Vào năm 2005, Rosetti đã thiết kế phương
pháp Inverse PC nhằm phát hiện đột biến đảo
đoạn intron 22. Sau khi xử lý cắt bằng enzyme
BclI và nối lại bằng T4 Ligase sẽ tạo ra DNA
vòng chứa vùng trình tự intron 22. Rosetti đã
thiết kế 3 mồi trong đó 2 mồi ID và IU bắt cặp
với trình tự nằm ở trong gen F8 khi PCR sẽ tạo
ra sản phẩm có kích thước 487 bp tương ứng
với gen F8 bình thường không xảy ra đảo
đoạn. Mồi ED bắt cặp với trình tự ở giữa
int22h‐2 và int22h‐3 nằm bên ngoài gen F8.
Khi xảy ra đảo đoạn thì một phần int22h‐1
được thay thế bằng đoạn int22h‐2 hoặc int22h‐
3, mồi ED sẽ kết hợp với mồi IU để tạo thành
sản phẩm PCR kích thước 559 bp(10).
Phương pháp Inverse PCR có nhiều ưu
điểm hơn so với 2 phương pháp Southern Blot
và Long distance PCR trước đó dùng để chẩn
đoán đột biến đảo đoạn intron 22 là thời gian
thực hiện nhanh hơn phương pháp Southern
Blot (2 ngày so với 8 ngày) và tương đương
phương pháp Long distance‐PCR. Đồng thời
phương pháp này không sử dụng chất đồng vị
độc hại như phương pháp Southern Blot hay
yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng Taq, chu
trình nhiệt, chất lượng DNA bản mẫu như
phương pháp Long distance‐PCR. Inverse PCR
được đánh giá là phương pháp đơn giản, tiết
kiệm chi phí, đảm bảo tính đặc hiệu cao do sự
đặc hiệu của enzyme cắt giới hạn phù hợp ứng
dụng ở điều kiện Việt Nam(6).
Khi ứng dụng phương pháp Inverse PCR để
xác định đột biến đảo đoạn intron 22 ở 2 gia
đình bệnh nhân thì 2 bệnh nhân nam đều di
truyền đột biến từ mẹ của mình. Đa số các người
nữ trong 2 gia đình đều là người lành mang gen
bệnh (4/5 người), nếu họ mang thai thì cần tiến
hành chẩn đoán trước sinh và thực hiện tư vấn
di truyền vì nguy cơ họ truyền gen bệnh cho con
là 50%. Đối với người chị bệnh nhân đang mang
thai ở gia đình thứ nhất thì không cần tiến hành
chọc ối vì người mẹ không mang gen bệnh nên
sẽ không truyền gen bệnh cho thai nhi.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 212 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng kỹ thuật Inverse‐shifting PCR xác định đột biến đảo đoạn intron 22 gây bệnh hemophilia a thể nặng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 202
ỨNG DỤNG KỸ THUẬT INVERSE‐SHIFTING PCR XÁC ĐỊNH ĐỘT BIẾN
ĐẢO ĐOẠN INTRON 22 GÂY BỆNH HEMOPHILIA A THỂ NẶNG
Nguyễn Hữu Huy*, Nguyễn Thị Băng Sương**, Đỗ Thị Thanh Thủy**, Ngô Thị Hồng Phước**
TÓM TẮT
Mở đầu: Hemophilia A là bệnh di truyền lặn liên kết với nhiễm sắc thể giới tính X do sự thiếu hụt hoặc
khiếm khuyết yếu tố VIII, một loại protein đông máu. Tần suất mắc bệnh hemophilia A là 1/5000 trẻ trai. Bệnh
Hemophilia A thể nặng (nồng độ yếu tố VIII thấp hơn 1%) chiếm khoảng 40% các trường hợp mắc bệnh. Bệnh
nhân mắc bệnh dễ xuất huyết do chấn thương hay tự phát, tụ máu trong cơ, chảy máu ở khớp. Đột biến đảo đoạn
intron 22 gây ra 40‐50% các trường hợp Hemophilia A thể nặng.
Mục tiêu: Xác định đột biến đảo đoạn intron 22 ở bệnh nhân Hemophilia A thể nặng và người nữ dị hợp tử
trong gia đình bệnh nhân.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thực hiện phân tích 2 gia đình với 2 bệnh nhân nam được chẩn
đoán Hemophilia A thể nặng và 5 thành viên nữ. Phản ứng Inverse PCR gồm 3 bước: (a) cắt bằng enzyme BclI;
(b) nối lại sản phẩm cắt tạo DNA vòng; (c) thực hiện phản ứng multiplex PCR và đọc kết quả.
