực
nghiên cứu theo thời gian, được lựa chọn cho
một thời kỳ mùa khô và một thời kỳ kết hợp
cho mùa khô và mùa mưa (bảng 1).
Bảng 1. Các ảnh vệ tinh tại khu vực nghiên cứu
TT Loại ảnh Độ phân giải (m) Ngày chụp Giờ chụp Mực triều cao/thấp (m) [2]
2 Landsat2, MSS 60 12-03-1975 09:21’ AM 1,19/0,79
3 Landsat4, TM 30 03-06-1989 09:34’ AM 1,81/0,54
4 Landsat5, TM 30 09-04-1995 09:10’ AM 1,35/0,82
5 Landsat7, ETM+ 30 03-09-1999 09:54’ AM 1,04/1,03
6 Landsat7, ETM+ 30 27-07-2002 09:50’ AM 2,18/0,8
7 Alos, AVNIR2 10 20-06-2008 10:49’ AM 2,01/0,66
8 Formosat2 08 07-07-2009 10:47’ AM 1,82/0,71
9 Landsat8, OLI_TIRS 15 20-09-2014 10:01’ AM 2,28/0,51
Phương pháp viễn thám và GIS
Các ảnh vệ tinh được sử dụng trong bài
báo, sau khi được xử l ý ở phần mềm Envi như:
phân loại ảnh để tách đường bờ, khảo sát sơ đồ
phản xạ phổ của nước biển và các đối tượng
khác ven bờ. Để đồng bộ dữ liệu ảnh vệ tinh,
với mục tiêu đạt hiệu quả cao trong việc rút
trích đường mép nước cho khu vực nghiên cứu,
phương pháp được lựa chọn để giải đoán đường
bờ là Band Threshold - phân loại dựa vào giá
trị ngưỡng phân biệt đối tượng nghiên cứu với
tất cả đối tượng khác trên ảnh. Từ đó, được
xuất ra dữ liệu dạng ảnh và định dạng (*.TIF),
ban đầu không chứa lưới chiếu hệ tọa độ.
ILWIS là một trong những công cụ trong
GIS, được dùng để nắn ảnh và tính toán biến
động đường bờ rất nhanh và chính xác. Để tạo
cho các ảnh vệ tinh được sử dụng có chứa cùng
một hệ thống tọa độ trong cùng một hệ lưới
chiếu UTM, chúng tôi đã dùng bản đồ nền là
Hải đồ Mỹ, tỷ lệ 1/50 000, lưới chiếu UTM
(xuất bản năm 1967) là bản đồ để nắn các ảnh
vệ tinh thông qua những điểm khống chế
(control points). Những điểm khống chế này là
những điểm được xác định trước trên bản đồ
mà không bị thay đổi theo thời gian từ năm
1965 đến nay như: các điểm cầu trên đường sắt
(3 điểm), điểm cầu trên đường quốc lộ 1A
(4 điểm), phân bố đều trong khu vực nghiên
cứu. Sau đó, tìm trên các ảnh vệ tinh được sử
dụng có các mốc thời gian khác nhau, có cùng
các điểm khống chế như trên bản đồ, để nắn
các ảnh vệ tinh về cùng một hệ tọa độ bản đồ
thống nhất, trong cùng một hệ lưới chiếu.
Để khẳng định lại các điểm khống chế là
những điểm mốc cố định trên các ảnh vệ tinh
được sử dụng có trùng với các điểm khống chế
trên bản đồ mà không bị thay đổi theo thời gian
thì chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực tế, đo
đạc vị trí tại các điểm bằng định vị vệ tinh
(GPS cầm tay), để kiểm tra các điểm khống chế
có phải là mốc cố định hay không.
Sau khi các ảnh vệ tinh được sử dụng đã
được nắn chỉnh hoàn tất, chúng tôi tiến hành
xác định đường bờ chuẩn bằng giải đoán và
điều vẽ đường bờ (đường mép nước theo khái
niệm đường bờ).
