KẾT LUẬN
Qua 97 trường hợp máu tụ dưới màng cứng mạn
tính được mổ tại Bệnh viện đa khoa Hợp Lực chúng
tôi nhận thấy:
Máu tụ dưới màng cứng mạn tính gặp chủ yếu
ở nhóm tuổi từ 51 đến 90 (chiếm 78,34%), nguyên
nhân do chấn thương chiếm tỷ lệ lớn (81,44%).
Thời gian từ lúc bị va chạm, chấn thương cho
đến khi xuất hiện những triệu chứng khó chịu đầu
tiên phải vào viện thường từ 15 đến 40 ngày chiếm
79,38%.
Lâm sàng máu tụ dưới màng cứng mạn tính
thường nghèo nàn, nhức đầu 97,94%, bại yếu và liệt
nhẹ nửa người 46,39%, 6% có rối loạn cơ vòng và
18,56% không thấy triệu chứng gì rõ rệt.
Xác định chẩn đoán bằng CLVT và CHT 100%
trường hợp chỉ định phẫu thuật dựa vào lâm sàng,
kết quả chụp CLVT và CHT, độ dầy khối máu tụ,
độ lệch đường giữa không có nhiều ý nghĩa trong
những bệnh nhân này.
Kết quả phẫu thuật rất tốt, không có tử vong sau
mổ (GOS) độ I 93,81%, độ II 5,15%.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng kết quả chụp cộng hưởng từ và chụp cắt lớp vi tính trong phẫu thuật máu tụ dưới màng cứng mạn tính tại bệnh viện đa khoa hợp lực Thanh Hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
20
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 2 - tháng 4/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
ỨNG DỤNG KẾT QUẢ CHỤP CỘNG HƯỞNG TỪ VÀ CHỤP CẮT
LỚP VI TÍNH TRONG PHẪU THUẬT MÁU TỤ DƯỚI MÀNG CỨNG
MẠN TÍNH TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA HỢP LỰC THANH HÓA
Nguyễn Thanh Vân
Bệnh viện đa khoa Hợp Lực, Thanh Hóa
Tóm tắt
Chấn thương sọ não và hậu quả của nó là máu tụ trong sọ là những biến chứng nặng nề gây tàn tật và
tử vong trường hợp. Việc chẩn đoán và điều trị còn gặp nhiều khó khăn nhất là tại các bệnh viện tuyến tỉnh.
Máu tụ dưới màng cứng mạn tính (máu tụ dưới màng cứng mạn tính) có thể gặp ở mọi lứa tuổi, song phần lớn
xảy ra ở người trường hợp tuổi. Triệu chứng lâm sàng thường mờ nhạt, không đặc hiệu dễ bị bỏ qua. Khi khối máu
tụ lớn sẽ gây chèn ép kéo dài dẫn đến những thương tổn không hối phục trong não. Hậu quả có thể tử vong hoặc
để lại di chứng nặng nề. Với những tiến bộ của chẩn đoán hình ảnh và kỹ thuật phẫu thuật thần kinh hiện nay, máu
tụ dưới màng cứng mạn tính được coi là tổn thương lành tính. Phát hiện sớm và điều trị kịp thời thì kết quả rất khả
quan. Từ 2007 đến 2014 chúng tôi đã mổ 97 trường hợp máu tụ dưới màng cứng mạn tính và đạt được kết quả tốt.
Từ khoá: máu tụ mãn tính, kết quả cộng hưởng từ và cắt lớp vi tính,Phẫu thuật máu tụ mãn tính
Abstract
RESULTS OF MAGNETIC RESONANCE IMAGING AND COMPUTERIZED
TOMOGRAPHY DURING SURGERY OF CHRONIC SUBDURAL HEMATOMA
IN HOP LUC GENERAL HOSPITAL - THANH HOA
Nguyen Thanh Van
Hop Luc General Hospital, Thanh Hoa
Consequence of traumatic brain injury as intracranial hematomas are severe complications with disability
and high mortality. The diagnosis and treatment are difficult expecially for provincial hospitals.
Chronique subdural hematoma (SDH) could occur at any age but mostly in the elderly. Clinical symptoms
of chronic SDH often fuzzy, nonspecific. The large hematoma trường hợpuses prolonged tamponade leading
to irrversible damage in the brain. The consequences may lead to death or severe sequelae. With actual
advances in diagnostic imaging and neurosurgical techniques, chronic SDH may be considered benign lesions.
