11C-Acetate
11C- acetate được chất dùng trong PET như là tiền
chất của axit béo trong màng tế bào và được chuyển
hóa thành Acetyl-CoA. Do đó, nó có tính chất như một
phân tử tham gia vào quá trình chuyển hóa dị hóa
đường và chuyển hóa qua màng thế bào. Ban đầu,
người ta ứng dụng 11C-acetate trong tim mạch để đánh
giá chuyển hóa trong cơ tim. Ngày nay, 11C- acetate
được sử dụng trong ung thư như một chất tương tự
choline để chẩn đoán ung thư tiền liệt tuyến. Delbeke
và cộng sự còn sử dụng 11C-acetate để phối hợp cùng
với 18F-FDG để đánh giá khối u gan. Kết quả bước đầu
cho thấy 11C-acetate chỉ có độ nhạy cao với ung thư
gan độ ác tính thấp trong khi đó FDG nhạy hơn với ung
thư gan độ ác tính cao [2].
Những dược chất khác
18F-FLT (Fluoro – levo – thymidine) là một trong
những dược chất được đặt nhiều kỳ vọng trong
ung thư. Thymidine có cấu trúc cơ bản giống như
deoxyribonucleic acid (DNA). Chính vì vậy 18F-FLT là
dấu ấn đặc hiệu của sự phân chia tế bào. Do đó, 18F –
FLT có độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn so với 18FDG
trong chẩn đoán ung thư bởi vì chất này không bắt vào
những tổ chức viêm. Ứng dụng phổ biến nhất của 18FLT
là trong ung thư phổi. Chẩn đoán phân biệt tổn thương
dạng nốt đơn độc ở phổi là lành tính hay ác tính là một
vấn đề cực kỳ quan trọng. Mặc dù 18FDG – PET có độ
nhạy và độ đặc hiệu ở mức cao nhưng đôi khi cũng
hay gặp nhiều trường hợp dương tính giả do u hạt và
các tổ chức viêm cũng bắt giữ FDG gây ra dương tính
giả trong chẩn đoán. Đối với ung thu phổi không tế bào
nhỏ, 18FLT dường như rất phù hợp những lại có giá trị
thấp hơn so với 18FDG PET trong chẩn đoán di căn
hạch và di căn xa.
Một ứng dụng khác của 18FLT là chẩn đoán u hệ
thần kinh trung ương. Tương tự như đã phân tích với
methionine, 18FLT tăng chuyển hóa không nhiều ở nhu
mô não bình thường. 18FLT PET có hình ảnh với độ
tương phản cao nhưng không có nhiều thông tin về mặt
giải phẫu. Do vậy, những nghiên cứu trong tương lai
cần phải trả lời câu hỏi làm thể nào để phân biệt được
giữa tổn thương lành tính và ác tính, giữa tổn thương
ác tính tồn dư và hoại tử do xạ trị. Nếu 18FLT trở thành
dược chất đặc hiệu trong chẩn đoán ung thư não thì sẽ
rất có ích trong việc phối hợp với CT và MRI để định
hướng chính xác cho sinh thiết, lập kế hoạch xạ trị đối
với khối u không đồng nhất, phát hiện sớm tổn thương
tái phát.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng lâm sàng PET/CT sử dụng dược chất phóng xạ không phải 18F-FDG trong ung thư, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013204
DIỄN ĐÀN
MEDICAL FORUM
ỨNG DỤNG LÂM SÀNG PET/CT SỬ DỤNG
DƯỢC CHẤT PHÓNG XẠ KHÔNG PHẢI
18F-FDG TRONG UNG THƯ
Clinical Non-FDG PET/CT Applications in Oncology
Lê Ngọc Hà*, Mai Hồng Sơn**
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dược chất phóng xạ được dùng phổ biến nhất
trong thực hành lâm sàng và trong ung thư chính là
Fluoro – Deoxy – Glucose (8FDG). 8FDG được bắt giữ
vào tế bào nhờ cơ chế vận chuyển glucose sau đó
phosphorylated và không chuyển hóa tiếp. 18FDG PET
có độ nhạy cao (trên 90%) trong đánh giá, chẩn đoán
giai đoạn, đánh giá đáp ứng và theo dõi sau điều trị.
