Khẳng định chính sách phát triển kinh tế xã hội
hiện nay ở Việt Nam đang phù hợp và phát triển
đúng hướng nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế,
gia tăng quy mô thị trường. Đây là yếu tố quan trọng
mà các nhà đầu tư nước ngoài cân nhắc đầu tiên khi
xem xét đưa ra quyết định. Bởi sự tăng trưởng ổn
định về kinh tế, sự gia tăng quy mô thị trường sẽ tạo
điều kiện thuận lợi để Việt Nam chuẩn bị tốt các
điều kiện về quy hoạch xây dựng, gắn với quy hoạch
khu công nghiệp, quy hoạch phát triển đô thị, nhà ở
và dịch vụ. Từ đó tạo điều kiện tập trung đầu tư hạ
tầng, kết nối địa phương với vùng, với quốc gia; ưu
tiên đầu tư phát triển hạ tầng bên trong các khu công
nghiệp. Mặt khác, cần tăng cường nội lực, tạo điều
kiện xây dựng môi trường cạnh tranh công bằng
giữa các doanh nghiệp ngoại và nội địa. Ngoài ra,
trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến
động, Nhà nước cần bám sát sự thay đổi của nền
kinh tế thế giới nhằm điều hành chính sách giá cả,
lãi suất, tỷ giá một cách linh hoạt, chủ động, góp
phần ổn định nền kinh tế vĩ mô.
Độ mở thương mại của nền kinh tế lớn như hiện
nay chính là thành quả của việc tham gia nhiều hiệp
định thương mại, nhiều tổ chức quốc tế. Trong thời
gian tới cần tận dụng tốt hơn các cơ hội đến từ các
tổ chức, hội nghị này bằng cách gia tăng chất lượng
hàng hóa, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng quốc
tế. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần có những
chính sách truyền thông tích cực đưa hình ảnh của
Việt Nam ra thế giới để các đối tác có những đánh
giá đúng về thực trạng kinh tế xã hội của Việt Nam.
Từ đó đẩy mạnh giao thương xuất nhập khẩu, gia
tăng độ mở thương mại của nền kinh tế, thu hút
thêm các nhà đầu tư đến từ nước ngoài.
Lợi thế về lượng nhân công trẻ, dồi dào, sẵn có
với chi phí tiền lương thấp hơn các nước trong khu
vực cũng là một trong những điểm quan tâm thu hút
các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, so với các
nước trong khu vực thì chất lượng lao động ở Việt
Nam không cao, nhất là lao động đòi hỏi có trình độ,
có tay nghề cao. Chính điều này cũng đã hạn chế
việc thu hút các dự án đầu tư có chất lượng vào Việt
Nam trong thời gian qua. Vì vậy, trong thời gian tới,
Chính phủ cần tăng cường đầu tư cho giáo dục đào
tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo
số lượng đi kèm chất lượng. Ngoài ra, cần gia tăng
sự hiểu biết về công nghệ của người lao động, giúp
họ sẵn sàng tiếp nhận công nghệ, khoa học từ nước
chủ đầu tư, góp phần thúc đẩy chuyển giao công
nghệ; khuyến khích sự hợp tác giữa doanh nghiệp
FDI và cơ sở giáo dục nhằm đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu lao động của các nhà đầu tư và giải
quyết vấn đề thừa nhân lực trong nước. Đặc biệt,
trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều bất ổn
như hiện nay, dòng vốn FDI đang ngày càng bị thu
hẹp dần, các quốc gia trên thế giới lại ra sức nâng
cao năng lực cạnh tranh nhằm thu hút dòng vốn này.
