Vai trò của VEP như một kỹ thuật hổ trợ
chẩn đoán trong những trường hợp nghi ngờ
tổn thương TKT sau chấn thương sọ mặt đã
được biết đến cách đây đã lâu (từ năm 1973),
nhưng những kỹ thuật trước đây không đem
lại hiệu quả và không thực tiễn để ứng dụng.
Gần đây, với những kỹ thuật tiến bộ để tạo ra
những kích thích mẫu và không mẫu (flash
VEP), việc đo VEP trở nên dễ dàng và chính
xác hơn, và được ứng dụng rộng rãi hơn.
Do VEP bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố,
như những thông số kích thích và bệnh nhân,
kỹ thuật ghi thích hợp và sự phân tích kết quả
chính xác đòi hỏi phải được tập huấn và có
kiến thức sâu về lĩnh vực này.
Nếu được ứng dụng linh hoạt, VEP sẽ
nhanh chóng cho biết những tổn thương TKT
sau chấn thương sọ mặt. VEP có thể tác động
trong việc chỉ định sự can thiệp điều trị nhanh
chóng cần thiết.
Bệnh lý TKT do chấn thương biểu hiện trên
VEP với hai đặc điểm chính là giảm biên độ và
kéo dài thời gian tiềm. Trong đó:
- Biên độ VEP bên mắt tổn thương giảm
còn 0,30 ± 0,48 lần so với bên mắt còn lại.
- Thời gian tiềm bên mắt tổn thương kéo dài
hơn khoảng 16,89 ± 18,8 ms so với mắt còn lại.
Biên độ có độ nhạy là 95,83%, độ đặc hiệu
là 62,5%
Thời gian tiềm có độ nhạy là 80%, độ đặc
hiệu là 60%
Sự giảm biên độ trong bệnh lý TKT do
chấn thương biểu hiện rõ ràng hơn, phản ánh
tình trạng tổn thương sợi trục. Do đó có thể
nói biên độ là đại lượng đặc trưng của VEP
trong bệnh lý TKT do chấn thương. Độ nhạy
của biên độ rất cao (95,83%), cho thấy khả
năng phát hiện bệnh của test VEP trong bệnh
lý TKT do chấn thương là rất cao.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
6 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 425 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng điện thế gợi thị giác trong chẩn đoán bệnh lý thần kinh thị do chấn thương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỨNG DỤNG ĐIỆN THẾ GỢI THỊ GIÁC TRONG CHẨN ĐOÁN 
BỆNH LÝ THẦN KINH THỊ DO CHẤN THƯƠNG 
Lê Minh Tuấn*, Nguyễn Lễ** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Xác định giá trị chẩn đoán của VEP trong bệnh lý TKT do chấn thương. 
Phương pháp: Tiến hành đo VEP trên 24 bệnh nhân được chẩn đoán lâm sàng là có bệnh lý TKT do chấn 
thương. So sánh các giá trị đo được giữa hai mắt (mắt tổn thương và mắt còn lại). 
Kết quả: Trong 24 trường hợp đo VEP với chẩn đoán lâm sàng có bệnh lý TKT do chấn thương, có 9 trường hợp 
(37,5%) không có sóng đáp ứng, có 1 trường hợp (4,17%) VEP bình thường và 14 trường hợp (58,33%) VEP bất 
thường. Mắt bình thường có biên độ: 6,89 ± 4,75 μV, thời gian tiềm: 96,29 ± 5,02 ms. Mắt tổn thương có biên độ: 1,48 
± 1,60 μV, thời gian tiềm: 113,18 ± 19,43 ms. 
Kết luận: Trong bệnh lý TKT do chấn thương, VEP có biên độ giảm và thời gian tiềm kéo dài, trong đó biên độ 
giảm là quan trọng hơn. VEP là một xét nghiệm cận lâm sàng cho giá trị chẩn đoán cao. 
ABSTRACT 
THE USED OF VISUAL EVOKED POTENTIALS IN TRAUMATIC OPTIC NEUROPATHY 
Le Minh Tuan, Nguyen Le * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 140 – 143 
Purpose: to indicate the role of VEP in diagnostic of traumatic optic neuropathy(TON). 