Hơn nữa, 8FDG còn được sử dụng trong chẩn đoán
những bệnh không phải ung thư như sa sút trí tuệ tuổi
già, đánh giá cơ tim sống còn. Mặc dù 8FDG đã được
ứng dụng rộng rãi trong lâm sàng nhưng không phải tất
cả các loại ung thư đều bắt 8FDG trên hình ảnh 8FDG
PET. Cụ thể là ung thư tiền liệt tuyến, ung thư thần kinh
nội tiết và ung thư gan có thể không có đặc tính bắt
8FDG. Trong một số trường hợp các nhà lâm sàng gặp
khó khăn đánh giá tổn thương ác tính ở những vị trí mô
mềm có bắt giữ 8FDG theo đặc điểm sinh lý ở hệ thần
kinh trung ương hoặc hệ tiết niệu (thận, bàng quang)
cũng như phân biệt giữa tổn thương viêm và ung thư.
Vì vậy, ngoài 8FDG, người ta còn sử dụng những dược
chất phóng xạ khác đặc biệt đã đưa vào nghiên cứu
và ứng dụng trong thực hành lâm sàng như 11C và 18F
choline, 11C- Methionine và 18F – PET, 18 F – DOPA,
68Ga- DOTA – somatostatine, 11C – Acetate và 18F – FLT
(bảng 1).
II. GIÁ TRỊ LÂM SÀNG CỦA MỘT SỐ DƯỢC CHẤT
PHÓNG XẠ KHÔNG PHẢI 18FDG
11C – và 18F-Choline
Choline là một phân tử nhỏ được tổng hợp từ
phosphodatedylcholine là thành phần chủ yếu của
phospholipid trong màng tế bào, chất chỉ điểm cho sự
chuyển hóa ở màng tế bào. Người ta đã sử dụng để
nghiên cứu ung thư tiền liệt tuyến biệt hóa rõ. Do việc
*Khoa Y học hạt nhân, Bệnh viện TƯQĐ 108
**Bộ môn Chẩn đoán hình ảnh, Viện Nghiên cứu Y Dược
Lâm sàng 108
SUMMARY
In clinical practice 18FDG-PET is applied in almost cancers in staging, re-staging, monitoring therapy response
and the follow-up. On the other hand, at no time do all tumors show significant increase of 18FDG uptake on PET
imaging. Particularly in prostate cancer, neuroendocrine and hepatocellular carcinoma... In this review we have
introduced those already used for clinical applications like 11C- and 18F-Choline, 11C-Methionine and 18F-FET,
18F-DOPA, 68Ga-DOTA-somatostatine analogues, 11C-acetate and 18F-FLT. Choline has indicated a high affinity for
prostate cancer, even if low grade being labelled with either 11C or 18F, the former being the preference by dint of
lower urinary excretion and patients exposure. The latter is more beneficial for centers without on-site cyclotron.
Methionine is required for protein synthesis and tumor cells which have been used for imaging of CNS neoplasms.
NET tumors demonstrate an increased activity of L-DOPA decarboxylase, hence high uptake of 18FDOPA. 18F-FLT is
a specific marker in application of FLT is lung cancer. Other tracers are used in PET utilized include 18F-MISO, 64Cu-
ATSM, 18F-EF5, which highlight the presence of hypoxic areas are useful for radiotherapy.