Vì thế, nếu Việt Nam không có những cải thiện về
chất lượng lao động thì sẽ rất khó có thể thu hút
được dòng vốn FDI. Như vậy, đã đến lúc Việt Nam
phải nâng cao chất lượng lao động để từ đó tạo điều
kiện nâng cao chất lượng và số lượng dòng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
9 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 809 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng mô hình Ardl nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sè 143/2020 thương mại
khoa học
1
2 
11 
19 
31 
38 
45 
54 
61 
67 
76 
82 
MỤC LỤC 
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ 
1. Nguyễn Thu Thuỷ, Nguyễn Việt Dũng và Tạ Thúy Quỳnh - Áp dụng mô hình ARDL nghiên cứu 
tác động của các chỉ số giá đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Mã số: 143.1FiBa11 
Application of ARDL model for studying the impact of price indicators on the Vietnamese 
stock market 
2. Đỗ Thị Vân Trang, Đinh Hồng Linh và Lê Thùy Linh - Ứng dụng mô hình ARDL nghiên cứu 
các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Mã số:143.1TrEM.11 
Determinants of Foreign Direct Investment In Vietnam: ARDL Model 
3. Vũ Văn Hùng và Hồ Kim Hương - Nghiên cứu tác động của chính sách hỗ trợ đào tạo nghề đối 
với thu nhập của hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam. Mã số: 143.1DEco.12 
A Study on the Impact of Vocational Training Policies on Household’s Income in Vietnam’s 
Rural Areas 
4. Võ Thị Ánh Nguyệt và Nguyễn Hoàng Minh Trí - Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu hộ 
gia đình ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Mã số: 143.1DEco.11 
An Analysis of the Factors Affecting Household Spending in Mekong Delta 
QUẢN TRỊ KINH DOANH 
5. Nguyễn Quốc Thịnh, Khúc Đại Long và Nguyễn Thu Hương - Quản trị tài sản trí tuệ trong doanh 
nghiệp Việt Nam - động lực cho sự khác biệt hóa. Mã số: 143.2BAdm.22 
Intellectual Property Management in Vietnamese Businesses - Motivation for Diversification 
6. Đặng Thị Thu Trang và Trương Thị Hiếu Hạnh - Ảnh hưởng của chất lượng tích hợp kênh lên 
sự gắn kết của người tiêu dùng trong bán lẻ đa kênh tại Việt Nam. Mã số: 143.2BMkt.21 
The Influence of Channel Integration Quality on Customer Engagement in Multi-channel 
Retail in Vietnam 
7. Lê Công Thuận và Bùi Thị Thanh - Phong cách lãnh đạo ủy quyền và sự tham gia vào quá trình 
sáng tạo của cấp dưới. Mã số: 143.2HRMg.21 
Empowering leadership and followers’ creative process engagement 
8. Nguyễn Chí Đức - Nghiên cứu hành vi tín nhiệm dựa trên lý thuyết trò chơi. Mã số: 143.2BAdm.21 
Game analysis of credit behavior 
9. Trịnh Thùy Anh, Lý Thanh Duy và Nguyễn Phạm Kiến Minh - Sự tác động của nhận dạng tổ 
chức, nhận dạng nhân viên - khách hàng và định hướng khách hàng đến sự gắn kết của nhân viên tại 
các công ty truyền thông trên địa bàn TP.HCM. Mã số: 143.2HRMg.21 
The Impact of Organization Identity, Staff-Customer Identity, and Customer Orientation on 
Staff Commitment at Communication Companies in Hochiminh City 
Ý KIẾN TRAO ĐỔI 
10. Phan Thị Thu Hiền, Phạm Thị Cẩm Anh và Trần Bích Ngọc - Những điểm mới của bộ quy tắc 
Incoterms 2020 và hàm ý áp dụng trong mua bán hàng hóa quốc tế. Mã số: 143.3IBMg.32 
New Points in Incoterms 2020 and Implications in International Goods Trading 
11. Nguyễn Ngọc Mai và Nguyễn Thị Minh Thảo - Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ứng 
dụng gọi xe: Trường hợp nghiên cứu tỉnh Bình Dương. Mã số: 143.3BMkt.31 
Factors Affecting the Intention to Use Vehicle Booking Apps: a Case Study in Bình Dương 
Province
 ISSN 1859-3666
1. Giới thiệu nghiên cứu 
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam 
là việc nhà đầu tư (cá nhân hoặc tổ chức) nước ngoài 
bỏ vốn đầu tư để kinh doanh dài hạn tại Việt Nam, 
với mục đích thu lợi nhuận lâu dài và trực tiếp nắm 
giữ quyền quản lý doanh nghiệp. Tại Việt Nam, 
nguồn vốn này đóng một vai trò quan trọng trong 
quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Theo “Hội 
nghị tổng kết 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài tại 
Việt Nam” năm 2018: FDI luôn đóng góp hơn 20% 
vốn đầu tư toàn xã hội trong vòng 10 năm trở lại 
đây. FDI cũng đem lại nguồn thu từ thuế vào ngân 
sách cho Nhà nước khi chiếm tới 72% giá trị kim 
ngạch xuất khẩu. Ngoài ra, nguồn vốn này còn góp 
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra khoảng 4 
triệu việc làm trực tiếp và 5 triệu lao động gián tiếp, 
nâng cao trình độ công nghệ, tăng chất lượng nguồn 
nhân lực. Vì vậy việc thu hút dòng vốn đầu tư trực 
tiếp nước ngoài FDI luôn là một trong những vấn đề 
quan trọng được Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan 
tâm. Trong giai đoạn tới, định hướng thu hút FDI 
vào Việt Nam sẽ tìm kiếm một số sự khác biệt nhất 
định như vừa thu hút được nguồn vốn nhiều hơn về 
lượng nhưng cũng tăng cường về chất lượng nguồn 
vốn để đảm bảo mục tiêu chuyển giao công nghệ 
hiện đại, giảm ô nhiễm môi trường, tránh cạn kiệt 
nguồn tài nguyên và hạn chế tối đa tác động tiêu cực 
đến sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, việc nghiên 
cứu định lượng nhằm xem xét các yếu tố tác động 
tới FDI tại Việt Nam trong 30 năm qua để từ đó đưa 
ra các khuyến nghị, định hướng nhằm thu hút nguồn 
vốn FDI là cần thiết trong giai đoạn hiện nay. 