With early detection, timely treatment, the results will be very positive. From 2007 – 2014 we operated 97
caes of chronic SDH with good results.
Key words: chronic hematoma, result MRI and CT Scanner, chronic capillary surgery
-----
- Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thanh Vân, Email: nguyenvandr@gmail.com
- Ngày nhận bài: 3/1/2017; Ngày đồng ý đăng: 12/4/2017; Ngày xuất bản: 20/4/2017
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Máu tụ dưới màng cứng mạn tính có thể gặp ở
mọi lứa tuổi, song phần lớn xảy ra ở người cao tuổi,
với những tiến bộ về chẩn đoán hình ảnh và kỹ thuật
phẫu thuật thần kinh hiện nay, máu tụ dưới màng
cứng mạn tính được coi là một tổn thương lành
tính, mặc dù tỷ lệ tử vong và tàn tật khá trường hợp
(khoảng 13%).
Trong nhiều năm nay các nghiên cứu về phương
pháp điều trị kỹ thuật phẫu thuật không có nhiều
thay đổi. Nhưng với phương pháp khoan sọ - Bơm
rửa - Dẫn lưu kinh điển đã cứu sống được nhiều
bệnh nhân máu tụ dưới màng cứng mạn tính.
Từ năm 2007 đến năm 2014 chúng tôi đã mổ 97
trường hợp máu tụ dưới màng cứng mạn tính và đạt
được kết quả tốt.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 97 bệnh nhân được chẩn đoán máu tụ dưới
màng cứng mạn tính đã được điều trị bằng phẫu
thuật tại khoa Bệnh viện đa khoa Hợp Lực từ tháng
01 năm 2007 đến tháng 12 năm 2014.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả lâm sàng không đối chứng
21
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 2 - tháng 4/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
2.3. Các bước tiến hành
- Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ
- Nghiên cứu lâm sàng
- Nghiên cứu hình ảnh chụp cắt lớp vi tính (CLVT) và hình ảnh chụp cộng hưởng từ (CHT)
- Phương pháp phẫu thuật và kết quả
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm dịch tễ
Bảng 1. Tuổi và giới tính
Tuổi
Giới
Số bệnh nhân Tỷ lệ % Ghi chú
Nam Nữ
21 - 30 6 - 6 6,20
31 – 40 5 - 5 5,15
41 – 50 10 - 10 10,31
51 – 60 21 2 23 23,71
61 – 70 20 2 22 22,68
71 – 80 13 4 17 17,52
81 – 90 14 - 14 14,43
Tổng 89 8 97 100,00
% 91,75 8,25 100,00
Nhận xét: Lứa tuổi hay gặp 41 - 90 chiếm 88,65%, tập trung chủ yếu vào nhóm tuổi 51-90 chiếm 78,34%.
Bệnh nhân nam gặp nhiều hơn nữ (Nam 89, nữ 8 bằng 11,23 lần = 91,75%)
Bảng 2. Vị trí tổn thương
Vị trí tổn thưởng Số trường hợp Tỷ lệ % Ghi chú
Bán cầu phải 33 34,02
Bán cầu trái 46 47,42
Hai bên bán cầu 13 13,41
Vị trí khác 5 5,15
Tổng: 97 100,00
Nhận xét: Chủ yếu máu tụ dưới màng cứng mạn tính thường gặp ở bán cầu trái chiếm 47,42%, nếu tính cả 13
trường hợp chảy máu cả 2 bên thì số lượng máu tụ dưới màng cứng mạn tính bên trái chiếm 60,83% (59 trường hợp)
Bảng 3. Nguyên nhân
Nguyên nhân Số trường hợp Tỷ lệ % Ghi chú
Tai nạn giao thông 2 2,06
Tan nạn sinh hoạt 65 67,01
Ngã 12 12,37
Không rõ 18 18,56
Tổng: 97 100,00
Nhận xét: 2 trường hợp tai nạn giao thông hôn mê phải thở máy, mổ sau ngày thứ 21 (1 trường hợp sau
đó tử vong do viêm phổi). Ngoài 18 trường hợp không nhớ tiền sử (18,56%) còn phần lớn đều liên quan đến
chấn thương: vào đầu chiếm 81,44%
Bảng 4. Thời gian khi bị chấn thương đến khi vào viện phẫu thuật.