Methods: Recording VEP for 24 patients with have TON in clinical. To bring into comparison the results from 2 
eyes (affected/ fellow eye). 
Result: in 24 patients recorded VEP, 9 cases (37.5%) were absent (unrecorded), 1 case (4.17%) was normal and 
14 cases (58.33%) were abnormal. In the affected eye: amplitude is 1.48 ± 1.60 μV, latency is 113.18 ± 19.43 ms. In the 
contralateral eye: amplitude is 6.89 ± 4.75 μV, latency is 96.29 ± 5.02 ms. 
Conclusion: in traumatic optic neuropathy, VEP indicate the decrease of amplitude and delay of latency 
(amplitude decrease is signal). 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh lý TKT do chấn thương (Traumatic 
Optic Neuropathy) đã được biết đến từ rất lâu 
và cho đến nay việc chẩn đoán chủ yếu vẫn 
dựa vào lâm sàng. 
Ngày nay, sự tăng đột biến tai nạn giao 
thông ở cộng đồng. Bệnh lý TKT do CT cũng 
tăng theo trong thời gian gần đây. 
Điện thế gợi thị giác (Visual Evoked 
Potentials - VEP) được ghi lại từ sóng đáp ứng 
của vỏ não đối với kích thích ánh sáng của 
TKT. Trong bệnh lý TKT chấn thương, hình 
dạng sóng sẽ bị biến đổi, theo các nhà nghiên 
cứu trước đây thì có hiện tượng kéo dài thời 
gian tiềm (Latency) và đặc biệt là giảm biên độ 
sóng (Amplitude) 
VEP là một kỹ thuật thăm dò chức năng 
TKT môt cách định lượng, không xâm lấn. 
Trên cơ sở này, chúng tôi muốn nghiên 
cứu hiệu quả của việc đo VEP với hy vọng 
củng cố thêm độ tin cậy cho việc chẩn đoán 
bệnh lý TKT do chấn thương. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
24 bệnh nhân được chẩn đoán là có bệnh lý 
TKT do chấn thương, được nhập viện và điều 
trị tại khoa Mắt và Ngoại Chấn Thương BV 
* Bộ môn Mắt, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh 
** Khoa Mắt, BV. Đà Nẵng 
Chợ Rẫy từ ngày 01/6/2006 đến 31/5/2007. 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang có 
phân tích. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
3 tiêu chuẩn chính 
- Tiền sử chấn thương vùng đầu mặt 
- Thị lực giảm 
- Khiếm khuyết đồng tử hướng tâm. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
- Những bệnh lý mắt đã có từ trước. 
- Những nguyên nhân gây tổn hại đường 
đồng tử hướng tâm: 
 + Chấn thương võng mạc nặng. 
 + Xuất huyết dịch kính nặng. 
- Những trường hợp thị lực thấp sau chấn 
thương không liên quan đến TKT: Chấn thương 
nhãn cầu hở, chấn thương TTT. Bong võng mạc, 
rách hắc mạc, xuất huyết dịch kính  
- Những BN không hợp tác đo VEP. 
Cách tiến hành nghiên cứu 
- Khai thác bệnh: Tiền sử, bệnh sử chấn 
thương, tác nhân gây bệnh, thời gian bị 
thương, thời gian xuất hiện những triệu chứng 
ở mắt. 
- Đo thị lực. 
- Khám phản xạ đồng tử trực tiếp, gián tiếp. 
- Khám sinh hiển vi phát hiện các tổn 
thương bán phần trước. 
- Soi đáy mắt. 
- Đo VEP: 
 + Giải thích cho BN hiểu cách đo và 
hợp tác tốt. 
 + Nhập tên, tuổi, giới, chẩn đoán vào máy. 
 + Cho BN ngồi cách màn hình 1 mét, 
nhìn thẳng vào giữa màn hình, tư thế thỏa 
mái, thở đều, không gồng cơ. 