Nghiên cứu các yếu tố tác động tới FDI (dòng 
vào và dòng ra) đã được thực hiện trên thế giới từ rất 
sớm, ở nhiều quốc gia với nhiều mô hình nghiên cứu 
khác nhau. Mugableh (2015) đã sử dụng mô hình 
ARDL (Autoregressive Distributed Lag- mô hình tự 
hồi quy phân phối trễ) nghiên cứu các nhân tố ảnh 
hưởng tới thu hút FDI của Malaysia trong ngắn hạn 
và dài hạn trong giai đoạn 1977 - 2012. Kết quả 
nghiên cứu cho thấy: Tỷ giá hối đoái (RM/USD), 
GDP, tiền mở rộng và độ mở nền kinh tế có tác động 
tích cực tới việc thu hút FDI. Trong khi đó, CPI có 
tác động tiêu cực. Dondashe và Phiri (2018) đã dùng 
11
?
Sè 143/2020
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
ỨNG DỤNG MÔ HÌNH ARDL NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG 
ĐẾN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 
Đỗ Thị Vân Trang 
Học viện Ngân hàng 
Email: trangdtv@hvnh.edu.vn 
Đinh Hồng Linh 
Trường ĐH KT&QTKD - Đại học Thái Nguyên 
Email: dhlinh23@gmail.com 
Lê Thùy Linh 
Học viện Ngân hàng 
Ngày nhận: 30/03/2020 Ngày nhận lại: 11/05/2020 Ngày duyệt đăng: 17/06/2020 
Đ ầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng một vai trò không nhỏ trong phát triển kinh tế Việt Nam. Với mục đích nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố tác động tới thu hút FDI vào Việt Nam kể từ 
khi mở cửa nền kinh tế cho đến nay, nghiên cứu sử dụng mô hình ARDL để xem xét mối quan hệ giữa các 
yếu tố này trong cả ngắn hạn và dài hạn. Kết quả ước lượng cho thấy trong dài hạn, GDP, độ mở thương 
mại của nền kinh tế, lãi suất và tỷ lệ thất nghiệp có tác động tích cực tới nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước 
ngoài. Trong ngắn hạn, nguồn vốn này chịu tác động tích cực của chính nó ngay thời kỳ trước. Lãi suất và 
tỷ lệ thất nghiệp là những yếu tố có tác động tiêu cực, trong khi GDP và độ mở thương mại của nền kinh tế 
không có ảnh hưởng đến đến thu hút FDI. Kết quả thực nghiệm này có thể gợi ý một số khuyến nghị đối với 
các cơ quan quản lý trong việc điều hành chính sách vĩ mô nhằm thu hút thêm vốn FDI trong thời gian tới. 
Từ khóa: FDI, Việt Nam, mô hình ARDL. 
?mô hình ARDL trong nghiên cứu dòng chảy của FDI 
vào Nam Phi trong giai đoạn 1994- 2016. Các tác giả 
đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng và đưa ra 
khuyến nghị trong dài hạn, theo đó: GDP đầu người, 
quy mô của Chính phủ, lãi suất thực tế và độ mở của 
nền kinh tế đều có mối quan hệ cùng chiều với FDI. 