Thời gian (ngày) Số bệnh nhân Tỷ lệ % Ghi chú
15 – 20 17 17,52
79,38%
21 – 30 37 38,14
31 – 40 23 23,72
41 – 60 20 20,62
Tổng 97 100,00
22
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 2 - tháng 4/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Nhận xét: Số 18 bệnh nhân không nhớ nguyên nhân, kiểm tra trên CHT phần lớn máu tụ dưới màng cứng
mạn tính đều ở giai đoạn giáng hoá (> 20 ngày), thời gian đến viện sau chấn thương chủ yếu từ 15 đến 40
ngày chiếm 79,38%
3.2. Triệu chứng lâm sàng
Bảng 5. Triệu chứng lâm sàng khi nhập viện
Triệu chứng Số bệnh nhân Tỷ lệ % Ghi chú
Nhức đầu 95 97,94
Thang điểm hôn mê
Glasgow >8 điểm
4 4,12
2 trường hợp tai nạn giao thông
2 trường hợp ngã đập đầu vào thành giếng
Thang điểm hôn mê
Glasgow <8 điểm
2 2,06
1 trường hợp hôn mê do hạ đường huyết
1 trường hợp hôn mê do viêm phổi, suy hô hấp
Liệt nửa người hoặc bại
nửa người
45 46,39
Rối loạn cơ vòng 6 6,18
Không có triệu chứng 18 18,56
Nhận xét: Triệu chứng lâm sàng nói chung mờ
nhạt 97,94% thấy nhức đầu, có lúc dữ dội, kèm theo
bại yếu hoặc liệt nhẹ nửa người 46,39%, có 6 trường
hợp hôn mê khi nhập viện do tai nạn giao thông (2
trường hợp), do ngã đập đầu xuống nền cứng (2
trường hợp), 1 trường hợp hôn mê trên bệnh nhân
chấn thương sọ não, đái đường, viêm phổi, suy hô
hấp. Những trường hợp hôn mê sau khi cấp cứu ổn
định, mổ dẫn lưu máu tụ dưới màng cứng mạn tính
vào ngày 20 trở đi.
Đặc biệt có 18 trường hợp không có triệu chứng
gì đặc biệt, bệnh nhân thấy nhức đầu khi khám
bệnh, chụp CHT mới phát hiện máu tụ dưới màng
cứng mạn tính
3.3. Hình ảnh CLVT và CHT
Bảng 6. Vị trí máu tụ trên cắt lớp vi tính
Vị trí Bên phải Bên trái Hai bên Tổng số Tỷ lệ %
Trán - đỉnh 1 1 2,38
Thái dương - đỉnh 10 13 2 25 59,52
Thái dương - chẩm 6 9 1 16 38,09
Tổng 16 23 3 42
Tỷ lệ % 38,09 54,76 7,14 100,00
Nhận xét: Có 42 trường hợp được chụp CLVT, tỷ lệ phát hiện các ổ máu tụ dưới màng cứng mạn tính ở các
vị trí ngoài 2 bên thái dương rất thấp, chỉ có 2,38% (1 trường hợp vùng trán)
Bảng 7. Vị trí máu tụ máu tụ dưới màng cứng trên CHT
Vị trí Bên phải Bên trái Hai bên Tổng số Tỷ lệ %
Trán - đỉnh 1 2 1 4 7,27
Thái dương - đỉnh 10 12 6 28 50,91
Thái dương - chẩm 8 10 5 23 41,82
Tổng 19 24 12 55
Tỷ lệ % 34,54 43,64 21,82 100,00
Nhận xét: Kết quả CHT có độ phân giải tốt hơn nên có thể phát hiện những máu tụ dưới màng cứng ở
những vị trí ngoài trục: Vùng trán, máu tụ dưới màng cứng nhỏ,so với CLVT vị trí trán đỉnh 2,38% trong đó
CHT: 7,27%.