Trong phạm vi nghiên cứu đối với các ảnh
viễn thám có độ phân giải như trong (bảng 1),
Trần Văn Bình, Tống Phước Hoàng Sơn,
244
để thành lập sơ đồ biến động đường bờ, đường
mép nước rút trích từ ảnh được xem như đường
bờ để làm dữ liệu cho việc phân tích và đánh
giá diễn biến đường bờ. Hiệu chỉnh đường bờ
cho từng ảnh được thực hiện như sau: tại khu
vực nghiên cứu, địa hình bãi và đường bờ được
cấu tạo chủ yếu là cát, bãi biển ở độ cao từ 0 -
2,5 m, có độ dốc từ 8 - 100, và dao động mực
triều không cao (bảng 1), nên trong quá trình
tính toán và rút trích đường bờ, đã được chúng
tôi hiệu chỉnh về mực triều trung bình.
Để thấy rõ được sự biến động đường bờ tại
khu vực bờ biển đầm Ô Loan, chúng tôi đã
dùng tổ hợp các phương pháp trong ILWIS
như: Phương pháp hiển thị bản đồ trọng số, về
sự biến động vùng bờ khu vực nghiên cứu, đã
được tích hợp từ hai lớp thông tin đường bờ
khác nhau. Từ đó, tính toán thống kê diện tích
bồi tụ, xói lở trong khu vực thông qua các bảng
thuộc tính, các bảng này được thiết lập cho
từng giai đoạn, từ các lớp thông tin về đường
bờ trên ảnh vệ tinh được sử dụng.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm địa hình bờ và bãi biển khu vực
nghiên cứu
Địa hình bờ biển khu vực đầm Ô Loan
được hình thành từ doi cát chắn trước cửa đầm
Ô Loan, phát triển từ khu vực Xuân Hòa đẩy
cửa đầm tiến dần về phía bắc. Thông thường
đầm Ô Loan thông với biển qua cửa Lễ Thịnh.
Tuy nhiên, vào các thời kỳ mưa lũ lớn thường
một cửa đầm mới được mở cắt qua doi cát chắn
tại vị trí gần như đối diện với cửa đầm
nguyên thủy.
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn như sau:
giới hạn trên đến bờ trong lạch triều, dưới là
phần bãi hướng biển và đường bờ kéo dài từ
phía nam cửa Lễ Thịnh đến Xuân Hòa, có tọa
độ từ (109018’03”E, 13016’41”N đến
109017’15”E, 13020’10”N) (hình 1). Bãi có
dạng hình cánh cung, kéo dài hơn 7 km và
được cấu tạo bởi trầm tích cát bở rời, chủ yếu
là cát hạt nhỏ đến cát trung - lớn chứa sỏi sạn
[3]. Địa hình bãi biển thuộc dạng bãi tích tụ -
xói lở do tác động của sóng chiếm ưu thế. Sự
biến đổi hình thái địa hình bãi theo mùa khá rõ,
bãi được bồi tụ vào mùa khô, bị xói lở vào mùa
mưa [4]. Bãi biển ở phía bắc (nam cửa Lể
Thịnh) ít bị biến đổi hơn so với ở phía Nam.
Địa hình bãi biển bị biến động mạnh là khu vực
xã An Hải. Tại đây, bãi bị xói lở mạnh và cửa
An Hải được mở vào mùa mưa khi có lũ lớn,
bồi lấp không còn cửa lưu thông vào mùa khô
hạn kéo dài. Nhìn chung, bề mặt bãi biển khá
bằng phẳng, độ cao trung bình của bãi từ 2,7 -
3,0 m và có độ dốc từ 0,5 - 10, nhưng ở độ cao
từ 0 - 2,5 m thì độ dốc thay đổi từ 8 - 100.
