Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng
kỹ thuật Multiplex Gap PCR và CARMS PCR đầu
tiên để sàng lọc 7 đột biến có tần suất gặp cao
nhất ở người Đông Nam Á: SEA, α 3.7, α4,2,
Thailand, Philipin, HbCs, HbQs, phát hiện được
33/40(82,5%) mẫu đều mang 2 đột biến, 7 mẫu
chỉ phát hiện được 1 đột biến mất đoạn 2 gen
SEA. Trong trường hợp này chúng tôi tiến hành
giải trình tự gen và MLPA để tìm đột biến còn lại.
Đối với 7 mẫu mới phát hiện 1 đột biến (SEA),
chúng tôi tiếp tục tiến hành giải trình tự gen phát
hiện 4 đột biến điểm c.2delT(ATG>A-G), 1 đột biến
điểm c.92G>A,1 đột biến điểm c.426A>T và sử
dụng kỹ thuật MLPA phát hiện đột biến mât đoạn
1 gen HbA1. Đặc biệt đột biến điểm c.426A>T
(p.Term143Tyr) là đột biến điểm đầu tiên gây bệnh
Hemoglobin Pakse được phát hiện ở mức độ phân
tử tại Việt Nam. Phát hiện này bước đầu mang
nhiều ý nghĩa, đóng vai trò quan trọng trong việc
xác định các đột biến hiếm gặp và đột biến mới.
Bệnh HbH là bệnh tan máu mạn tính ở nhiều
mức độ khác nhau. Dựa vào hai loại đột biến có thể
gặp trên gen α globin, bệnh HbH được chia thành
hai thể: đột biến mất đoạn (deletional type) và đột
biến không mất đoạn (non-deletional type). Bệnh
không do mất đoạn gen thường có biểu hiện lâm
sàng nặng hơn loại do mất đoạn gen [7]. Do đó,việc
xác định loại đột biến gây bệnh HbH đóng vai trò rất
quan trọng trong vấn đề tiên lượng mức độ của bệnh
để đưa ra các quyết định điều trị phù hợp, đặc biệt
trong việc tư vấn di truyền và chẩn đoán trước sinh.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 21 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng kỹ thuật phân tử phát hiện đột biến gen α globin gây bệnh hemoglobin h, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạp chí nhi khoa 2016, 9, 5
80
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Alpha thalassemia là bệnh di truyền đơn gen
phổ biến, là nguyên nhân hàng đầu gây thiếu
máu, tan máu ở trẻ em, do đột biến gen α-globin
nằm trên cánh ngắn NST 16 (16p13.3) quy định,
gây giảm hoặc mất tổng hợp chuỗi α globin [1].
Người bình thường có tổng số 4 gen α globin,
nằm trên hai nhiễm sắc thể (NST) số 16 tương
đồng, trong đó mỗi NST 16 có 2 gen α globin (αα/
αα). Trong bệnh HbH, một NST 16 mất hoàn toàn
cả hai gen α globin, và ở NST 16 tương đồng còn
lại mất hoặc đột biến 1 gen α globin. Hậu quả của
sự thiếu hụt tổng hợp chuỗi α globin này dẫn đến
sự tăng tổng hợp chuỗi β globin, tạo thành các
chuỗi β4, là Hemoglobin H (HbH)[1,2].
Bệnh HbH có thể được chia thành hai thể, dựa
vào hai loại đột biến có thể gặp trên gen α globin:
đột biến mất đoạn và đột biến không mất đoạn.
Thông thường, 90% bệnh này là do các đột biến
mất đoạn gen gây nên do sự kết hợp giữa đột
biến mất hai gen α globin trên cùng một NST 16
và đột biến mất 1 gen α globin trên NST 16 còn
lại. Trong đó, các kiểu mất đoạn gen dạng SEA
(--SEA), Thailand(--THAI), Philipin (--FIL), α 4.2 (-α4.2),
α3.7(α3.7) là những kiểu mất đoạn thường gặp
nhất trong quần thể người Trung Quốc và Đông
Nam Á [ 7,8]. Bệnh HbH không do mất đoạn gen
chiếm khoảng 10%. Thể bệnh này là do sự kết
hợp giữa mất hai gen α globin trên cùng một
NST 16 và một đột biến điểm trên một gen α
globin của NST 16 còn lại, trong đó các đột biến
điểm Hb Constant Spring (HbCs), Hb Qzuong Sze
(HbQs) tại gen α2 là các đột biến điểm rất thường
gặp ở quần thể người Trung Quốc và Đông Nam
Á[4,5,8].