Kết quả: Phát hiện 2 bệnh nhân nam mang đột biến đảo đoạn intron 22, 4 người nữ dị hợp tử là người lành
mang gen bệnh và 1 người nữ đang có thai là người bình thường.
Kết luận: Chúng tôi đã ứng dụng thành công kỹ thuật Inverse PCR để phát hiện đột biến đảo đoạn intron
22 gây bệnh Hemophilia A thể nặng ở bệnh nhân và người lành mang gen bệnh.
Từ khoá: Inverse PCR, đảo đoạn intron 22, Hemophilia A
ABSTRACT
APPLICATION INVERSE‐SHIFTING PCR TO IDENTIFY INVERSION INTRON 22 CAUSE
OF SEVERE HEMOPHILIA A
Nguyen Huu Huy, Nguyen Thi Bang Suong, Do Thi Thanh Thuy, Ngo Thi Hong Phuoc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 5‐ 2014: 202 ‐ 207
Introduction: Hemophilia A is a recessive X‐linked genetic disorder caused by missing or defective factor
VIII, a clotting protein. Hemophilia A occurs in approximately 1 in 5,000 live births. Severe hemophilia A (factor
levels less than 1%) represents approximately 40% of cases. People with severe hemophilia A experience bleeding
following an injury and may have frequent spontaneous bleeding episodes, often into their joints and muscles.
Factor VIII intron 22 inversions (Inv22) cause 40%–50% of severe cases of hemophilia A.
Objective: Identify inversion intron 22 in severe Hemophilia A patients and heterozygous female carriers.
Patients and Method: To conduct the genetic analysis in 2 families of 2 patients diagnosed of severe
hemophilia A and 5 female members. Inverse PCR involved 3 steps: (a) BclI restriction; (b) self‐ligation of
restriction fragments, providing BclI rings; and (c) standard multiplex‐PCR analysis.
Results: 2 male patients had intron 22 inversion, 4 female members were carrier and 1 female member, who
was pregnant, was fortunately non carrier.
Conclusion: We have successfully applied inverse PCR to identify inversion intron 22 cause of severe
Hemophilia A. This helped for the detection of patients and identification of female carriers.
Keywords: Inverse PCR, inversion intron 22, Hemophilia A
* Khoa sinh học, Đại học Khoa học tự nhiên,TPHCM. ** Đại học Y Dược TPHCM.
Tác giả liên lạc: TS.BS Nguyễn Thị băng Sương , ĐT: 0914007038 , Email: suongnguyenmd@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 203
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hemophilia A là căn bệnh rối loạn đông
máu di truyền nghiêm trọng do sự thiếu hụt hay
khiếm khuyết yếu tố VIII đồng thời đây cũng là
căn bệnh di truyền lặn liên kết với nhiễm sắc thể
giới tính X phổ biến nhất với tần suất mắc bệnh
là 1/5000 trẻ trai(1). Nguyên nhân gây bệnh là do
đột biến trên gen F8 nằm trên cánh dài nhiễm
sắc thể giới tính X tại vị trí Xq28, gen có chiều dài
186 kb, gồm 26 exon và mã hóa cho RNA dài 9
kb(3). Sản phẩm của gen F8 là yếu tố VIII nằm
trong phức hợp hoạt hóa yếu tố X đóng vai trò
rất quan trọng trong con đường đông máu, sự
thiếu hụt yếu tố VIII sẽ dẫn đến rối loạn đông
máu và các biểu hiện lâm sàng là xuất huyết tự
phát hay do chấn thương nhẹ, tụ máu trong cơ,
chảy máu ở khớp, đôi khi có tiểu máu. Bệnh
Hemophila A được chia thành 3 loại dựa vào
nồng độ yếu tố VIII trong huyết thanh: thể nặng
khi yếu tố VIII có nồng độ rất thấp (<1% so với
giá trị bình thường), thể trung bình (1‐5%) và thể
nhẹ (5‐40%). với tỷ lệ lần lượt của các thể bệnh là
40%, 10% và 50% các trường hợp mắc
Hemophilia A(6). Khoảng 70% các trường hợp
mắc bệnh là do di truyền gen đột biến và 30% là
do đột biến de novo. Các đột biến gây nên bệnh
Hemophilia A chủ yếu là các đột biến điểm nằm
rải rác khắp chiều dài của gen. Tuy nhiên 40‐50%
các trường hợp Hemophilia A thể nặng là do đột
biến đảo đoạn intron 22(4). Nguyên nhân của đảo
đoạn intron 22 là do một đoạn trình tự dài 9,5 kb
nằm trong intron 22 của gen F8 gọi là int22h‐1 có
độ tương đồng rất cao với 2 vùng int22h‐2 và
int22h‐3 nằm cách xa gen F8, các trình tự này có
thể tái tổ hợp tương đồng trong nhiễm sắc thể X
làm phá vỡ khung đọc của gen F8 gây ra bệnh
Hemophilia A thể nặng(8).