Key words: radiopharmaceuticals, choline, methionine, DOPA, DOTA, FLT.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013 205
DIỄN ĐÀN
bắt giữ 18FDG có thể bị ảnh hưởng bởi quá trình viêm
hoặc bài tiết hoặc ung thư, do đó, khó có thể đánh giá
ung thư nguyên phát và đặc biệt là những tổn thương
nghi ngờ tái phát tại chỗ. Choline được đánh giá là có
ái tính cao đối với ung thư tiền liệt tuyến, thậm chí với
các loại ung thư độ ác tính thấp. Chất này có thể được
gắn với 11C và 18F, 11C được bài tiết ít hơn qua đường
niệu do đó giảm liều hấp thu cho bệnh nhân. Trái lại, sử
dụng 18F thuận tiện hơn ở những trung tâm y học hạt
nhân không có cyclotron tại chỗ do thời gian bán hủy
dài hơn (110 phút).
Một số công trình nghiên cứu đã công bố về vai
trò của Choline PET/CT trong ung thư tiền liệt tuyến
và khuyến cáo rằng lợi ích cao nhất của phương pháp
này chính là chẩn đoán ung thư tiền liệt tuyến tái phát.
Ở những bệnh nhân được phẫu thuật cắt bỏ tiền liệt
tuyến hoặc xạ trị mà chỉ số PSA tăng cao, đồng thời
không phát hiện được tổn thương trên những phương
pháp chẩn đoán hình ảnh thông thường như siêu âm
qua đường trực tràng, xạ hình xương, MRI tiểu khung
thì Choline PET/CT dường như là phương pháp chẩn
đoán có giá trị cao với độ nhạy 80%, độ đặc hiệu lên
tới 96%, độ chính xác 93% trong chẩn đoán sớm di căn
hạch và di căn xương. Tổn thương di căn xương trên
Choline PET có thể được chẩn đoán sớm hơn so với xạ
hình xương do Choline bắt giữ vào màng tế bào trước
khi có sự thay đổi của tổ chức ác tính dạng đặc xương.
Bảng 1. Chỉ định chính sử dụng những dược chất phóng xạ không phải FDG PET
11C- và 18F – Choline
• Đánh giá giai đoạn sau điều trị và tái phát trong ung thư tiền liệt tuyến.
• Đánh giá giai đoạn trong ung thư tiền liệt tuyến.
• Xác định di căn hạch trong ung thư tiền liệt tuyến.
11C-Methionine
• Chẩn đoán phân biệt giữa tổn thương phù nề, xơ hóa hoặc hoại từ với tổn thương ác tính tái phát trong
ung thư hệ thần kinh trung ương.
• Xác định chính xác hơn vùng xạ trị trong ung thư hệ thần kinh trung ương và ung thư đầu – cổ.
• Đánh giá sớm đáp ứng với điều trị xạ trị trong ung thư đầu – cổ.
• Định vị vùng tăng chuyển hóa cao nhất trong khối u não để dẫn đường cho sinh thiết.
• Đánh giá bệnh nhân có bệnh cường cận giáp.
18F- DOPA PET trong ung thư thần kinh nội tiết
• Định vị khối u nguyên phát (đặc biệt ở nhũng tổn thương kích thước nhỏ không phát hiện được trên
các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác).
• Đánh giá giai đoạn sau điều trị.
• Đánh giá giai đoạn trước điều trị.
• Đánh giá đáp ứng điều trị.
Chỉ định của 68Ga – DOTA – thụ thể somatostatin trong ung thư thần kinh nội tiết
• Chưa xác định vị trí u nguyên phát ở những bệnh nhân đã có tổn thương di căn ở gan.
• Chưa định vị được tổn thương nguyên phát ở bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng và chỉ số sinh hóa
trong ung thư thần kinh nội tiết.
• Đánh giá giai đoạn trước phẫu thuật.
• Đánh giá giai đoạn ở những bệnh nhân đã có kết quả mô bệnh học.
• Đánh giá lại giai đoạn.