Hình 1. Sơ đồ vị trí và phạm vi
khu vực nghiên cứu
Kết quả tích hợp tính toán biến động đường
bờ khu vực đầm Ô Loan
Qua phân tích dữ liệu gồm bản đồ và các
ảnh vệ tinh đã có từ năm 1965 đến 2014 thấy
rằng, quá trình biến động bờ biển tại khu vực
đầm Ô Loan diễn ra rất phức tạp, trong đó có
sự xói lở bồi tụ xen kẽ và dịch chuyển cửa biển
dần lên phía bắc - hiện tại là cửa biển Lễ Thịnh,
và liên tục xảy ra quá trình đóng - mở cửa biển
ở phía nam (cửa biển An Hải) như sau:
Ứng dụng công nghệ viễn thám và GIS
245
Sự biến động đường bờ khu vực đầm Ô Loan,
thời kỳ từ năm 1965 - 1995
Giai đoạn từ năm 1965 - 1975: Là kết quả
tích hợp đường bờ năm 1965 (Hải đồ Mỹ) và
đường bờ rút trích từ ảnh vệ tinh. Trong giai
đoạn này, khu vực bờ biển đầm Ô Loan có sự
biến động mạnh mẽ (hình 2), diện tích bị xói lở
lớn hơn diện tích được bồi tụ (bảng 2), cửa biển
năm 1965 tại vị trí có tọa độ (13018’38”N;
109017’19”E) có hướng đông bắc - tây nam và
chiều rộng của cửa khoảng 143 m, đã bị bồi lấp
hoàn toàn, nhưng hai bên cửa bị bồi lấp trong
năm 1975, thì bờ biển lại bị xói lở nhẹ, chiều
dài bờ bị xói lở ở phía nam gần 200 m, chiều
dài bờ bị xói lở ở phía bắc gần 300 m. Mặc dù,
hai bên cửa biển bị xói lở, nhưng đoạn cách cửa
gần 200 m, hướng về phía nam, bờ biển lại
được bồi tụ, với chiều dài đoạn bờ được bồi tụ
gần 2,5 km, và có chiều rộng chỗ bồi lớn nhất
chừng gần 20 m, bãi biển được mở rộng ra về
phía biển. Đến năm 1975 thì cửa biển đầm Ô
Loan đã được dịch chuyển lên phía bắc, cách
cửa biển năm 1965 khoảng chừng 1.275 m, tại
vị trí có tọa độ (13019’20,61”N;
109017’11,36”E), chiều rộng cửa biển hẹp hơn
cửa biển năm 1965, chỉ gần 64 m. Cửa có
hướng đông nam - tây bắc. Đoạn bờ phía bắc
cửa biển năm 1975 kéo dài lên phía bắc gần
1,25 km bị xói lở mạnh, đường bờ dịch chuyển
về phía tây.
Giai đoạn từ năm 1975 - 1989: Ở giai đoạn
này đoạn bờ và bãi biển khu vực đầm Ô Loan
cũng bị biến động rất mạnh (hình 2), diện tích
được bồi tụ cho khu bờ chỉ 16,20 ha nhưng
diện tích bị xói lở 60,33 ha (bảng 2), cửa biển
năm 1975 được bồi lấp và đóng lại hoàn toàn.
Thay vào đó đoạn lạch triều đầm Ô Loan có
chiều dài hơn 1,6 km bị xói lở mạnh kèm theo
quá trình dịch chuyển cửa biển lên phía bắc.
Đến năm 1989 thì cửa biển đầm Ô Loan ở phía
bắc tại vị trí có tọa độ (13020’03,00”N;
109017’31,07”E) và có chiều rộng gần 255 m,
được gọi là cửa Lễ Thịnh. Mặt khác, mở thêm
một cửa ở phía nam, đối điện với cửa đầm
nguyên thủy, có tọa độ (13017’26”N;
109017’55,66”E), chiều rộng cửa biển khoảng
125 m, được gọi là cửa An Hải.
Giai đoạn từ năm 1989 - 1995: Giai đoạn
này, bờ biển có phần ổn định hơn, cửa biển An
Hải vào năm 1989 được mở nhưng đến năm
1995 thì bị bồi lấp hoàn toàn. Mặt khác, đoạn
bờ từ phía bắc, tại vị trí có tọa độ
(13019’38,81”N; 109017’17,0”E), cách cửa Lễ
Thịnh chừng 700 m về phía nam (hình 2), chạy
dọc bờ biển xuống phía nam tới Xuân Hòa, có
chiều dài hơn 6 km được bồi tụ đáng kể, nơi
rộng nhất ở phần bãi được bồi tụ gần 24 m,
đường bờ dịch chuyển về phía đông. Ngoài ra,
ở khu vực cửa Lễ Thịnh cũng được bồi, cửa
biển bị thu hẹp lại, với chiều rộng chỉ còn
khoảng 160 m. Ở giai đoạn này thì diện tích bị
xói lở không đáng kể (bảng 2).