Do Hemophilia A là bệnh di truyền lặn liên
kết với nhiễm sắc thể giới tính X nên bệnh chủ
yếu gặp ở nam giới vì người nam chỉ có 1 nhiễm
sắc thể X nên nếu có đột biến sẽ biểu hiện ngay
ra kiểu hình còn người nữ phải đột biến ở trên 2
nhiễm sắc thể X mới bị mắc bệnh. Người nữ dị
hợp tử mang gen bệnh sẽ có 50% nguy cơ truyền
gen X bị đột biến cho con của mình. Do vậy nếu
không có các chương trình tầm soát gen bệnh thì
bệnh Hemophilia A sẽ lan truyền rộng trong
cộng đồng, tỷ lệ mắc bệnh ngày càng cao, người
bệnh sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình và xã
hội. Hiện nay có 3 phương pháp chính để phát
hiện đột biến đảo đoạn intron 22 là Southern
Blot, Long distance‐PCR và Inverse PCR trong
đó Inverse PCR được đánh giá là một phương
pháp đặc hiệu, đơn giản, tiết kiệm chi phí, phù
hợp với điều kiện Việt Nam. Từ cơ sở đó, chúng
tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu với mục tiêu:
“Ứng dụng kỹ thuật Inverse‐shifting PCR xác
định đột biến đảo đoạn intron 22 ở bệnh nhân
Hemophilia A thể nặng”.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Gồm 2 gia đình
Gia đình bệnh nhân thứ nhất gồm 1 bệnh
nhân nam mắc bệnh Hemophilia A thể nặng và
3 thành viên nữ là mẹ và 2 chị của bệnh nhân
trong đó một người chị đang mang thai.
Gia đình bệnh nhân thứ hai gồm 1 bệnh
nhân nam mắc bệnh Hemophilia A thể nặng và
2 thành viên nữ là mẹ và dì của bệnh nhân.
Mẫu DNA chứng dương là plasmid tạo
dòng từ bệnh nhân đảo đoạn intron 22 và mẫu
DNA người bình thường không mắc bệnh
Hemophilia A
Phương pháp nghiên cứu
Kỹ thuật tách chiết DNA
Mẫu máu ngoại vi được xử lý bằng chất
chống đông EDTA, được tách chiết trong 24 giờ.
Quy trình tách chiết DNA từ 2 ml máu ngoại vi
được tiến hành theo Promega Kit. Nồng độ và
độ tinh sạch của sản phẩm DNA được kiểm tra
trên máy quang phổ NanoDrop 2000, những
mẫu có tỷ lệ giá trị mật độ quang ở bước sóng
260/280 nm đạt từ 1,8 – 2,0 được dùng để tiến
hành phản ứng PCR và giải trình tự gen.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 204
Kỹ thuật Inverse PCR xác định đột biến đảo
đoạn intron 22
Phương pháp Inverse PCR gồm 3 bước
chính
‐ Cắt bằng enzyme BclI: Thành phần phản
ứng gồm 1,5 μg DNA genome, 3 μl buffer 10X,
1,2 μl enzyme BclI (Promega), bổ sung nước cất
cho đủ thể tích 30 μl. Ủ 50oC/4 giờ. Tinh sạch sản
phẩm cắt bằng Phenol/chloroform. Tủa sản
phẩm bằng ethanol tuyệt đối và CH3COONa.
Hòa sản phẩm trong 20 μl nước cất.