• Theo dõi đáp ứng với điều trị
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013206
DIỄN ĐÀN
Ngoài ra Choline PET còn có lợi ích trong phát hiện tái
phát tại chỗ nhưng với độ nhạy thấp hơn [5]. Một số tác
giả còn nghiên cứu về mối liên quan giữa tổn thương ác
tính phát hiện trên Choline PET và nồng độ PSA trong
huyết thanh. Castellucci và cs đã khẳng định nồng độ
PSA có mối liên hệ mật thiết với kết quả dương tính
trên PET (có nghĩa là nồng độ PSA càng cao thì tốc độ
phát triển của ung thư tiền liệt tuyến càng nhanh). [1]
Tuy nhiên, Farsad và cs vẫn còn nghi ngờ về tính hiệu
quả của phương pháp này trong việc phát hiện sớm
ung thư nội tiền liệt tuyến nguyên phát (intra – prostatic
primary cancer) và cho rằng Choline PET phải được
áp dụng một cách chọn lọc với những đối tượng bệnh
nhân có nguy cơ cao với nhiều lần sinh thiết âm tính.
Hiện nay, 11C-Choline PET được coi là một xét nghiệm
có hiệu quả để đánh giá những bệnh nhân ung thư tiền
liệt tuyến đã được phẫu thuật triệt căn, có tăng nồng độ
PSA và âm tính đối với những phương pháp chẩn đoán
thông thường khác (hình 1).
11C-methionine và 18F – PET
Cộng hưởng từ (MRI) là một phương pháp kinh
điển để đánh giá những khối u não. Nhờ những chuỗi
xung khác nhau mà các nhà chẩn đoán hình ảnh có
thể phân biệt được đặc điểm lý sinh của nhu mô não
và khối u. Tuy nhiên, MRI cũng có những hạn chế nhất
định như không đủ chính xác để chẩn đoán u tế bào
thần kinh đệm thâm nhiễm (infintrating gliomas cells)
và gần như cũng không thể đánh giá được những vùng
này trong khi phẫu thuật. Điều trị xạ trị theo thể tích khối
u phải mở rộng trường chiếu ra cả những tế bào đã bị
thâm nhiễm. Vì vùng điều trị bao gồm cả phần nhu mô
não bình thường, nên tổng liều xạ trị sử dụng bị giảm
xuống để tránh hoại tử do xạ trị. Vì lý do đó, u tế bào
thần kinh đệm rất dễ tái phát sau điều trị ở hầu hết các
bệnh nhân. MRI còn có nhược điểm trong việc đánh
giá độ ác tính của khối u. Độ nhạy của MRI trong chẩn
đoán ung thư có độ ác tính cao chỉ là 65% còn độ đặc
hiệu là 95%. Bên cạnh đó, phương pháp sinh thiết, mô
Hình 1. Bệnh nhân nam 53 tuổi, Ung
thư tiền liệt tuyến biệt hóa mức độ
vừa. pT3, p N0, Gleason score 8.
Chụp 11C-choline PET/CT (32 tháng
sau phẫu thuật, PSA = 32,5ng/ml)
phát hiện hạch chậu ngoài, đường
kính 13mm, tăng chuyển hóa choline
do di căn.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013 207
DIỄN ĐÀN
bệnh học được coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán
xác định thì lại có nhiều nguy cơ gây biến chứng, ảnh
hưởng đến tính mạng bệnh nhân và khó thực hiện. Ở
những bệnh nhân u tế bào thần kinh đệm độ ác tính
thấp, chỉ có một nửa được phân loại chính xác bằng
MRI và trên thực tế thì có tới 1/3 số bệnh nhân không
phát hiện được có độ ác tính cao. Nhiều nghiên cứu đã
chỉ ra rằng việc phát hiện sớm tổn thương tái phát ở
bất kỳ giai đoạn không có triệu chứng nào cũng có tác
dụng hỗ trợ làm cải thiện thời gian sống thêm của bệnh
nhân. Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh truyền
thống như chụp CT, MRI có tiêm thuốc cản quang có
giá trị để chẩn đoán những tổn thương tái phát sau điều
trị nhưng rất khó hoặc thậm chí là không thể phân biệt
được một cách chính xác giữa những tổn thương ác
tính và xơ, sẹo sau phẫu thuật cũng như hoại tử và
phù nề. Đường cần thiết cho nhu cầu chuyển hóa chủ
yếu của chất xám và nhu mô não có đặc tính bắt giữ
FDG theo đặc điểm sinh lý. Do đó, những tổn thương
ác tính với kích thước nhỏ như trong trường hợp của
tổn thương ác tính tái phát sau điều trị thì không hề dễ
dàng để chẩn đoán nếu 18FDG PET vì có thể sẽ bị che
lấp bởi hình ảnh tăng chuyển hóa 18FDG ở tổ chức bình
thường lân cận [4].