23
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 2 - tháng 4/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
3.4. Phương pháp phẫu thuật và kết quả
Bảng 8. Phương pháp phẫu thuật
Phương pháp phẫu thuật Số bệnh nhân Tỷ lệ % Ghi chú
Khoan 1 lỗ- Bơm rửa- Dẫn lưu 82 84,54
Khoan sọ 2 lỗ- Bơm rửa- Dẫn lưu 13 13,40 Dẫn lưu máu tụ 2 bên
Cửa sổ xương sọ-Lấy máu tụ-Bơm rửa-
Dẫn lưu
2 2,06
2 trường hợp TNGT mổ sau
ngày 20
Tổng số 97 100,00
Nhận xét: 84,54% bệnh nhân được mổ theo
phương pháp kinh điển khoan 1 lỗ. Đặt nelaton-
Bơm rửa cho đến khi hết máu tụ và để dẫn lưu 72h
sau mới rút dẫn lưu, 13,40% bệnh nhân được dẫn
lưu ở 2 vị trí 2 trường hợp tai nạn giao thông từ khi
vào viện đã có máu tụ dưới màng cứng cấp tính, trải
qua giai đoạn bán cấp chuyển thành mạn tính, được
mổ sau ngày 20.
Bảng 9. Kết quả phẫu thuật
Bảng 9A. Thang điểm kết cục Glasgow (GOS) đánh giá mức độ khỏi bệnh
Độ Triệu chứng
I Khỏi không để lại di chứng
II Di chứng thần kinh nhẹ: Nhức đầu, mất ngủ, nhưng có cuộc sống xã hội bình thường
III Di chứng nặng: Người bệnh không tự phục vụ, phải phụ thuộc người khác
IV Đời sống thực vật
V Tử vong
Bảng 9B.
GOS Số bệnh nhân Tỷ lệ % Ghi chú
Độ I 91 93,81
Độ II 5 5,15
Độ III - -
Độ IV - -
Độ V 1 1,03
Tử vong sau mổ 20 ngày do đái đường, viêm phổi, suy
hô hấp
Tổng 97 100,00
Nhận xét: Sau mổ tình hình bệnh nhân được
cải thiện rõ rệt, thậm trí ngay trên bàn mổ, hết liệt,
hết nói khó, bệnh nhân tỉnh, mạch, huyết áp trở lại
bình thường, 91 bệnh nhân sau mổ có điểm GOS
độ I chiếm 93,81%, 5,15% bệnh nhân còn di chứng
nhẹ, 1 bệnh nhân tử vong sau mổ ngày thứ 20 do đái
đường, viêm phổi, suy hô hấp
*Sau 6 tháng chúng tôi khám lại cho 65 bệnh
nhân kết quả tốt (GOS độ I) 93,2%, di chứng nhẹ
(GOS độ II) 4,5%, di chứng nặng (GOS độ III) 2,30%.
4. BÀN LUẬN
Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy lứa tuổi hay
gặp 41 - 90, tập trung chủ yếu vào nhóm 51 đến 90
(78,34%), nam giới chiếm tỷ lệ lớn gấp 11,23 lần,
91,75%, có thể do đặc tính địa phương lứa tuổi này
nam giới vẫn còn làm việc, lao động, sản xuất nên
hay xảy ra va chạm, tai nạn. Kết quả này cũng phù
hợp với các nghiên cứu của Trần Chiến [2], Đỗ Viết
Hằng [3], Nguyễn Văn Trung [7].
- Về nguyên nhân máu tụ trừ 18 bệnh nhân
không nhớ, còn phần lớn bệnh nhân đều có nguyên
nhân chấn thương ở mức độ khác nhau (TNGT), tai
nạn va chạm sinh hoạt, ngã đập đầu vào vật cứng)
số bệnh nhân này chiếm 81,44%, qua nghiên cứu
chúng tôi thấy các hệ thống phòng khám cần thận
trọng khi cho bệnh nhân chấn động não cao tuổi về
nhà phải dặn dò chu đáo tránh bỏ sót. Kết quả trên
24
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 2 - tháng 4/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
cũng phải hợp với các tác giả trong và ngoài nước
[2], [4], [6].