ỨNG DỤNG KỸ THUẬT PHÂN TỬ PHÁT HIỆN ĐỘT BIẾN GEN
α GLOBIN GÂY BỆNH HEMOGLOBIN H
Ngô Thị Tuyết Nhung*, Lý Thị Thanh Hà*, Ngô Diễm Ngọc*, ,Nguyễn Thị Phương Mai*,
Ngô Mạnh Tiến*, Nguyễn Thị Mai Hương*, Nguyễn Thị Mai Hương**
* Khoa Di truyền và Sinh học phân tử- Bệnh viện Nhi Trung ương
** Khoa Huyết học lâm sàng- Bệnh viện Nhi Trung ương
TÓM TẮT
Alpha thalassemia (α thal) là một trong những bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường
phổ biến nhất trên thế giới, đặc biệt ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, trong đó có khu vực Đông
Nam Á[1,2]. Bệnh huyết sắc tố H (HbH) là một trong các thể bệnh của bệnh α thal với ba trên
bốn gen α globin của cơ thể bị đột biến. Mục tiêu: Phát hiện các đột biến gen α globin gây bệnh
HbH bằng các kỹ thuật phân tử. Đối tượng và phương pháp: 40 mẫu máu ngoại vi của bệnh nhi
được chẩn đoán mắc HbH dựa trên lâm sàng tại Bệnh viện Nhi TƯ. Các kỹ thuật phân tử bao
gồm: Multiplex Gap PCR, CARMS PCR , giải trình tự gen, MLPA để phát hiện đột biến trên gen α
globin. Kết quả: Tỷ lệ phát hiện đột biến là 40/40(100%). Kỹ thuật Multiplex Gap PCR và CARMS
PCR đã phát hiện 33/40(82,5%) bệnh nhân có các kiểu gen như sau: (--SEA/-HbCs); (--SEA/-α3,7);
(-- SEA/-α4.2); (-- SEA/-HbQs), với tỷ lệ lần lượt là: 17/40 (42,5%);10/40(25%); 4/40(10%); 2/40
(5%). Kỹ thuật MLPA phát hiện 1/40 (2,5%) bệnh nhân mang đột biến (--SEA/-HbA1) và 4/40
(10%) bệnh nhân mang đột biến (--SEA/-c.2delT), 1/40(2,5%) bệnh nhân mang đột biến (--SEA/-
c.92G>A),1/40(2,5%) bệnh nhân mang đột biến(--SEA/- c.426A>T) được phát hiện bằng phương
pháp giải trình tự gen HbA1, HbA2. Kết luận: 100% bệnh nhân HbH được phát hiện đột biến trên
gen α globin bằng bằng kỹ thuật phân tử, trong đó có ba đột biến hiếm gặp. Điều này có ý nghĩa
quan trọng trong điều trị, tiên lượng bệnh, tư vấn di truyền và chẩn đoán trước sinh cho các gia
đình có nguy cơ cao sinh con mắc bệnh HbH.
Từ khóa: HbH, α Thalassemia, Multiplex Gap PCR, CARMS PCR, giải trình tự gen, MLPA.
81
phần nghiên cứu
Bệnh HbH gây thiếu máu trên lâm sàng ở
nhiều mức độ khác nhau, có thể có hoặc không
phụ thuộc truyền máu, hoặc tử vong do biến
chứng truyền máu. Do đó, việc xác định loại đột
biến gây bệnh HbH đóng vai trò rất quan trọng
trong vấn đề tiên lượng mức độ của bệnh để đưa
ra các quyết định điều trị phù hợp, đặc biệt trong
việc tư vấn di truyền và chẩn đoán trước sinh. Do
đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục
tiêu: Xác định các đột biến trên gen α globin gây
bệnh HbH bằng các kỹ thuật phân tử.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng
Nghiên cứu được thực hiện trên 40 bệnh nhi
tại Bệnh viện Nhi Trung ương, từ tháng 1/2016
đến tháng 8/2016.