Hình 2. Sơ đồ vị trí đường bờ
thời kỳ 1965 - 1995
Sự biến động đường bờ khu vực đầm Ô Loan
thời kỳ từ năm 1995 - 2014
Ở thời kỳ này, khi cửa biển đầm Ô Loan đã
được đẩy lên phía bắc, hiện tại là cửa Lễ Thịnh
thì đoạn bờ biển ở phía nam cửa Lễ Thịnh
(thuộc bờ biển khu vực đầm Ô Loan) lại có sự
biến đổi theo mùa. Đó là hiện tượng đóng mở
Trần Văn Bình, Tống Phước Hoàng Sơn,
246
cửa theo mùa và di động theo chu kỳ dưới tác
động tổng hợp tương tác của các điều kiện lục
địa và biển. Sự xói lở - bồi tụ, đồng thời đóng
mở cửa biển, có thể được mô tả chi tiết ở từng
giai đoạn như sau:
Giai đoạn từ năm 1995 - 1999: Trong giai
đoạn này, phía nam cửa biển Lễ Thịnh, đoạn bờ
phía tây bị xói lở, đoạn bờ biển phía đông và
đông bắc được bồi tụ nối thêm vào doi cát, với
chiều dài gần 200 m, đã làm thu hẹp cửa biển,
chiều rộng cửa biển chừng 51 - 52 m (hình 3).
Hình 3. Sơ đồ vị trí đường bờ
thời kỳ 1995 - 2009
Tại cửa biển An Hải, vào năm 1995 đã bị
bồi lấp hoàn toàn thì vào năm 1999 đã mở ra
với chiều rộng gần 70 m. Phía trong cửa, tại
đoạn bờ phía nam bị xói lở mạnh, đoạn bờ ở
phía bắc được bồi tụ đáng kể. Ngoài ra, dọc
đoạn bờ biển khu vực đầm Ô Loan được bồi tụ
đáng kể, chỗ rộng nhất gần 20 m. Ở giai đoạn
này, diện tích bồi tụ lớn hơn diện tích xói lở
(bảng 2).
Bảng 2. Diện tích bồi tụ - xói lở ở từng giai
đoạn tại khu vực bờ biển đầm Ô Loan
Vị trí Giai đoạn Diện tích bồi tụ (ha)
Diện tich
xói lở (ha)
Đoạn bờ:
Từ
109018’11”E
13016’50”N
đến
109017’16”E
13020’10”N
1965-1975 32,66 41,00
1975-1989 16,20 60,33
1989-1995 41,87 8,57
1995-1999 19,77 12,48
1999-2002 13,76 27,27
2002-2008 21,77 8,83
2008-2009 0,26 3,04
Giai đoạn từ năm 1999 - 2002: Trong giai
đoạn này, phía nam cửa Lễ Thịnh, tại bờ phía
tây vẫn bị xói lở, nhưng vùng phía ngoài cửa có
chiều dài gần 1,3 km được bồi tụ nhẹ, chỗ bãi
được bồi rộng nhất gần 16 m. Kế tiếp đoạn bờ
này, dọc xuống phía nam đến Xuân Hòa, bờ bị
xói lở mạnh, đoạn bờ bị xói lở mạnh nhất tại
khu vực cửa biển An Hải, bờ dịch chuyển vào
đất liền gần 60 m.
Cửa biển An Hải năm 1999 bị bồi lấp
hoàn toàn, đoạn bờ phía nam vùng trong cửa
được bồi tụ đáng kể, đoạn bờ ở phía bắc cửa
An Hải bị xói lở mạnh. Vào năm 2002 cửa biển
đã được mở dịch về phía bắc, cách cửa biển
năm 1999 khoảng 120 m, có hướng đông nam -
tây bắc.