Định lượng 11C-methionine và tyrosine cho phép
đánh giá chuyển hóa amino acid và tổng hợp protein.
Methionine cần cho tổng hợp protein như một tiền chất
của S- adenosylmethionine, cung cấp cho quá trình
tổng hợp các chuỗi amine. Sự tăng bắt giữ methionine
phản ánh sự tăng của chất vận chuyển trung gian, tăng
độ thẩm thấu của mạch máu và sinh tổng hợp protein
ở những tổ chức ung thư (tế bào ác tính có nhu cầu
methionine cao hơn bình thường rất nhiều). Nhược
điểm chính khi sử dụng 11C-methionine là phải bắt buộc
có trung tâm cyclotron tại chỗ, vì vậy, 18-F gắn tyrosine
được khuyến cáo để thay thế. Những chất này được
dùng chủ yếu để chụp hình chẩn đoán u hệ thần kính
trung ương. Bình thường chất não (chất xám), tổ chức
xơ – sẹo, hoại tử, phù nề bắt giữ các dược chất này ở
mức thấp. PET được chỉ định chụp khi mà các phương
pháp thông thường khác không phân biệt được những
tổ chức lành tính như phù nề, xơ hóa, hoại từ với tổn
thương ác tính. Chỉ số SUV cao nhất đo được trong
khối u não đôi khi được cân nhắc như một yếu tố có
giá trị tiên lượng bệnh. 11C- Methionine PET cũng được
áp dụng để xác định trường chiếu trong xạ trị tốt hơn,
mặt khác, PET/CT còn định vị chính xác những vị trí bắt
giữ phóng xạ cao nhất ở khối u não để dẫn đường cho
sinh thiết hoặc đánh giá sớm hiệu quả sau điều trị xạ
trị ở bệnh nhân ung thư đầu – cổ (những tổ chức viêm
thường bắt giữ 11C- methionine thấp) [6].
18F- DOPA
18F – DOPA có cấu tạo là một vòng thơm axit amin
gắn với 18Fluore. 18F-Fluoro – L - DOPA đã được sử
dụng để đánh giá hoạt tính của vòng thơm amino axit
dercarboxylase đánh giá hệ dopaminergic trên bệnh
nhân Parkinson. Bên cạnh đó, 18F- DOPA còn được biết
đến với những ứng dụng trong thực hành ung thư, cụ
thể là ung thư mào thần kinh (neural crest tumor). Các
ung thư thần kinh nội tiết (carcinoid, pheocromocytoma,
nguyên bào thần kinh, ung thư tuyến giáp thể tủy,
microcytoma, ung thư tiểu thể cảnh và ung thư hắc tố) có
biểu hiện tăng chuyển hóa của L-DOPA decarboxylase,
do đó những ung thư này đều tăng chuyển hóa cao đối
với 18F-DOPA. 111In-Ostreoscan SPECT hoặc 123I-MIBG
SPECT thường được chỉ định trong những trường hợp
này. Tuy nhiên, do độ phân giải không cao nên những
tổn thương nhỏ nhiều khả năng bị bỏ sót. Do khả năng
tập trung nồng độ axit amin trong tế bào, 18F-DOPA
được người ta coi như một dược chất đặc hiệu có độ
nhạy và độ đặc hiệu cao hơn những phương pháp chẩn
đoán khác. Tuy nhiên, theo y văn, ứng dụng của dược
chất này vẫn còn tương đối ít vì sản xuất 18F-DOPA là
không hề dễ dàng và ung thư thần kinh nội tiết là bệnh
hiếm gặp.