2.2. Phương pháp
2.2.1. Kỹ thADN được tách trực tiếp từ mẫu máu
ngoại vi (chống đông EDTA) bằng Kit QiaAmp
DNA mini kit (Qiagen, Đức).
2.2.2. Kỹ thuật Multiplex Gap Polymerase Chain
Reaction( Multiplex Gap PCR)
Kỹ thuật Multiplex Gap PCR được thực hiện tại
Khoa Di truyền và Sinh học phân tử Bệnh viện
Nhi Trung ương để sàng lọc 7 loại đột biến mất
đoạn 1 gen và 2 gen thường gặp của quân thể
người châu Á: SEA (--SEA) (1349 bp), α 4.2 (-α4.2)
(1628 bp), α 3.7(-α3.7) (1800 bp), Philipin (--FIL) (560
bp), Thailand(--THAI) (411 bp).
2.2.3. Kỹ thuật CAMRS PCR (Combine Amplification
Refractory Mutation System-PCR)
Kỹ thuật CARMS PCR sàng lọc hai đột biến
điểm HbCs (Hb Constant Spring-283bp) và HbQs
(Hb Quong Sze-238 bp).
2.2.4. Kỹ thuật giải trình tự gen
Giải trình tự gen được thực hiện trên máy ABI
3130. Kết quả được phân tích bằng phần mềm
Chromas và Chromas Pro, sau đó được đưa lên
Ngân hàng gene (Gene Bank) để so sánh với trình
tự chuẩn. Kỹ thuật này được sử dụng để sàng lọc
các đột biến điểm khác trên gen HbA1, HbA2.
2.2.5. Kỹ thuật Multiplex Ligation-Dependent
probe Amplification (MLPA)
Kỹ thuật MLPA (MRC-Holland, Hà Lan) thực hiện
bằng cách sử dụng bộ đầu dò thương mại P140-B4
để phát hiện các đột biến mất đoạn lớn. Kết quả
được phân tích trên phần mềm COFALYSER.
3. KẾT QUẢ
Trong nghiên cứu này, chúng tôi phát hiện
40/40 mẫu mang đồng thời hai đột biến gây
bệnh HbH, trong đó: 33/40mẫu phát hiện bằng
kỹ thuật Multiplex Gap PCR và CARMS PCR, chiếm
82.5%, 07/40 mẫu phát hiện bằng phương pháp
giải trình tự gen HbA, HbA2 và 01/40 mẫu được
xác định bằng kỹ thuật MLPA, chiếm 2%. Có 17
mẫu mang kiểu gen (--SEA/-HbCs), chiếm 42,5%,
10 mẫu mang kiểu gen (--SEA/- α3,7), chiếm 25%,
04 mẫu (--SEA/-c.2delT), 01 mẫu mang kiểu gen
(--SEA/-c.92G>A), chiếm 2.5%, 01 mẫu mang kiểu
gen (--SEA/- c.426A>T) chiếm 2,5% và 01 mẫu
mang đột biến (--SEA/HbA1) chiếm 2,5%.
Bảng 1. Kiểu gen và tỷ lệ đột biến của bệnh nhân HbH
Kiểu gen bệnh nhân HbH Số lượng bệnh nhân Tỷ lệ % (n=40)
Đột biến mất đoạn 15 37,5
(--SEA/-α3.7) 10 25
(--SEA/-4.2) 4 10
(--SEA/-HbA1) 1 2,5
Đột biến không mất đoạn 25 62,5
(--SEA/-HbCs) 17 42,5
(--SEA/-c2delT) 4 10
(--SEA/-HbQs) 2 5
(--SEA/-c.92G>A) 1 2,5
(--SEA/- c.426A>T) 1 2,5
Tổng số 40
tạp chí nhi khoa 2016, 9, 5
82
Hình 1. Xác định đột biến mất đoạn bằng kỹ thuật Multiplex Gap PCR
M: Maker 1kp; 1: Chứng bình thường; 2:Chứng dị hợp tử SEA; 3: Chứng dị hợp tử α3.7; 4: Chứng
bệnh SEA/ α4.2; 5: ADN bệnh nhân dị hợp tử SEA; 6: ADN bệnh nhân SEA/ α4.2; 7: ADN bệnh nhân dị
hợp tử SEA; 8: ADN bệnh nhân SEA/ α3.7; 9: Mẫu không chứa ADN.