Hasli và cộng sự (2015) nghiên cứu các yếu tố ảnh 
hưởng đến thu hút FDI vào Châu Á những năm từ 
1993- 2013 bằng mô hình FEM và REM. Kết quả 
nghiên cứu cho thấy lãi suất cho vay, độ mở của nền 
kinh tế và cung tiền đều có tác động cùng chiều tới 
dòng FDI vào Châu Á. Mặt khác, tỷ lệ thất nghiệp và 
ô nhiễm môi trường lại là những yếu tố có tác động 
ngược chiều đến thu hút FDI. Cũng bằng mô hình 
ARDL, Khan và Zahra (2016) đã nghiên cứu ảnh 
hưởng của các yếu tố tác động tới FDI tại Pakistan 
trong giai đoạn 1972- 2013. Nghiên cứu này chỉ ra 
trong dài hạn, các yếu tố tác động tích cực tới thu hút 
FDI bao gồm lãi suất, GDP đầu người và tỷ lệ thất 
nghiệp. Trong khi đó, xuất khẩu lại có tác động tiêu 
cực đến thu hút FDI. Trong ngắn hạn, xuất khẩu và 
tăng trưởng GDP đầu người có tác động cùng chiều 
tới FDI dòng vào của Pakistan. Khamphengvong và 
cộng sự (2018) sử dụng mô hình GMM nghiên cứu 
tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến FDI tại Lào 
từ năm 1995 đến năm 2015. Kết quả cho thấy FDI 
chịu ảnh hưởng của chính nó trong năm trước đó, 
GDP, độ mở của nền kinh tế, chi phí nhân công, tỷ 
giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát. Ngoài ra, kết quả ước 
lượng cũng cho thấy khoảng cách từ nước chủ nhà 
đến nước nhận đầu tư, sự chia sẻ biên giới chung 
không ảnh hưởng đến dòng vốn FDI. 
Ở Việt Nam cũng đã có một số nghiên cứu định 
lượng đề cập đến các yếu tố ảnh hưởng đến FDI. 
Nghiên cứu của Hoàng Thị Thu (2007) áp dụng mô 
hình OLS trên cơ sở dữ liệu giai đoạn 1998- 2005. 
Tác giả này chỉ ra GDP, tăng trưởng GDP, mật độ 
điện thoại bình quân trên 100 dân và độ mở thương 
mại có tác động tích cực tới FDI. Mặt khác, chất 
lượng lao động và thời điểm gia nhập ASEAN 
không có tác động đến việc thu hút FDI, trong khi 
cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1998 lại là nhân tố có 
tác động tích cực. Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc 
Anh và Nguyễn Thắng (2007) đánh giá tác động của 
các yếu tố tác động tới FDI tại từng tỉnh ở Việt Nam 
từ năm 1988 đến năm 2006 bằng mô hình nhị thức 
âm và mô hình OLS. Kết quả cho thấy dòng vào FDI 
phụ thuộc vào triển vọng thị trường, nhân tố lao 
động và cơ sở hạ tầng; trong khi chỉ số năng lực 
cạnh tranh PCI cấp tỉnh không có tác động đến thu 
hút FDI. Trịnh Hoài Nam và Nguyễn Mai Quỳnh 
Anh (2015) cũng sử dụng mô hình OLS nghiên cứu 
các yếu tố tác động tới thu hút FDI và đi tới kết luận: 
tăng trưởng GDP, độ mở của nền kinh tế, tỷ giá hối 
đoái và giáo dục trung học có tác động dương trong 
khi tỷ lệ lạm phát, mật độ điện thoại bình quân trên 
100 dân, chi tiêu chính phủ có tác động âm tới thu 
hút FDI. Gần đây nhất, nghiên cứu của Nguyễn Thị 
Hồng Nhung (2016) có ứng dụng mô hình ARDL 
nghiên cứu các yếu tố: độ mở thương mại, chỉ số can 
thiệp, tỷ giá thực, quy mô thị trường và việc gia 
nhập WTO là các biến độc lập trong mô hình. Trong 
đó, yếu tố chỉ số can thiệp đề cập đến việc điều hành 
chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý và giữ độc lập 
tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước hiện nay có ảnh 
hưởng đến quy mô dòng vốn FDI. Kết quả nghiên 
cứu thực nghiệm cho thấy các biến số có tác động 
tích cực tới FDI từ năm 2000 - 2015 là độ mở của 
nền kinh tế, GDP và gia nhập WTO; trong khi đó chỉ 
số can thiệp và tỷ giá hối đoái thực có tác động 
ngược chiều. Đây là nghiên cứu duy nhất tác giả tìm 
thấy có sử dụng mô hình ARDL để đánh giá ảnh 
hưởng của các yếu tố tác động tới FDI ở Việt Nam. 