Người ta chú trọng đến những đồng chất của
somatostatin dùng trong PET như 68Ga và sử dụng
18F-DOPA trong ung thư chỉ lựa chọn cho ung thư tuyến
giáp thể tủy và pheochromocytoma. Đối với chuyên
ngành thần kinh, chúng ta có thể sử dụng 18F-DOPA vì
L-DOPA (L-dihydroxyphenylalanine) liên quan rất chặt
chẽ đến thoái hóa tế bào thần kinh và những rối loạn
vận động dùng để chẩn đoán sớm và theo dõi bệnh lý
liên quan đến sự thoái hóa dẫn truyền dopamine như
bệnh Parkinson.
Thụ thể 68Ga-DOTA-somatostatin
111In –DTPA-ostreotide (Ostreocan) có độ nhạy rất
cao trong phát hiện ung thư thần kinh nội tiết và được
sử dụng một cách kinh điển để đánh giá bệnh và định
hướng điều trị. Nguyên tắc cơ bản trong điều trị đặc
hiệu cho loại ung thư này là dùng thụ cảm thể tương
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013208
DIỄN ĐÀN
tự somatostatin và sử dụng chất gắn với somatostatin
để điều trị ở những bệnh nhân không phẫu thuật được.
Trong những nghiên cứu về ung thư thần kinh nội tiết,
dược chất phóng xạ được dùng trong PET là 68Ga-
DOTA-NOC. Hợp chất dùng trong chụp hình PET có ái
tính cao với thụ thể sst2 và sst5 trong chẩn đoán bệnh
ung thư này. Sự tăng chuyển hóa của 68Ga- DOTA-NOC
phụ thuộc vào thụ cảm thể tại khối u. Mặc dù vẫn chưa
được nghiên cứu đầy đủ nhưng độ nhạy của chất này
cao hơn so với Octreoscan nhưng thấp hơn 18F-DOPA
- chất được tích lũy thông qua cơ chế chuyển hóa vì
một vài loại ung thư có biểu hiện thụ thể somatostatin
ở mức thấp. Hơn nữa, 68Ga- DOTA-NOC có nhiều ưu
điểm hơn so với Octreoscan do có độ phân giải cao,
chụp đánh giá được toàn thân với thời gian ngắn hơn,
dễ tổng hợp và áp dụng được trong PET/CT, làm tăng
độ chính xác trong chẩn đoán [3]. 68Ga- DOTA-NOC
PET đem lại ưu thế trước khi điều trị để đánh giá phân
bố sinh học của thuốc. Độ nhạy và độ đặc hiệu của
68Ga- DOTA-NOC so với 18F-DOPA thì vẫn còn đang
trong quá trình nghiên cứu. Tuy vậy, cả hai chất này
đều có ý nghĩa thực tiễn nhất định trong chẩn đoán ung
thư thần kinh nội tiết.
11C-Acetate
11C- acetate được chất dùng trong PET như là tiền
chất của axit béo trong màng tế bào và được chuyển
hóa thành Acetyl-CoA. Do đó, nó có tính chất như một
phân tử tham gia vào quá trình chuyển hóa dị hóa
đường và chuyển hóa qua màng thế bào. Ban đầu,
người ta ứng dụng 11C-acetate trong tim mạch để đánh
giá chuyển hóa trong cơ tim. Ngày nay, 11C- acetate
được sử dụng trong ung thư như một chất tương tự
choline để chẩn đoán ung thư tiền liệt tuyến. Delbeke
và cộng sự còn sử dụng 11C-acetate để phối hợp cùng
với 18F-FDG để đánh giá khối u gan. Kết quả bước đầu
cho thấy 11C-acetate chỉ có độ nhạy cao với ung thư
gan độ ác tính thấp trong khi đó FDG nhạy hơn với ung
thư gan độ ác tính cao [2].