Bảng 4 cho thấy thời gian bệnh nhân xuất hiện
triệu chứng lâm sàng cho đến khi nhập viện chủ yếu
từ 15 đến 40 ngày chiếm 79,38%. Nhiều tác giả khác
cũng nêu ra thời gian bệnh nhân nhập viện sau 5 – 8
tuần, chứng tỏ loại máu tụ này diễn biến chậm và
bệnh nhân gần như không để ý và thường đi khám
bệnh ở các Bác sỹ không chuyên khoa (Nội, đông y,
tim, mạch)
Chúng ta cần lưu ý định nghĩa máu tụ dưới màng
cứng mạn tính hay cấp tính dựa vào thời gian hình
thành khối máu tụ trong não, máu tụ dưới màng
cứng cấp tính tồn tại từ 1 đến 2 ngày sau chấn
thương, máu tụ dưới màng cứng bán cấp tồn tại
từ ngày thứ 3 đến ngày 14 sau chấn thương, máu
tụ dưới màng cứng mạn tính xuất hiện từ ngày thứ
15 sau chấn thươngVì vậy bệnh nhân sau khi bị
chấn thương lần đầu đến khám cần phải có kế hoạch
khám lại định kỳ [4].
Lâm sàng của máu tụ dưới màng cứng mạn tính
rất nghèo nàn, biểu hiện âm thầm của nhức đầu,
kích động do ánh sáng, rối loạn tri giác thờ ơ, lơ
mơ và đôi khi co giật là các triệu chứng có thể gặp
ở máu tụ dưới màng cứng mạn tính [5]. Các triệu
chứng này trở nên rõ ràng hơn vài tuần sau khi chấn
thương, các tổn thương toàn thân như rối loạn tri
giác thường gặp hơn các triệu chứng thần kinh khu
trú trong máu tụ dưới màng cứng.
Các dấu hiệu TKKT có thể gặp: Liệt nửa người cùng
bên hoặc đối bên với máu tụ dưới màng cứng, liệt
nửa người bên đối diện có thể là hậu quả của chèn
ép trực tiếp vào vỏ não của khối máu tụ trong khi đó
liệt nửa người cùng bên có thể gặp do sự di chuyển
sang bên của thân não gây ra bởi hiệu ứng choáng
chỗ của máu tụ. Hiện tượng dịch chuyển thân não
này khiến cho cuống não bên đối diện bị chèn ép
vào mép lều tiểu não. Trong nghiên cứu của chúng
tôi 97,94% bệnh nhân vào viện với triệu chứng nhức
đầu ở mức độ khác nhau, 18 trường hợp nhức đầu
mồ hôi, thậm chí không thể nhớ mình có va chạm
và ngã lần nào hay không? 45 trường hợp bại yếu
hoặc liệt nửa người, 49,39% triệu chứng này được
cải thiện ngay sau khi phẫu thuật. 6 trường hợp có
rối loạn cơ vòng (6,18%), dẫn đến chẩn đoán lầm là
“Đột quỵ não”. Nguyễn Văn Trung [7] thấy nhức đầu
91,1%, chậm chạp 83,9%, nôn và động kinh ít gặp,
bảng 2 cho thấy 46 trường hợp tụ máu bên bán cầu
trái (47,42%), bán cầu phải 33 trường hợp (34,02%),
tụ máu cả hai bên bán cầu là 13 trường hợp chiếm
13,41%, ở các vị trí khác là 5,15%. Theo Hà Kim Trung
(Việt Đức) [8] máu tụ dưới màng cứng mạn tính bên
trái 51,8%, cứng bên phải 19,6%, máu tụ dưới màng
cứng mạn tính hỗn hợp 39,3%, độ dày của khối máu
tụ: Dày nhất 27 mm, mỏng nhất là 8 mm.
Hình ảnh cắt lớp vi tính máu tụ dưới màng cứng
mạn tính có hỉnh ảnh khối choáng chỗ hình lưỡi
liềm, tỷ trọng hỗn hợp hoặc giảm tỷ trọng làm biến
dạng bề mặt não, vỏ bọc của chúng có thể ngấm
thuốc trong các hình ảnh có tiêm thuốc. Trong một
số nghiên cứu (1988) khoảng 91% có độ dày 5 mm
trong phim chụp đầu tiên. Nhưng máu tụ dưới màng
cứng 2 bên rất dễ bị bỏ qua do cấu trúc đường giữa
không thay đổi. Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ
phát hiện máu tụ dưới màng cứng mạn tính bên trái
chiếm tỷ lệ lớn 54,76%, bên phải 38,09%, vùng trán
chỉ có 1 trường hợp được phát hiện (2,38%). Tỷ lệ
gặp cả 2 bên là 7,14%.