 + Đặt điện cực: 
 * Điện cực nối đất: tai phải 
 * Điện cực đối chiếu: giữa trán (Fz) 
 * Điện cực hoạt động: gồm 3 điện cực: 
điện cực giữa trên ụ chẩm 5cm (Oz), điện cực 
trái (O1) và phải (O2)trên đường ngang cách 
điện cực giữa 5cm. 
(Các điện cực được mắc theo sơ đồ 10 - 20 
của hiệp hội chẩn đoán điện quốc tế) 
 + Đo từng mắt riêng bằng cách che mắt 
còn lại. 
 + Đo mỗi mắt 2 lần, mỗi lần 2 phút, 
máy sẽ tự động cho kết quả trung bình về biên 
độ và thời gian tiềm. 
 + Lưu và in kết quả. 
KẾT QUẢ 
Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2006 
đến tháng 5/2007, với đề tài “ứng dụng điện 
thế gợi thị giác trong chẩn đoán bệnh lý TKT 
do chấn thương”, chúng tôi đã khảo sát trên 24 
bệnh nhân với chẩn đoán bệnh lý TKT do chấn 
thương và tiến hành đo VEP cho những bệnh 
nhân này. Kết quả như sau: 
Các giá trị biên độ và thời gian tiềm P100 
của VEP 
Trên mắt bình thường 
- Biên độ: 6,89 ± 4,75 μV 
- Thời gian tiềm: 96,29 ± 5,02 ms 
Trên mắt tổn thương: 
- Biên độ: 1,48 ± 1,60 μV 
- Thời gian tiềm: 113,18 ± 19,43 ms 
Ở mắt có bệnh lý TKT do chấn thương, 
biên độ giảm rất nhiều so với mắt bình thường 
Tỉ lệ biên độ trung bình của mắt tổn 
thương so với mắt bình thường là 0,30 ± 0,48. 
Ở mắt có bệnh lý TKT do chấn thương, thời 
gian tiềm kéo dài hơn so với mắt bình thường. 
Khoảng thời gian kéo dài trung bình của 
mắt tổn thương so với mắt bình thường là 
16,89 ± 18,8 ms. 
Có sự tương quan giữa VEP và thị lực, trong 
đó biên độ VEP giảm đi đôi với thị lực giảm. 
Độ nhạy, độ đặc hiệu 
Biên độ có độ nhạy là 95,83%, độ đặc hiệu 
là 62,5%, thời gian tiềm có độ nhạy là 80%, độ 
đặc hiệu là 60%. 
Giá trị VEP trong chẩn đoán 
Là một xét nghiệm có giá trị chẩn đoán cao: 
giá trị test (+) là 95,83%, giá trị test (-) là 62,5%. 
BÀN LUẬN 
Vai trò của VEP như một kỹ thuật hổ trợ 
chẩn đoán trong những trường hợp nghi ngờ 
tổn thương TKT sau chấn thương sọ mặt đã 
được biết đến cách đây đã lâu (từ năm 1973), 
nhưng những kỹ thuật trước đây không đem 
lại hiệu quả và không thực tiễn để ứng dụng. 
Gần đây, với những kỹ thuật tiến bộ để tạo ra 
những kích thích mẫu và không mẫu (flash 
VEP), việc đo VEP trở nên dễ dàng và chính 
xác hơn, và được ứng dụng rộng rãi hơn. 
Do VEP bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, 
như những thông số kích thích và bệnh nhân, 
kỹ thuật ghi thích hợp và sự phân tích kết quả 
chính xác đòi hỏi phải được tập huấn và có 
kiến thức sâu về lĩnh vực này. 
Nếu được ứng dụng linh hoạt, VEP sẽ 
nhanh chóng cho biết những tổn thương TKT 
sau chấn thương sọ mặt. VEP có thể tác động 
trong việc chỉ định sự can thiệp điều trị nhanh 
chóng cần thiết. 