‐ Nối bằng T4 DNA Ligase: Thành phần
phản ứng gồm 20 μl DNA sản phẩm cắt, 20 μl
buffer 10X, 1 μl T4 DNA Ligase (Promega). Ủ
16oC/16‐18 giờ. Tinh sạch sản phẩm nối bằng
Phenol/chloroform. Tủa sản phẩm bằng ethanol
tuyệt đối và CH3COONa. Hòa sản phẩm trong
20 μl nước cất.
‐ Phản ứng Inverse PCR: Thành phần phản
ứng gồm 0,1 μl Taq Takara, 2 μl buffer 10X, 1,5
μl dNTPs, 2 μl sản phẩm nối, 0,5 μl mồi ID, 0,5
μlmồi ED, 0,5 μl mồi IU, bổ sung nước cất cho
đủ thể tích 15 μl.
Chu trình nhiệt: Biến tính ở 98oC trong 5
phút, sau đó là 40 chu kỳ gồm 98oC trong 10
giây; 55oC trong 20 giây; 72oC trong 30 giây, và
giai đoạn kết thúc gồm 72oC trong 2 phút.
Bảng 1‐ Trình tự các mồi sử dụng trong phản ứng
Inverse PCR
Tên
Primer
Trình tự Sản phẩm
ID 5'-ACATACGGTTTAGTCACAAGT-3 487 bp
(ID / IU):
Bình
thường
ED 5'- TCCAGTCACTTAGGCTCAG-3 559 bp (ED
/ IU): Đảo
đoạn intron
22
IU 5'-CCTTTCAACTCCATCTCCAT-3
Các sản phẩm nhân bản của phản ứng
Inverse PCR được điện di trên gel agarose 2%.
Kích thước của các sản phẩm được xác định khi
so sánh với thang chuẩn 1kb plus (Invitrogen).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả Inverse PCR của gia đình bệnh nhân thứ nhất
Hình 1‐ Kết quả Inverse PCR gia đình bệnh nhân thứ nhất
Giếng T: Thang 1 Kb Plus DNA; Giếng (‐):
Chứng âm; Giếng 1: Bệnh nhân; Giếng 2: Mẹ
bệnh nhân; Giếng 3: Chị bệnh nhân; Giếng 4: Chị
bệnh nhân đang mang thai; Giếng 5: Người bình
thường; Giếng 6: Chứng dương.
Nhận xét: Bệnh nhân ở giếng 1 có 1 băng
DNA tương ứng với băng kích thước 559 bp của
chứng dương ở giếng số 6 chứng tỏ bệnh nhân
có đột biến đảo đoạn intron 22. Người chị của
bệnh nhân đang mang thai có 1 băng DNA
600bpp
500bp6
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 205
tương ứng với băng kích thước 487 bp của người
bình thường ở giếng số 5 chứng tỏ người này là
người bình thường. Mẹ bệnh nhân ở giếng số 2
và người chị của bệnh nhân ở giếng số 3 có 2
băng DNA tương ứng với băng 559 bp và 487 bp
chứng tỏ hai người này mang kiểu gen dị hợp
tử. Bệnh nhân bị mắc bệnh Hemophilia A thể
nặng do di truyền từ mẹ.
Kết quả Inverse PCR của gia đình bệnh nhân thứ hai
Hình 2‐ Kết quả Inverse PCR gia đình bệnh nhân thứ hai
Giếng T: Thang 1 Kb Plus DNA; Giếng (‐):
Chứng âm; Giếng 1: Bệnh nhân; Giếng 2: Mẹ
bệnh nhân; Giếng 3: Dì bệnh nhân; Giếng 4:
Người bình thường; Giếng 5: Chứng dương
Nhận xét: Bệnh nhân ở giếng 1 có 1 băng
DNA tương ứng với băng kích thước 559 bp của
chứng dương ở giếng số 5chứng tỏ bệnh nhân có
đột biến đảo đoạn intron 22. Mẹ bệnh nhân ở
giếng số 2 và người dì của bệnh nhân ở giếng số
3 có 2 băng DNA tương ứng với băng 559 bp và
487 bp chứng tỏ hai người này mang kiểu gen dị
hợp tử. Bệnh nhân bị mắc bệnh Hemophilia A
thể nặng do di truyền từ mẹ.