Nghiên cứu này được thực hiện trên cơ sở dữ liệu 
giai đoạn 2000-2015 (15 năm). Tuy nhiên, những 
đánh giá và kết luận về các yếu tố ảnh hưởng đến 
thu hút FDI vẫn còn hạn chế, chưa phát huy được 
thế mạnh của mô hình do chưa bao quát hết các yếu 
tố ảnh hưởng. 
Như vậy, có thể thấy những nghiên cứu về các 
nhân tố ảnh hưởng đến FDI ở Việt Nam hiện nay 
chủ yếu sử dụng mô hình OLS. Tuy nhiên, sử dụng 
mô hình OLS có một số hạn chế là mô hình đòi hỏi 
số lượng quan sát đủ lớn, mô hình bỏ qua các biến 
trễ nên sẽ gây ra hiện tượng hồi quy giả mạo, dẫn tới 
kết quả của mô hình không chính xác. Mặt khác, với 
dữ liệu dạng chuỗi thời gian, hiện tượng tự tương 
quan khi sử dụng OLS xảy ra rất phổ biến, dẫn đến 
kết quả ước lượng bằng mô hình OLS không còn 
hiệu quả nữa, do đó tính thực tiễn của mô hình 
không cao. Trên thế giới, mô hình ARDL được sử 
dụng khá phổ biến trong việc xác định các yếu tố tác 
động tới hoạt động FDI bởi những ưu điểm của nó 
so với các mô hình khác trong việc phân tích chuỗi 
thời gian. Mô hình ARDL được chứng minh là một 
công cụ hữu hiệu trong việc khắc phục hiện tượng 
hồi quy giả mạo, giảm khả năng xảy ra hiện tượng 
này từ 100% xuống còn 5% (Ghouse và cộng sự, 
2018). Chính vì vậy, nghiên cứu này sử dụng mô 
hình ARDL và tận dụng những lợi thế của nó để xem 
Sè 143/202012
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
xét tác động của các yếu tố đến FDI vào Việt Nam, 
kể từ khi kinh tế Việt Nam chuyển sang nền kinh tế 
thị trường. 
ARDL là mô hình tự hồi quy phân phối trễ đã 
xuất hiện từ nhiều thập kỷ trước. Sau khi Pesaran và 
Shin (1998) chỉ ra tính ứng dụng của mô hình trong 
việc phân tích mối quan hệ dài hạn giữa các biến số, 
mô hình này mới nhận được sự chú ý và trở nên phổ 
biến hơn. ARDL có tính đến tác động trễ của bản 
thân biến phụ thuộc và biến giải thích, có thể dùng 
để ước lượng các tham số trong cả ngắn hạn và dài 
hạn. Ngoài ra, mô hình không yêu cầu các biến phải 
có cùng bậc tích hợp, dữ liệu có thể bao gồm các 
chuỗi thời gian tích hợp bậc 0 và bậc 1 (Ghouse và 
cộng sự, 2018). Vì vậy, ARDL cho kết quả chính xác 
ngay cả trong trường hợp số lượng quan sát ít, cho 
phép độ trễ của các biến trong mô hình không bị cố 
định mà linh hoạt phụ thuộc vào thời gian tác động 
tới biến phụ thuộc. Xuất phát từ ưu điểm vượt trội 
đó, nghiên cứu này sử dụng mô hình ARDL để 
nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn vốn 
FDI trong cả ngắn hạn và dài hạn. 
2. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu 
Để nghiên cứu tác động của các yếu tố ảnh 
hưởng đến FDI dòng vào tại Việt Nam, nghiên cứu 
sử dụng biến phụ thuộc là vốn FDI giải ngân thực tế, 
các biến độc lập được đưa vào mô hình nghiên cứu 
gồm có: Quy mô thị trường, độ mở thương mại của 
nền kinh tế, sự ổn định của nền kinh tế và mức độ 
sẵn có của lao động. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu 
dạng chuỗi thời gian trong giai đoạn từ năm 1996 
đến năm 2017, với 22 quan sát. Trong đó FDI và 
GDP được lấy từ Tổng cục Thống kê, các chỉ tiêu 
còn lại được thu thập từ cơ sở dữ liệu của Ngân hàng 
Thế giới (World Bank-WB). 