Hình 2. Phát hiện đột biến không mất đoạn bằng kỹ thuật CARMS PCR
M: Maker 100bp; 1: Chứng bình thường; 2:Chứng bệnh SEA/HbCs; 3: Chứng bệnh SEA/HbQs; 4:
ADN bệnh nhân SEA/HbCs; 5: ADN bệnh nhân SEA/HbQs; 6: ADN bệnh nhân không bị đột biến; 7: Mẫu
không chứa AND.
Hình 3. Đột biến c.2delT được phát hiện bằng kỹ thuật giải trình tự gen
Mẫu bình thường Mẫu BN mang đột biến c.2delT
83
phần nghiên cứu
Mẫu bình thường Mẫu BN mang đột biến c.92G>A
Hình 4. Đột biến c.92G>A được phát hiện bằng kỹ thuật giải trình tự gen
Mẫu bình thường Mẫu BN mang đột biến c.426A>T
Hình 5. Đột biến c.426A>T được phát hiện bằng kỹ thuật giải trình tự gen
Mẫu bình thường Mẫu BN mang đột biến mất đoạn HbA1
Hình 6. Đột biến mất đoạn HbA1 được phát hiện bằng phương pháp MLPA
tạp chí nhi khoa 2016, 9, 5
84
4. BÀN LUẬN
Trong tổng số 40 bệnh nhân nghiên cứu, có
25/40 (62,5%) người mắc HbH thuộc nhóm đột
biến không mất đoạn,15/40 (37,5%) thuộc nhóm
đột biến mất đoạn. Người mang kiểu gen (- - SEA/-
HbCs) chiếm tỷ l ệ cao nhất: 42,5%, người mang kiểu
gen (- - SEA/- α 3.7): 25%; người mang kiểu gen (- - SEA/
HbQs): 5%, (--SEA/-α4.2): 10%. Kết quả này phù
hợp với một số nghiên cứu khác của tỉnh Quảng
Đông, Trung Quốc. Trong 435 bệnh nhân HbH
được nghiên cứu tại tỉnh Quảng Đông, có 328/435
(75,6%) người mắc HbH thuộc nhóm đột biến
không mất đoạn, 107/435 (25,4%) thuộc nhóm
đột biến mất đoạn[ 4,6]. Một nghiên cứu khác
tại Thái Lan, người mang kiểu gen (- - SEA/HbCs):
181/355 (51%), người mang kiểu gen (- - SEA/-α 3,7):
135/355 (38%), tỷ lệ người mang kiểu gen (--SEA/HbQs),
(--SEA/-α4,2) lần lượt là: 5/355 (1,4%) và 2/355
(0,6%). Tuy nhiên, kết quả này có đặc điểm khác
biệt so với nhiều nghiên cứu khác [1,4,8]. Do đó,
để có thể kết luận về tỷ lệ phân bố kiểu gen của
bệnh nhân HbH, chúng tôi sẽ tiếp tục tiến hành
nghiên cứu khảo sát trên một cỡ mẫu lớn hơn.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng
kỹ thuật Multiplex Gap PCR và CARMS PCR đầu
tiên để sàng lọc 7 đột biến có tần suất gặp cao
nhất ở người Đông Nam Á: SEA, α 3.7, α4,2,
Thailand, Philipin, HbCs, HbQs, phát hiện được
33/40(82,5%) mẫu đều mang 2 đột biến, 7 mẫu
chỉ phát hiện được 1 đột biến mất đoạn 2 gen
SEA. Trong trường hợp này chúng tôi tiến hành
giải trình tự gen và MLPA để tìm đột biến còn lại.