BÀN LUẬN
Hemophilia A là bệnh di truyền lặn liên
kết với nhiễm sắc thể giới tính X do đột biến
tại gen F8 dẫn đến thiếu hụt yếu tố VIII gây ra
rối loạn đông máu. Các đột biến ở gen F8 vô
cùng đa dạng bao gồm mất toàn bộ gen, đảo
đoạn DNA lớn, các đột biến vô nghĩa, sai
nghĩa, lệch khung, splicing... đều có thể gây ra
những bất thường trong sự biểu hiện, tiết và
thời gian phân hủy của yếu tố VIII. Trong số
các đột biến ở gen F8 thì đột biến quan trọng
nhất là đột biến đảo đoạn intron 22 chiếm 40‐
50% các trường hợp Hemophilia thể nặng(4).
Đặc biệt, 21% các trường hợp đảo đoạn intron
22 sẽ sản xuất kháng thể kháng lại yếu tố VIII
điều trị bổ sung dẫn đến rất nhiều khó khăn
trong việc điều trị bệnh Hemophilia(9).
Gen F8 là một trong những gen lớn nhất với
kích thước 186 kb nằm ở vị trí Xq28. Gen F8 có
26 exon có kích thước từ 69 đến 3106 bp. Chiều
dài của vùng intron lên đến 177,9 kb với intron
lớn nhất là intron 22 dài 32,8kb(3).
Vào năm 1990, Levison đã phát hiện trong
gen F8 có chứa 1 gen khác là gen F8A, gen này
nằm ngược chiều với gen F8 và nằm trong vùng
intron 22(5). Sau đó, Freije và Schlessinger đã
phát hiện trong nhiễm sắc thể X có 3 bản sao của
gen F8A, 1 nằm ở vùng intron 22 và 2 bản sao
còn lại nằm ngược hướng cách gen F8 500kb(2).
Vào năm 1993, hai nhóm nghiên cứu đã chứng
minh nguyên nhân của 50% các trường hợp
Hemophilia A thể nặng là do một đột biến tại
600bpp
500bp6
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 206
vùng intron 22 ngăn cản sự phiên mã liên tục
của mRNA từ exon 22 sang exon 23. Cả 2 nhóm
đã đề xuất một mô hình dựa trên sự tái tổ hợp
tương đồng giữa các đoạn gen F8A nằm ở intron
22 và ngược chiều gen F8. Khi sự tái tổ hợp diễn
ra sẽ làm đảo ngược trình tự DNA nằm bên
trong và phá vỡ khung đọc gen F8(4,7).
Hình 3‐ Cơ chế đảo đoạn intron 22 của gen F8
Vào năm 2005, Rosetti đã thiết kế phương
pháp Inverse PC nhằm phát hiện đột biến đảo
đoạn intron 22. Sau khi xử lý cắt bằng enzyme
BclI và nối lại bằng T4 Ligase sẽ tạo ra DNA
vòng chứa vùng trình tự intron 22. Rosetti đã
thiết kế 3 mồi trong đó 2 mồi ID và IU bắt cặp
với trình tự nằm ở trong gen F8 khi PCR sẽ tạo
ra sản phẩm có kích thước 487 bp tương ứng
với gen F8 bình thường không xảy ra đảo
đoạn. Mồi ED bắt cặp với trình tự ở giữa
int22h‐2 và int22h‐3 nằm bên ngoài gen F8.
Khi xảy ra đảo đoạn thì một phần int22h‐1
được thay thế bằng đoạn int22h‐2 hoặc int22h‐
3, mồi ED sẽ kết hợp với mồi IU để tạo thành
sản phẩm PCR kích thước 559 bp(10).
Phương pháp Inverse PCR có nhiều ưu
điểm hơn so với 2 phương pháp Southern Blot
và Long distance PCR trước đó dùng để chẩn
đoán đột biến đảo đoạn intron 22 là thời gian
thực hiện nhanh hơn phương pháp Southern
Blot (2 ngày so với 8 ngày) và tương đương
phương pháp Long distance‐PCR. Đồng thời
phương pháp này không sử dụng chất đồng vị
độc hại như phương pháp Southern Blot hay
yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng Taq, chu
trình nhiệt, chất lượng DNA bản mẫu như
phương pháp Long distance‐PCR. Inverse PCR
được đánh giá là phương pháp đơn giản, tiết
kiệm chi phí, đảm bảo tính đặc hiệu cao do sự
đặc hiệu của enzyme cắt giới hạn phù hợp ứng
dụng ở điều kiện Việt Nam(6).