Thước đo để đánh giá về quy mô thị trường được 
thể hiện qua Tổng thu nhập quốc gia - GDP - một chỉ 
tiêu được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu 
trước đây. GDP đại diện cho quy mô kinh tế, sự tăng 
trưởng kinh tế chính là sự gia tăng của GDP. Hầu hết 
tất cả các nghiên cứu liên quan đều chỉ ra mối quan 
hệ tích cực giữa GDP và FDI. Các nhà đầu tư nước 
ngoài thường có tâm lý cho rằng một đất nước có 
quy mô kinh tế lớn là nơi lý tưởng để có được khoản 
lợi nhuận lớn. Do đó, GDP được kỳ vọng sẽ kéo 
theo sự gia tăng của FDI. Mối tác động cùng chiều 
của GDP tới FDI được tìm thấy trong nghiên cứu 
của Mugableh (2015), Khamphengvong và cộng sự 
(2018), Nguyễn Thị Hồng Nhung (2016). 
Vậy giả thuyết H1: Tăng trưởng GDP (GDP) có 
quan hệ cùng chiều với dòng vốn đầu tư trực tiếp 
nước ngoài vào Việt Nam. 
Độ mở thương mại của nền kinh tế được tính 
bằng cách lấy tổng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu 
chia cho GDP của từng năm, được viết tắt là OPEN. 
Cũng giống như GDP, độ mở thương mại cũng luôn 
được các nhà nghiên cứu chỉ ra tác động tích cực tới 
FDI. Một đất nước có nhiều hoạt động kinh doanh 
thương mại quốc tế sẽ mang lại nhiều cơ hội đầu tư 
hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, độ mở 
thương mại của nền kinh tế được kỳ vọng sẽ tác 
động cùng chiều tới FDI. Các nghiên cứu chỉ ra tác 
động cùng chiều này bao gồm: Nguyễn Văn Bổn và 
Nguyễn Minh Tiến (2014), Mugableh (2015), Hasli 
và cộng sự (2015), Dondashe và cộng sự (2018), 
Khamphengvong và cộng sự (2018). 
Vậy giả thuyết H2: Độ mở thương mại của của 
nền kinh tế (OPEN) có quan hệ cùng chiều dòng vốn 
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. 
Nghiên cứu sử dụng lãi suất để đo lường cho sự 
ổn định của nền kinh tế bởi “việc giữ các mức lãi 
suất thấp cho thấy nền kinh tế đang ổn định và có thể 
vẫn tiếp tục ổn định như vậy” (Ngân hàng Nhà nước 
Việt Nam, 2011). Lãi suất trong nghiên cứu sử dụng 
là lãi suất cho vay, được viết tắt là INR. Lãi suất cho 
vay càng thấp sẽ tiết kiệm được chi phí đầu vào cho 
các nhà đầu tư nước ngoài, giúp họ có được khoản 
lợi nhuận cao hơn từ các khoản đầu tư. Tuy nhiên, 
theo Lý thuyết về lợi nhuận cận biên của Mac 
Dougall, vốn đầu tư sẽ dịch chuyển từ nước có lãi 
suất thấp sang nước có lãi suất cao, và vì thế đất 
nước có lãi suất cao sẽ thu hút các nhà đầu tư nước 
ngoài hơn, bởi họ kì vọng nền kinh tế có lãi suất cao 
sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn cho các khoản đầu tư. 
Các nghiên cứu trước đây cũng không thống nhất về 
hướng tác động của lãi suất với FDI. Các nghiên cứu 
cho thấy tác động cùng chiều: Khan và Zahra 
(2016), Salamatu Fornah, Zuo Yuehua (2017), 
Nandipha Dondashe và Andrew Phiri (2018), các 
nghiên cứu cho thấy tác động ngược chiều: Angelo 
và cộng sự (2010), Siddiqui và cộng sự (2014). Như 
vậy, lãi suất có thể tác động cùng chiều hoặc tác 
động ngược chiều tới FDI. 
Vậy giả thuyết H3: Sự biến động về lãi suất 
(INR) có ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu tư trực tiếp 
nước ngoài vào Việt Nam. 
Sự sẵn có của lực lượng lao động được thể hiện 
gián tiếp qua tỷ lệ thất nghiệp, được thể hiện qua 
biến UNE. Hướng tác động của tỷ lệ thất nghiệp tới 
13
?