Hình ảnh CHT có độ nhạy hơn so với CLVT trong
việc phát hiện các chảy máu trong não, CHT cũng có
độ nhạy hơn trong việc phát hiện các máu tụ dưới
màng cứng nhỏ, máu tụ dưới màng cứng của lều tiểu
não hoặc khe liên bán cầu. Bảng 7 trình bày kết quả,
máu tụ dưới màng cứng mạn tính phát hiện trên
CHT, bên trái 43,64%, bên phải 34,54%, 2 bên 21,82%
và đặc biệt ở vị trí trán đỉnh CHT phát hiện 4 trường
hợp chiếm 7,27%. So sánh kết quả nghiên cứu của
chúng tôi với Nguyễn Mạnh Hùng [6], Trần Chiến [2],
Nguyễn Văn Trung [7] cho kết quả tương tự.
Về phương pháp phẫu thuật 97,94% chúng tôi áp
dụng theo phương pháp kinh điển, khoan một hoặc
hai lỗ (tụ máu hai bên) ở vị trí trung tâm khối máu tụ,
bơm rửa bằng HTM 9% đến khi nước trong hết máu
đen, đặt ống thông dẫn lưu 48 – 72 giờ thì rút.
Khoảng 1/3 số trường hợp mổ chúng tôi khâu
treo 1, 2 mũi chỉ prolen vào màng cứng, về sau này
chúng tôi chỉ mở rộng màng cứng để bơm rửa mà
không khâu, nhận thấy kết quả vẫn tốt. 2 trường
hợp TNGT khối máu tụ dưới màng cứng khá lớn,
đến ngày 20 vẫn chưa giáng hoá hoàn toàn, chúng
tôi mở cửa sổ để lấy máu tụ sau đó khâu lại màng
cứng và đặt lại xương. Theo Nguyễn Thường Xuân
[11] có thể sử dụng 2 lỗ khoan và sau đó cố định lớp
màng trong của khối dịch vào màng não. Nhiều tác
giả khác như Trần Chiến [2], Kiều Đình Hùng, Dương
Chạm Uyên đều chủ trương khoan 1 lỗ và bơm rửa
Phương pháp vô cảm cũng lựa chọn phương pháp
đơn giản, nhanh chóng và an toàn, vì phần lớn bệnh
nhân máu tụ là người trường hợp tuổi (bảng 1) nên
chỉ tiền mê và gây tê tại chỗ, phẫu thuật chỉ diễn ra
trong vòng 20 đến 30 phút, nếu sử dụng dao điện,
khoan máy, máy hút tốt thì thời gian có thể rút ngắn
25
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 2 - tháng 4/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
hơn nữa. Chúng tôi chỉ gây mê 2 trường hợp phải
cửa sổ xương sọ vì đường mổ lớn và thời gian xử lý
kéo dài.
Tuy diễn biến của máu tụ dưới màng cứng khá
phức tạp nhưng kết quả điều trị lại rất khả quan,
thậm chí ngay trên bàn mổ tình trạng của bệnh nhân
đã cải thiện rõ rệt, bệnh nhân có thể nói được, hết
liệthết nhức đầu, bệnh nhân được đưa về phòng
hồi tỉnh, cho đến khi hết tác dụng của thuốc mê thì
đưa về khoa Sọ não để chăm sóc hậu phẫu, 100%
bệnh nhân sau mổ có kết quả tốt, một tuần sau cắt
chỉ ra viện. Bảng 9B thể hiện 93,81% bệnh nhân ổ
định, 1 bệnh nhân tử vong sau mổ 20 ngày, không
liên quan đến phẫu thuật, có 5 bệnh nhân còn di
chứng nhẹ, nhức đầu, mất ngủ, trí nhớ giảm chiếm
5,15%. Các tác giả cũng đưa ra những kết luận tương
tự [7] [9] [10].
5. KẾT LUẬN
Qua 97 trường hợp máu tụ dưới màng cứng mạn
tính được mổ tại Bệnh viện đa khoa Hợp Lực chúng
tôi nhận thấy:
Máu tụ dưới màng cứng mạn tính gặp chủ yếu
ở nhóm tuổi từ 51 đến 90 (chiếm 78,34%), nguyên
nhân do chấn thương chiếm tỷ lệ lớn (81,44%).