Bệnh lý TKT do chấn thương biểu hiện trên 
VEP với hai đặc điểm chính là giảm biên độ và 
kéo dài thời gian tiềm. Trong đó: 
- Biên độ VEP bên mắt tổn thương giảm 
còn 0,30 ± 0,48 lần so với bên mắt còn lại. 
- Thời gian tiềm bên mắt tổn thương kéo dài 
hơn khoảng 16,89 ± 18,8 ms so với mắt còn lại. 
Biên độ có độ nhạy là 95,83%, độ đặc hiệu 
là 62,5% 
Thời gian tiềm có độ nhạy là 80%, độ đặc 
hiệu là 60% 
Sự giảm biên độ trong bệnh lý TKT do 
chấn thương biểu hiện rõ ràng hơn, phản ánh 
tình trạng tổn thương sợi trục. Do đó có thể 
nói biên độ là đại lượng đặc trưng của VEP 
trong bệnh lý TKT do chấn thương. Độ nhạy 
của biên độ rất cao (95,83%), cho thấy khả 
năng phát hiện bệnh của test VEP trong bệnh 
lý TKT do chấn thương là rất cao. 
VEP là một kỹ thuật thăm dò chức năng 
thần kinh không xâm lấn, không phức tạp, 
tương đối dễ thực hiện và cho kết quả chính 
xác. Do đó có thể ứng dụng VEP trong chẩn 
đoán bệnh lý TKT do chấn thương khi trên 
lâm sàng còn lập lờ. 
Những trường hợp không khám được dấu 
khiếm khuyết đồng tử hướng tâm như tổn 
thương dây III kèm theo, tổn thương TKT hai 
bên, mắt còn lại có bệnh lýchúng ta không 
thể dựa vào lâm sàng để chẩn đoán được. Lúc 
này chỉ có VEP là yếu tố quyết định chẩn đoán 
bệnh lý TKT do chấn thương. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1 Adachi E. et al (2002). Pattern visual evoked potentials in 
traumatic optic neuropathy. Ophthalmologica; 216: 415 - 
419. 
2 Agarwal A., Mahapatra A.K. (1999). Visual outcome in 
optic nerve injury patients without initial light perception. 
Original Article; 47(4): 233 - 236. 
3 Bernadette H.W., Bradley C.R., John A.G., Anita L., Neil 
R.M., Nicholas I., Paul N.M., Baltimore (2001). Traumatic 
Optic Neuropathy: A Review of 61 Patients. Plastic And 
Reconstructive Surgery; 107(7). 
4 Carta A., Ferrigno L., Salvo M., Biachi-Marzoli S., Aboschi, 
Carta F. (2003). Visual Prognosis After Indirect Traumatic 
Optic Neuropathy. Journal of Neurology Neurosurgery 
and Psychiatry; 74: 246 - 248. 
5 Cerovski et al (2001). The role of visual evoked potentials 
in the diagnosis of optic nerve injury as a result of mild 
head trauma. Coll. Antropol. 25 Suppl. 47 - 55. 
6 Cornelius C.P., Altenmiller E., Ehrenfeld M. (1996). The 
use of flash visual evoked potentials in the early diagnosis 
of suspected optic nerve lesions due to craniofacial 
trauma. Journal of Cranio-Maxilofacial Surgery; 24: 1 - 11. 
7 Di Russo F., Spinelli D. (1999). Electrophysiological 
evidence for an early attentional mechanism in visual 
processing in humans. Vision research; 39(18): 2975 - 2985. 
8 Đặng Xuân Mai (2006). Khảo sát sự biến đổi của điện thế 
gợi thị giác trong bệnh lý đầu thần kinh thị. Luận văn bác 
sỹ nội trú, Đại học Y dược TPHCM. 
9 Farrell D.F., Leeman S., Ojemann G. (2007). Study of the 
Human Visual Cortex: Direct Cortical Evoked Potentials 
and Stimulation. American Clinical Neurophysiology 
Society; 24(1): 1 - 10. 
10 Fishman G.A.et al. (2001). Electrophysiologic Testing in 
disorders of the retina, optic nerve, and visual pathway. 
The Foundation Of The American Academy Of 
Opthalmology. 