Những dược chất khác
18F-FLT (Fluoro – levo – thymidine) là một trong
những dược chất được đặt nhiều kỳ vọng trong
ung thư. Thymidine có cấu trúc cơ bản giống như
deoxyribonucleic acid (DNA). Chính vì vậy 18F-FLT là
dấu ấn đặc hiệu của sự phân chia tế bào. Do đó, 18F –
FLT có độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn so với 18FDG
trong chẩn đoán ung thư bởi vì chất này không bắt vào
những tổ chức viêm. Ứng dụng phổ biến nhất của 18FLT
là trong ung thư phổi. Chẩn đoán phân biệt tổn thương
dạng nốt đơn độc ở phổi là lành tính hay ác tính là một
vấn đề cực kỳ quan trọng. Mặc dù 18FDG – PET có độ
nhạy và độ đặc hiệu ở mức cao nhưng đôi khi cũng
hay gặp nhiều trường hợp dương tính giả do u hạt và
các tổ chức viêm cũng bắt giữ FDG gây ra dương tính
giả trong chẩn đoán. Đối với ung thu phổi không tế bào
nhỏ, 18FLT dường như rất phù hợp những lại có giá trị
thấp hơn so với 18FDG PET trong chẩn đoán di căn
hạch và di căn xa.
Một ứng dụng khác của 18FLT là chẩn đoán u hệ
thần kinh trung ương. Tương tự như đã phân tích với
methionine, 18FLT tăng chuyển hóa không nhiều ở nhu
mô não bình thường. 18FLT PET có hình ảnh với độ
tương phản cao nhưng không có nhiều thông tin về mặt
giải phẫu. Do vậy, những nghiên cứu trong tương lai
cần phải trả lời câu hỏi làm thể nào để phân biệt được
giữa tổn thương lành tính và ác tính, giữa tổn thương
ác tính tồn dư và hoại tử do xạ trị. Nếu 18FLT trở thành
dược chất đặc hiệu trong chẩn đoán ung thư não thì sẽ
rất có ích trong việc phối hợp với CT và MRI để định
hướng chính xác cho sinh thiết, lập kế hoạch xạ trị đối
với khối u không đồng nhất, phát hiện sớm tổn thương
tái phát..
VI. KẾT LUẬN
18FDG vẫn là dược chất chính được sử dụng trong
chụp PET, chiếm khoảng trên 90% số ca chụp PET
trong ung thư, tim mạch và thần kinh. Tuy nhiên, nhiều
trường hợp 18FDG PET có nhiều nhược điểm như trong
ung thư tiền liệt tuyến, ung thư gan, ung thư hệ thần
kinh trung ương và ung thư thần kinh nội tiết. Trong
những trường hợp đó, những dược chất phóng xạ đặc
hiệu cho từng loại ung thư cụ thể gắn với 11C, 18F và
68Ga sẽ được cân nhắc sử dụng. Trong số các dược
chất phóng xạ này, một vài chất rất khó tổng hợp do
thời gian bán hủy ngắn, vì vậy, chỉ những trung tâm y
học hạt nhân có cyclotron mới đủ khả năng tổng hợp
và sử dụng. Một số dược chất phóng xạ đã có vai trò
đáng kể và được chấp nhận trong thực hành lâm sàng.