Đối với 7 mẫu mới phát hiện 1 đột biến (SEA),
chúng tôi tiếp tục tiến hành giải trình tự gen phát
hiện 4 đột biến điểm c.2delT(ATG>A-G), 1 đột biến
điểm c.92G>A,1 đột biến điểm c.426A>T và sử
dụng kỹ thuật MLPA phát hiện đột biến mât đoạn
1 gen HbA1. Đặc biệt đột biến điểm c.426A>T
(p.Term143Tyr) là đột biến điểm đầu tiên gây bệnh
Hemoglobin Pakse được phát hiện ở mức độ phân
tử tại Việt Nam. Phát hiện này bước đầu mang
nhiều ý nghĩa, đóng vai trò quan trọng trong việc
xác định các đột biến hiếm gặp và đột biến mới.
Bệnh HbH là bệnh tan máu mạn tính ở nhiều
mức độ khác nhau. Dựa vào hai loại đột biến có thể
gặp trên gen α globin, bệnh HbH được chia thành
hai thể: đột biến mất đoạn (deletional type) và đột
biến không mất đoạn (non-deletional type). Bệnh
không do mất đoạn gen thường có biểu hiện lâm
sàng nặng hơn loại do mất đoạn gen [7]. Do đó,việc
xác định loại đột biến gây bệnh HbH đóng vai trò rất
quan trọng trong vấn đề tiên lượng mức độ của bệnh
để đưa ra các quyết định điều trị phù hợp, đặc biệt
trong việc tư vấn di truyền và chẩn đoán trước sinh.
5. KẾT LUẬN
Tỷ lệ phát hiện đột biến là 40/40 (100%). Kỹ
thuật Multiplex Gap PCR và CARMS PCR đã phát
hiện 33/40(82,5%) bệnh nhân, trong đó kiểu gen
(--SEA/-HbCs) chiếm tỷ lệ cao nhất:17/40 (42,5%).
Kỹ thuật MLPA phát hiện 1/40 (2,5%) bệnh nhân
mang đột biến (-- SEA/- HbA1) và 4/40 (10%) bệnh
nhân mang đột biến (-- SEA/- c.2delT), 1/40(2,5%)
bệnh nhân mang đột biến (--SEA/-c.92G>A) và
(--SEA/-c.426A>T) được phát hiện bằng phương
pháp giải trình tự gen HbA1, HbA2.
Việc xác định loại đột biến gây bệnh HbH đóng
vai trò rất quan trọng trong vấn đề tiên lượng
mức độ của bệnh để đưa ra các quyết định điều
trị phù hợp, đặc biệt trong việc tư vấn di truyền
và chẩn đoán trước sinh, giảm nguy cơ sinh con
bị bệnh, làm tăng chất lượng cuộc sống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Amy Yuk-Yin Chan, Chi-Chiu So, Edmond
Shiu-Kwan Ma et al. A laboratory strategy for
genotyping haemoglobin H disease in the Chinese.
J Clin Pathol 2007; 60: 931–934.
2. Higgs DR, Vickers AOM, Wilkie I-M, et al. A
review of the molecular genetics of the human
a-globin gene cluster. Blood1989;73:1081–104.
3. Liebhaber SA. A-Thalassemia. Hemoglobin
1989; 13: 685–731.
4. Guangxi province, Southern China:
clinical review of 357 patients.Acta Haematol.
2010; 124(2): 86–91.
5. Chen FE, Ooi C, Ha SY, et al. Genetic and
clinical features of hemoglobin H.
6. Yin XL, Zhang XH, Zhou TH, et al. Hemoglobin
H disease in disease in Chinese patients.N Engl J
Med2000;343:544–50.
7. Chan Pui Wah Vicky. (2003). “Molecular
Genetics of HbH Disease in Hong Kong Chinese”.
Thesis submitted for the Degree of Master Science,
Dept of Pathology, Hong Kong University.
8. Fang J, Chen L, Zeng R, Tian Q,et al. The Hb H
disease genotypes in Southern China. Hemoglobin.
2014; 38(1): 76-8.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ung_dung_ky_thuat_phan_tu_phat_hien_dot_bien_gen_globin_gay.pdf