11 Gastone G.C., Neal S.P. Visual Evoked Potentials and 
Electroretinograms. Ovid. 
12 Gigantelli J.W. (2005). Traumatic optic neuropathy. 
Emedicine, Octerber 18. 
13 Keith H.C. (1989). Principles of evoked potentials. Evoked 
Potentials in Clinical Medicine. 
14 Kenneth D.S., Robert A.G. (2005). Traumatic optic 
neuropathy, a critical update. Medscape; 6(1). 
15 Leonard A.L., Roy W.B., Micheal P.J., Stuart S. The 
Treatment of Traumatic Optic Neuropathy. The 
International Optic Nerve Trauma Study Group. 
16 Lê Minh Thông, Vũ Anh Lê (1998). Tổn thương thị thần 
kinh sau chấn thương sọ mặt. Kỷ Yếu Công Trình Nghiên 
Cứu Khoa Học Nghành Mắt, Hội Y Dược Học TPHCM, 
Hội Nhãn Khoa TPHCM. 
17 Lê Tự Quốc Tuấn (2006). Vai trò của điện thế gợi thị giác 
phương thức màn hình đảo trong chẩn đoán bệnh lý thần 
kinh thị do chấn thương, Báo cáo NCKH tại hội nghị chẩn 
đoán điện lâm sàng toàn thế giới lần thứ 28 tại Scottland 
tháng 9/2006. 
18 Mahapatra A.K., Bhatia R. (1989). Predictive value of 
visual evoked potentials in unilateral optic nerve injury. 
Surg neurol.; 31(5): 339 - 342. 
19 Mahapatra A.K. (1991). Visual evoked potentials in optic 
nerve injury. Does it merit to be mention?. Acta neurochir 
(Wien); 112(1-2): 47 - 49. 
20 Mark D.H., Bryan S.S. Flash visual evoked potentials 
predict visual outcome in traumatic optic neuropathy. 
Ophthalmic Plastic and Reconstructive Surgery; 20(5): 342 
- 346. 
21 Negishi C., Takasho M., Fujimoto N., Tsuyama Y., Adachi-
Usami E. (2001). Visual evoked potentials in relation to 
visual acuity in macular disease. Acta Ophthalmologica 
Scandinavica. 
22 Phạm Thanh Dũng (2004). Nghiên cứu hiệu quả Corticoid 
liều cao trong bệnh lý thị thần kinh do chấn thương. Luận 
Văn Tốt Nghiệp Thạc Sỹ Y Khoa, Đại học Y dược TPHCM. 
23 Rinalduzzi S., Brusa A., Jones S.J. (2001). Variation of 
visual evoked potential delay to stimulation of central, 
nasal, and temporal regions of the macula in optic neuritis. 
J. Neurol. Neurosurg. Psychiatry; 70: 28 - 35. 
24 Sarno S. et al (2000). Electrophysiological correlates of 
visual impairments after traumatic brain injury. Vision 
Research, Volume 40. 
25 Shizhao X. et al (2001): Pattern visual evoked potential in 
the diagnosis of functional visual loss, opthalmology, 
volume 108. 
26 Tạ Thị Kim Vân (2005). Khảo sát chiều dày lớp sợi thần 
kinh võng mạc trong bệnh lý thị thần kinh chấn thương 
bằng OCT. Luận văn thạc sỹ y khoa, Đại học Y dược 
TPHCM. 
27 Tobimatsu S. et al (2006). Studies of human visual 
pathophysiology with visual evoked potentials. Clinical 
neurophysiology. 
28 Vagefi, Reza M., Stuart R. (2005). Traumatic Optic 
Neuropathy. Lippincott Williams & Wilkins, Inc. Volume 
4(14): 1 – 7. 
29 Walsh P., Kane N.; Butler S. (2005). The Clinical Role Of 
Evoked Potentials. Neurology In Practice, Volume 76, 
Supplement II. BMJ Publishing Group Ltd: ii16 - ii22. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
ung_dung_dien_the_goi_thi_giac_trong_chan_doan_benh_ly_than.pdf