Trong trường hợp này cũng có thể l ý giải
rằng: cửa biển An Hải từ năm 1999 đến năm
2002 không bị bồi lấp mà là quá trình dịch
chuyển cửa biển dần lên phía bắc dưới tác động
tổng hợp của các điều kiện từ lục địa và biển. Ở
giai đoạn này, diện tích bị xói lở lớn gấp hai lần
diện tích bồi tụ (bảng 2).
Giai đoạn từ năm 2002 - 2008: Ở giai
đoạn này, tại khu vực cửa biển Lễ Thịnh, đoạn
bờ phía tây bị xói lở nhẹ, đoạn bờ phía đông
bắc và phía đông vẫn tiếp tục được bồi tụ, cửa
biển bị thu hẹp, chiều rộng cửa chỉ còn gần
32 m. Tại khu vực cửa An Hải bị bồi lấp hoàn
toàn. Ngoài ra, khu vực lân cận cũng bị bồi tụ
đáng kể, xói lở chỉ xảy ra ở bên trong, phía hai
bên bờ lạch triều. Trong giai đoạn này, diện
tích bị xói lở nhỏ hơn diện tích bồi tụ (bảng 2).
Giai đoạn từ năm 2008 - 2009: Trong giai
đoạn này, bắt đầu từ tháng 6/2008 đến tháng
7/2009, đoạn bờ khu vực đầm Ô Loan ít bị biến
đổi, hiện tượng xói lở - bồi tụ không đáng kể,
Ứng dụng công nghệ viễn thám và GIS
247
chỉ xảy ra ở đoạn bờ phía bắc, khu vực phía
nam cửa Lễ Thịnh. Phía trong cửa được bồi tụ
nhẹ, phía đông với chiều dài đoạn bờ khoảng
gần 1,3 km bị xói lở mạnh, chỗ bị xói lở mạnh
nhất gần 30 m, bãi biển bị thu hẹp và bờ biển
dịch chuyển về phía tây, diện tích bị xói lở gần
3,04 ha, diện tích bồi tụ gần 0,26 ha.
Giai đoạn từ năm 2009 - 2014: Ở giai
đoạn này, hiện tượng xói lở - bồi tụ xen kẻ trên
từng đoạn bờ, đặc biệt là vùng cửa Lễ Thịnh,
quá trình bồi tụ chiếm ưu thế, đã làm thu hẹp
cửa biển. Tại khu vực cửa An Hải, trong thời
gian từ 7/2009 - 5/2011 được mở vào mùa mưa
và đóng cửa biển vào mùa khô, từ sau 5/2011
đên nay thì không còn hiện tượng mở cửa biển
(hình 4).
Hình 4. Sơ đồ vị trí đường bờ
thời kỳ 2009 - 2014
Đánh giá chung sự biến động bờ biển tại khu
vực đầm Ô Loan theo thời gian
Đánh giá chung về quá trình biến động bờ
biển khu vực đầm Ô Loan từ 1965 - 2014, theo
kết quả tích hợp tính toán và đo đạc, thì quá
trình xói lở - bồi tụ tại khu bờ biển đầm Ô Loan
diễn biến theo thời gian và theo mùa, biến động
mạnh sau những cơn bão kèm theo mưa lớn
gây lũ lụt tại khu vực nghiên cứu (số liệu khảo
sát từ năm 2007 - 2011).
Vào năm 1965, thì đầm Ô Loan chỉ có một
cửa duy nhất nằm ở vị trí có tọa độ
(13018’38”N; 109017’19”E), nhưng sau hơn 20
năm thì cửa biển này đã dịch chuyển lên phía
bắc, điều này cũng đúng với nhận định rằng
“cửa đầm Ô Loan dịch chuyển lên phía bắc”
(Lê Phước Trình và đồng nghiệp, 2001), cách
cửa biển năm 1965 khoảng 2.840 m, hiện là
cửa biển Lễ Thịnh, cũng là cửa chính đễ trao
đổi nước giữa đầm Ô Loan với biển.