Trong tương lai, số lượng dược chất phóng xạ sẽ còn
tăng mạnh để đáp ứng yêu cầu cụ thể, tăng độ nhạy, độ
đặc hiệu ở từng loại bệnh ung thư khác nhau.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013 209
DIỄN ĐÀN
1. Schiavina R Farsad M, Castellucci P, Nanni
C, Corti B, Martorana G, et al. (2005), “Detection and
localization of prostate cancer: Correlation of (11)
C-choline PET/CT with histopathologic step-section
analysis”, J Nucl Med. 46, 1642-9.
2. Sarlis NJ Gourgiotis L, Reynolds JC, VanWaes
C, Merino MJ, Pacak K. (2003), “Localization of
Medullary Thyroid Carcinoma Metastasis in a Multiple
Endocrine Neoplasia Type 2A Patient by 6-[18F]-
Fluorodopamine Positron Emission Tomography”, J
Clin Endocrinol Metab. 88, 637-41.
3. Ghanem N Hoegerle S, Altehoefer C, Schipper
J, Brink I, Moser E, et al. (2003), “positron emission
tomography for the detection of glomus tumors”, Eur J
Nucl Med Mol Imaging. 30, 689-94.
4. Chung JK Kim S, Im SH, Jeong JM, Lee DS,
Kim DG, et al. (2005), “11C-methionine PET as a
prognostic marker in patients with glioma: Comparison
with 18F-FDG PET”, Eur J Nucl Med Mol Imaging. 52-
59.
5. Landoni C Picchio M, Messa C, Gianolli L,
Matarrese M, De Cobelli F, et al. (2002), “Positive [11C]
choline and negative [18F]FDG with positron emission
tomography in recurrence of prostate cancer”, AJR Am
J Roentgenol. 179, 482-484.
6. Goldman S Pirotte B, Massager N, David P,
Wikler D, Vandesteene A, et al (2004), “Comparison
of 18F-FDG and 11C-Methionine for PET-Guided
Stereotactic Brain Biopsy of Gliomas”, J Nucl Med. 45,
1293-8.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÓM TẮT
Trong thực hành lâm sàng, 18FDG-PET thường được sử dụng trong chẩn đoán giai đoạn, đánh giá và theo dõi
kết quả điều trị ở nhiều bệnh nhân ung thư. Tuy nhiên, không phải tất cả các khối u ác tính đều tăng chuyển hóa
18FDG. Trong bài tổng quan này, chúng tôi xin giới thiệu một số ứng dụng lâm sàng của các dược chất phóng xạ
của PET không phải 18FDG như 11C- và 18F-choline, 11C-methionine, 18F-FET, 18F-DOPA, 68Ga-DOTA-somatostatine,
11C-acetate và 18F-FLT ... 11C- và 18F-choline có ái tính cao với ung thư tuyến tiền liệt, thậm chí với loại có độ ác tính
thấp. Choline có thể được gắn với cả 11C và 18F, 11C có ưu điểm là bài tiết ít hơn qua đường tiết niệu, giảm liều bức
xạ cho bệnh nhân còn 18F lại thuận tiện hơn cho các trung tâm không không có cyclotron. Methionine rất cần cho
quá trình tổng hợp protein của các tế bào ung thư. Dược chất này được ứng dụng chủ yếu trong việc đánh giá ung
thư hệ thần kinh trung ương. Các khối u thần kinh – nội tiết có sự tăng hoạt động của L-DOPA decarboxylase nên
bắt giữ 18F-DOPA. 18FLT là một chất chỉ điểm đặc hiệu của sự tăng sinh các tể bào ác tính, đặc biệt là trong ung thư
phổi. Nhiều dược chất phóng xạ mới đang được nghiên cứu và ứng dụng lâm sàng như 18F- MISO, 64 Cu – ATSM
ở bệnh nhân xạ trị.
Từ khóa: dược chất phóng xạ, choline, methionine, DOPA, DOTA, FLT.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ung_dung_lam_sang_petct_su_dung_duoc_chat_phong_xa_khong_pha.pdf