Sè 143/2020
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
?FDI không nhất quán trong các nghiên cứu trước 
đây, có thể tác động cùng hoặc ngược chiều. Tuy 
nhiên, đứng dưới góc độ từ các nhà đầu tư nước 
ngoài, tỷ lệ thất nghiệp của nước nhận đầu tư tăng, 
nghĩa là đất nước có nguồn lao động dồi dào, các 
nhà đầu tư có nhiều lựa chọn về mặt nhân sự hơn. 
Do đó tỷ lệ thất nghiệp được kỳ vọng sẽ tác động 
cùng chiều với FDI. Các 
nghiên cứu cho thấy quan 
hệ này: Billington (1999), 
Agnieszka Chidlow và 
Stephen Young (2008), 
Khan và Zahra (2016). 
Vậy giả thuyết H4: Tỷ lệ 
thất nghiệp (UNE) ở nước 
sở tại càng cao thì càng thu hút được dòng vốn FDI 
càng lớn. 
Để số liệu giảm bớt sự phân tán của dữ liệu, 
nghiên cứu sử dụng dữ liệu dạng logarit để xây dựng 
mô hình. Sau khi lấy logarit, các biến độc lập lần 
lượt viết tắt là LnFDI, LnGDP, LnOPEN, LnINR, 
LnUNE. Việc lấy logarit này được xem là không ảnh 
hưởng tới đặc tính của dữ liệu mà chỉ làm cho dữ 
liệu thêm ổn định, đặc biệt là với dữ liệu dạng thời 
gian, nhằm thuận tiện cho việc xây dựng mô hình 
(Hamuda và cộng sự, 2013). Sau khi lấy logarit, dựa 
theo tiêu chuẩn Jarque-Bera, các biến đều có phân 
phối chuẩn (do có p-value> α), thỏa mãn giả định về 
tính phân phối chuẩn của dữ liệu. 
Mô hình có dạng tổng quát như sau: 
Trong đó, FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài 
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội 
OPEN: Độ mở thương mại của nền kinh tế 
INR: Lãi suất thực 
UNE: Tỷ lệ thất nghiệp 
p, q là độ trễ, Δ là sai 
phân, εt là nhiễu trắng. 
3. Kết quả phân tích 
Cũng giống như các mô 
hình phân tích dữ liệu dạng 
chuỗi thời gian khác, trước 
khi xây dựng mô hình 
ARDL, cần đảm bảo các 
biến số đều có tính dừng. Nghiên cứu sử dụng kiểm 
định nghiệm đơn vị (Unit Root Test) với phương 
pháp ADF và kết quả cho thấy, chỉ có LnUNE là 
chuỗi dừng. Sau khi khắc phục hiện tượng chuỗi 
không dừng bằng cách lấy sai phân, LnFDI, LnGDP, 
LnOPEN, LnINR đều dừng tại bậc 1. Điều này thỏa 
mãn giả định của mô hình: Các chuỗi thời gian phải 
có tính dừng hoặc dừng ở sai phân bậc 1, không có 
biến nào dừng ở sai phân bậc 2. 
Việc tìm ra độ trễ tối ưu cho các chuỗi thời gian 
ở mô hình ARDL rất quan trọng để có phần nhiễu 
(error terms) có phân phối chuẩn, không bị tự tương 
quan và không có hiện tượng phương sai sai số thay 
đổi. Dựa vào các tiêu chuẩn FPE, AIC, SC, HQ, mô 
hình có độ trễ tối ưu là 2. 
Khi lựa chọn mô hình, hai tiêu chuẩn hiệu quả 
nhất thường được dùng là AIC và SIC. Theo 
Perasan và Shin (1997), hai tiêu chuẩn này có kết 
quả khá tương đồng nhau, tuy nhiên với mô hình có 
số mẫu nhỏ thì tiêu chuẩn SIC có kết quả tốt hơn và 
ổn định hơn. Mặt khác, theo Liew và cộng sự 
(2008), với mẫu khoảng 25 quan sát, SIC cho kết 
quả tốt nhất. Do đó, nghiên cứu sử dụng mô hình 
SIC để áp dụng trong mô hình nghiên cứu. Mô hình 
sẽ hiệu quả nhất khi độ trễ của các 
biến LnFDI, LnGDP, LnOPEN, 
LnINR, LnUNE lần lượt là 
2,0,0,2,2. Độ trễ này là phù hợp 
nhất, thỏa mãn giả định về độ trễ 
tối ưu của mô hình ARDL. 
Với số quan sát ít, bài nghiên cứu sử dụng kiểm 
định đường bao (Bound Test) và giá trị tới hạn của 
Narayan để kiểm tra sự tồn tại của mối quan hệ dài 
hạn (đồng liên kết) giữa các biến số (Bảng 2). 