Theo kết quả tích hợp hiện trạng đường bờ
ở các giai đoạn cho thấy: sự biến động đường
bờ trong thời gian từ năm 1965 - 2014, có sự
khác biệt rõ rệt. Thời kỳ từ năm 1965 đến 1995
là quá trình dịch chuyển cửa đầm Ô Loan, và
có sự xói lở - bồi tụ xen kẽ, diện tích bị xói lở
lớn hơn rất nhiều so với diện tích được bồi tụ
(bảng 2). Thời kỳ từ năm 1995 - 2014, khi có
cửa biển phía bắc (cửa Lễ Thịnh) luôn được
duy trì tồn tại, đoạn bờ ở phía nam luôn bị biến
đổi mạnh.
Sự biến đổi đường bờ mạnh nhất tại khu
vực cửa An Hải, trong thời gian từ năm 2007 -
2011 [4, 5]. Tại khu vực này, cửa biển liên tục
xảy ra hiện tượng mở rồi lại bị bồi lấp, có khi
dịch chuyển lên phía bắc chừng vài trăm mét
(hình 4), điều này cũng đúng với nhận định là
quá trình dịch chuyển cửa An Hải dần lên phía
bắc trong chu kỳ năm [6]. Từ năm 2012 - 2014,
bờ biển tương đối ồn định nhưng quá trình bồi
cạn và thu hẹp vùng cửa Lễ Thinh, đã gây ra
không ít khó khăn cho vùng.
Như vậy, bờ biển khu vực đầm Ô Loan
trong thời gian từ năm 1965 đến năm 2014,
ngoài các quá trình dịch chuyển cửa biển, còn
có các hiện tượng xói lở, bồi tụ xen kẽ và các
quá trình đóng - mở cửa biển liên tục xảy ra.
Với thời kỳ từ năm 1965 - 1995: là quá trình
xói lở - bồi tụ và dịch chuyển cửa biển về phía
bắc, do tác động chủ yếu của các quá trình
thủy-thạch-động lực (Bùi Hồng Long và đồng
nghiệp, 2009) và ảnh hưởng của kiến tạo địa
chất trong khu vực, của biển di chuyển hướng
Trần Văn Bình, Tống Phước Hoàng Sơn,
248
về vùng hạ lún sông Cầu (Tuy An) [7]. Còn
thời kỳ từ sau năm 1995 đến 2014 là quá trình
xói lở bờ biển, đồng thời liên tục xảy ra quá
trình mở cửa biển An Hải vào mùa mưa khi có
lũ lớn kết hợp với sự tác động của con người và
bồi lấp cửa thường vào mùa khô [5]. Sự biến
động bờ biển tại khu vực ngày càng diễn ra
phước tạp hơn, nhất là những năm gần đây,
nắng hạn kéo dài vào mùa khô, mùa mưa
thường có bão lũ, đã tác động đến khu bờ biển
đầm Ô Loan làm thay đổi hình thái bãi và bờ
biển. Hiện tượng xói lở - bồi tụ xảy ra mạnh,
quá trình đóng mở cửa biển thường xảy ra, đã
gây thiệt hại và tổn thất nghiêm trọng, ảnh
hưởng không ít đến đời sống và sản xuất cư dân
địa phương. Nhất là quá trình bồi lấp cửa biển
An Hải, đã cản trở tàu ghe ra vào và sự lưu
thông trao đổi nước giữa đầm với biển.
KẾT LUẬN
Theo thời gian từ năm 1965 đến năm 2014,
sự biến động đường bờ tại khu vực bờ biển
đầm Ô Loan được thể hiện rất rõ trên các sơ đồ
kết quả. Các quá trình bờ là xói lở - bồi tụ, dịch
chuyển và đóng mở cửa biển diễn ra mạnh mẽ
trong các thời kỳ:
Thời kỳ 1965 - 1995: là quá trình xói lở -
bồi tụ và dịch chuyển cửa đầm Ô Loan dần về
phía bắc.
Thời kỳ 1995 - 2014: là quá trình xói lở -
bồi tụ, đóng - mở cửa biển tại vị trí cửa An Hải,
cửa này thường được mở vào mùa mưa khi có
lũ lớn, đôi khi có cả sự tác động của con người
và bồi lấp cửa thường vào mùa khô, có khi chỉ
sau một vài tháng vào mùa khô là bị bồi lấp
hoàn toàn. Ngoài ra, còn thấy hiện tượng dịch
chuyển cửa An Hải, với xu thế dịch chuyển cửa
dần về phía bắc.