Thời gian từ lúc bị va chạm, chấn thương cho
đến khi xuất hiện những triệu chứng khó chịu đầu
tiên phải vào viện thường từ 15 đến 40 ngày chiếm
79,38%.
Lâm sàng máu tụ dưới màng cứng mạn tính
thường nghèo nàn, nhức đầu 97,94%, bại yếu và liệt
nhẹ nửa người 46,39%, 6% có rối loạn cơ vòng và
18,56% không thấy triệu chứng gì rõ rệt.
Xác định chẩn đoán bằng CLVT và CHT 100%
trường hợp chỉ định phẫu thuật dựa vào lâm sàng,
kết quả chụp CLVT và CHT, độ dầy khối máu tụ,
độ lệch đường giữa không có nhiều ý nghĩa trong
những bệnh nhân này.
Kết quả phẫu thuật rất tốt, không có tử vong sau
mổ (GOS) độ I 93,81%, độ II 5,15%.
-----
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Quang Bái (1999) “Điều trị máu tụ dưới
màng cứng mạn tính tại BV Saint- Paul từ 1/1996 đến
6/1999”. Báo cáo khoa học Hội nghị ngoại khoa toàn quốc
lần thứ X. 29 – 30/10/1999. Tập II, Hà Nội, tr 4 - 7
2. Trần Chiến (2009) “Nghiên cứu một số đặc điểm
lâm sàng, hình ảnh cắt lớp vi tính và kết quả điều trị máu
tụ dưới màng cứng mãn tính”. Tạp chí Y học thực hành số
692, tr 35-36
3. Đỗ Viết Hằng và cộng sự (2002) “Tình hình thu
dung, cấp cứu và điều trị máu tụ dưới màng cứng mạn
tính tại BV Trung ương Quân đội 108 từ 4/1994 – 2001”.
Tạp chí Y học thực hành số 436, tr 35 – 36.
4. Nguyễn Trọng Hiếu và cộng sự (2002) “Điều trị máu
tụ dưới màng cứng mạn tính tại BV Chợ Rẫy, hồi cứu 340
trường hợp trong 2 năm 2000 – 2001 tại khoa Ngoại Thần
kinh BV Chợ Rẫy”. Tạp chí Y khoa thực hành số 346 (2002),
tr 31 – 34.
5. Lưu Đình Hùng (2001) “Nghiên cứu đặc điểm hình
ảnh chụp cắt lớp vi tính máu tụ mạn tính dưới màng cứng
do chấn thương”. Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ chuyên khoa
cấp II, Trường Đại học Y Hà Nội.
6. Ngô Mạnh Hùng (2014) “Máu tụ dưới màng cứng ở
người lớn: Bệnh học, triệu chứng lâm sàng và chẩn đoán”.
Tài liệu huấn luyện của Trung tâm phẫu thuật Thần kinh,
BV Việt Đức Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Trung (2004) “Nghiên cứu chẩn đoán
và kết quả phẫu thuật máu tụ dưới màng cứng mạn tính
ở người lớn tại BV Việt Đức”. Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ
chuyên khoa cấp II, trường Đại học Y Hà Nội
8. Lê Tư Huỳnh, Hà Kim Trung (1987) “Một vài nhận
xét qua sử dụng bảng theo dõi hôn mê Glasgow”. Ngoại
khoa tập XV, tr 4 – 11.
9. Asghar M, Adhiyaman V (2002) “Chronic subdural
hematoma in the elderly a North Weles experience” J.R
soc Med, 95 (6): 290 – 2.
10. Augustin J, Proust F, Verdure L (2003) “Bilateral
chronic subdural hematoma: Spontaneus intra cranial
hypotension” Neurochirurgie. 2003. Mar, 49 (1): 47 – 50.
11. Dương Chạm Uyên, Nguyễn Thường Xuân (1975)
“Máu tụ trong chấn thương sọ não kín”. Ngoại khoa 2 –
tr 58 – 61.
CÔNG TRÌNH LÀM TẠI BVĐK HỢP LỰC
THÁNG 12-2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ung_dung_ket_qua_chup_cong_huong_tu_va_chup_cat_lop_vi_tinh.pdf