Khi ứng dụng phương pháp Inverse PCR để
xác định đột biến đảo đoạn intron 22 ở 2 gia
đình bệnh nhân thì 2 bệnh nhân nam đều di
truyền đột biến từ mẹ của mình. Đa số các người
nữ trong 2 gia đình đều là người lành mang gen
bệnh (4/5 người), nếu họ mang thai thì cần tiến
hành chẩn đoán trước sinh và thực hiện tư vấn
di truyền vì nguy cơ họ truyền gen bệnh cho con
là 50%. Đối với người chị bệnh nhân đang mang
thai ở gia đình thứ nhất thì không cần tiến hành
chọc ối vì người mẹ không mang gen bệnh nên
sẽ không truyền gen bệnh cho thai nhi.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 207
Hình 4‐ Nguyên tắc của phương pháp Inverse PCR
xác định đảo đoạn intron 22
KẾT LUẬN
Nghiên cứu đã ứng dụng thành công kỹ
thuật Inverse PCR xác định đột biến đảo đoạn
intron 22 ở bệnh nhân Hemophilia A và người
lành mang gen bệnh. Trong 2 gia đình bệnh
nhân được phân tích thì có 1 người nữ mang
kiểu gen bình thường, 2 bệnh nhân bị đột biến
đảo đoạn intron 22 và 4 người nữ là người lành
mang gen bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bolton‐Maggs PH, Pasi KJ (2003),“Hemophilias A and B”,
Lancet, 361:1801‐1809.
2. Freije D, Schlessinger (1992), “A 1.6‐Mb contig of yeast
artificial chromosomes around the human factor VIII gene
reveals three regions homologous to probes for the DXS115
locus and two for the DXYS64 locus”, Am J Hum Genet,
51(1):66‐80.
3. Gitschier J, Wood WI, Goralka TM, Wion KL, Chen EY, Eaton
DH, Vehar GA, Capon DJ, Lawn RM (1984),
“Characterization of the human factor VIII gene”, Nature,
312:326–330.
4. Lakich D, Kazazian HH, Jr., Antonarakis SE, Gitschier J
(1993), “Inversions disrupting the factor VIII gene are a
common cause of severe haemophilia A”, Nat Genet, 5:236–
241.
5. Levinson B, Kenwrick S, Gamel P, Fisher K, Gitschier J (1992),
“Evidence for a third transcript from the human factor VIII
gene”, Genomics, 14(3):585‐9.
6. Liliana C. Rossetti, Claudia P. Radic, Miguel M. Abelleyro,
Irene B. Larripa, and Carlos D. De Brasi (2011), “Eighteen
Years of Molecular Genotyping the Hemophilia Inversion
Hotspot: From Southern Blot to Inverse Shifting‐PCR”, Int J
MolSci, 12(10): 7271–7285.
7. Naylor J, Brinke A, Hassock S, Green PM, Giannelli F, (1993),
“Characteristic mRNA abnormality found in half the patients
with severe haemophilia A is due to large DNA inversions”,
Hum Mol Genet, 2(11):1773‐8.
8. Naylor JA, Buck D, Green PM, Williamson H, Bentley D,
Giannelli F (1995), “Investigation of the factor VIII intron 22
repeated region (int22h) and the associated inversion
junctions”,Hum Mol Genet, 4:1217‐1224.
9. Oldenburg J, Schröder J, Hermann Brackmann HH, Müller‐
Reible C, Schwaab R, Tuddenham E (2004), “Environmental
and genetic factors influencing inhibitor development”,
Semin Hematol, 41:82–88.
10. Rossetti LC, Radic CP, Larripa IB, De Brasi CD (2005),
“Genotyping the hemophilia inversion hotspot by use of
inverse PCR”, Clin Chem, 51:154–158.
11. Wood WI, Capon DJ, Simonsen CC, Eaton DL, Gitschier J,
Keyt B, Seeburg PH, Smith DH, Hollingshead P, Wion KL, et
al (1984), “Expression of active human factor VIII from
recombinant DNA clones”, Nature, 312:330–337.
Ngày nhận bài báo: 05/9/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/9/2014
Ngày bài báo được đăng: 20/10/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ung_dung_ky_thuat_inverseshifting_pcr_xac_dinh_dot_bien_dao.pdf