Trong khu vực nghiên cứu, không xảy ra
hiện tượng xói lở hay bồi tụ liên tục cho một
đoạn bờ xác định. Đường bờ luôn có xu thế cân
bằng, nghĩa là có hiện tượng xói đoạn bờ này
trong thời kỳ gió mùa Đông Bắc hoặc trong
giai đoạn này thì lại bồi trong thời kỳ gió mùa
Tây Nam hoặc ở giai đoạn khác, sự xói lở - bồi
tụ xen kẽ. Việc ứng dụng của bài báo vào thực
tế có ích cho các nhà quản lý và sử dụng phát
triển lãnh thổ. Mặt khác, đây cũng là kết quả
cho thấy hiện tượng bồi tụ - bồi lấp cửa biển
khu vực đầm Ô Loan, để tìm cách khắc phục
phòng chống và giảm nhẹ thiệt hại, đem lại
cuộc sống yên bình cho người dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
nload/
3. Trịnh Thế Hiếu, 1980. Đặc điểm trầm tích
các bãi cát hiện đại ven bờ biển Phú Khánh.
Tuyển tập nghiên cứu biển, tập II-2. Tr.
165-178.
4. Trần Văn Bình, Trịnh Thế Hiếu, 2010. Sự
biến đổi hình thái địa hình bãi và đường bờ
tại một số khu vực bờ biển Nam Trung Bộ
theo thời gian (2007 - 2008). Tạp chí Khoa
học và Công nghệ biển, 10(2): 15-29.
5. Trần Văn Bình, Lê Đình Mầu, 2012. Quá
trình xói lở - bồi tụ và hiện trạng đóng - mở
cửa tại khu vực đầm Ô Loan (Phú Yên).
Tạp chí Tạp chí Khoa học và Công nghệ
biển, 12(3): 24-33.
6. Lê Phước Trình, Bùi Hồng Long, Lê Đình
Mầu, Phạm Bá Trung, 2011. Về những cấu
trúc thủy động lục đặc thù gây xói lở - bồi
tụ tại dải ven bờ Nam Trung Bộ. Tạp chí
Khoa học và Công nghệ biển 11(3): 15-30.
7. Trịnh Thế Hiếu, Lê Phước Trình, Tô Quang
Thịnh, 2005. Hiện trạng và dự báo sự biến
động bờ biển và các cửa sông ven biển Việt
Nam. Tuyển tập báo cáo Hội nghị 60 năm
Địa chất Việt Nam. Hà Nội. Tr. 359-366.
Ứng dụng công nghệ viễn thám và GIS
249
APPLICATION OF REMOTE SENSING AND GIS TECHNOLOGIES
TO RESEARCHING SHORELINE FLUCTUATION PROCESS
AND INLET OPENING/CLOSING IN O LOAN LAGOON
(PHU YEN) FROM 1965 TO 2014
Tran Van Binh, Tong Phuoc Hoang Son, Nguyen Dinh Dan, Pham Ba Trung
Institute of Oceanography-VAST
ABSTRACT: Application of remote sensing and GIS (Geographic Information System)
technologies found that: Fluctuation process of shoreline in O Loan lagoon became evident,
through which a general picture of the shoreline development in a long time from 1965 - 2014 has
been launched. The process of erosion - accretion evolutions occurred time by time. In which, the
period from 1965 - 1995 was the process of erosion - accretion and gradual northward movement
of O Loan lagoon inlet, with erosion area greater than deposition area. The period after 1995 was
the process of erosion and An Hai inlet opening during rainy season, coincident with northeast
monsoon and typhoon activity; and the process of accretion and An Hai inlet closing during dry
season, coincident with southwest monsoon.
Key words: Remote sensing, O Loan lagoon, An Hai inlet, erosion - accretion, shoreline.
Trần Văn Bình, Tống Phước Hoàng Sơn,
250
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7219_26890_1_pb_2395_2079689.pdf