Giá trị tới hạn F-statistic lớn hơn đường bao trên 
ở tất cả các mức ý nghĩa. Điều này khẳng định mô 
Sè 143/202014
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
   
  /ǻ
4Ln
+LnFDIt Į
+ 
+ 3 1,Q4 /ǻ- + j1t(32Q
+i-t5 ENLnU+ i-t
+ i I -tDLnF1
INR
- j(t18Q5 /ǻ- + jt5
- + j ,t')Q/ǻ
LnOP+ i -t2 PLnGD 3
 1
tİ
-jt3'*Q2 /ǻ
iEN -t
Bảng 1: Kết quả thực nghiệm lựa chọn độ trễ tối ưu cho mô hình 
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp 
Lag LogL LR FPE AIC SC HQ 
0 35.56269 NA 3.24e-08 -3.056269 -2.807336 -3.007675 
1 154.8140 166.9518* 2.87e-12 -12.48140 -10.98780 -12.18984 
2 195.4673 36.58795 1.08e-12* -14.04673* -11.30846* -13.51219* 
Bảng 2: Kết quả thực nghiệm kiểm định đường bao 
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp 
Sӕ 
biӃn 
k 
Giá trӏ 
thӕng kê 
F-statistic 
Giá trӏ tӟi hҥn cӫDFiFÿѭӡng bao (Narayan) 
1% 5% 10% 
Ĉѭӡng 
EDRGѭӟi 
Ĉѭӡng 
bao trên 
Ĉѭӡng 
EDRGѭӟi 
Ĉѭӡng bao 
trên 
Ĉѭӡng 
EDRGѭӟi 
Ĉѭӡng 
bao trên 
4 20.53033 4.768 6.67 3.354 4.4774 2.752 3.994 
hình tồn tại đồng liên kết, hay giữa các biến có mối 
quan hệ dài hạn. Kết quả hồi quy mô hình trong dài 
hạn thể hiện ở Bảng 3. 
Với mức ý nghĩa 10%, tất cả các yếu tố đều tác 
động tới FDI trong dài hạn. Trong đó, độ mở thương 
mại của nền kinh tế tác động mạnh nhất, sau đó là tỷ 
lệ thất nghiệp, GDP và cuối cùng là lãi suất cho vay. 
Ở mức ý nghĩa 1% và 5%, lãi suất cho vay không có 
tác động đến FDI. 
Hệ số co giãn của LnOPEN là 2.50, hàm ý rằng, 
khi độ mở thương mại tăng 1% sẽ thúc đẩy FDI tăng 
2.50%. Các nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng 
chọn đất nước có chi phí rẻ hơn để sản xuất rồi xuất 
khẩu (Vernon, 1966 - Thuyết vòng đời sản phẩm), 
khiến độ mở thương mại của nước nhận đầu tư trở 
nên rất quan trọng. Độ mở thương mại của nền kinh 
tế của Việt Nam năm 2017 đã lên tới 200%, là thành 
quả của việc gia nhập nhiều tổ chức kinh tế quốc tế, 
đồng nghĩa với việc Việt Nam ngày càng nhận được 
nhiều ưu đãi hơn về xuất, nhập khẩu. Như vậy, khi 
đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài có 
thể tiết kiệm được nhiều chi phí hơn. Đó là lý do 
khiến độ mở thương mại của nền kinh tế trở thành 
yếu tố tác động mạnh mẽ nhất thúc đẩy sự gia tăng 
của FDI. Kết quả này trùng với nghiên cứu của 
Mugableh (2015), Hasli và cộng sự (2015), 
Dondashe và cộng sự (2018), Khamphengvong và 
cộng sự (2018). 
Tỷ lệ thất nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng 
khi có mức tác động 
mạnh mẽ chỉ đứng sau độ 
mở của nền kinh tế. Khi 
tỷ lệ thất nghiệp tăng 1%, 
FDI cũng tăng 2.37%. 
Kết quả này giống với 
nghiên cứu của Billington 
(1999), Agnieszka 
Chidlow and Stephen 
Young (2008). Theo góc 
độ của nhà đầu tư nước 
ngoài, tỷ lệ thất nghiệp 
tăng đồng nghĩa với việc đất nước đó có nhiều người 
chưa có công ăn việc làm. Để có được việc làm, họ 
sẵn sàng đi làm với mức lương thấp hơn mức họ 
đáng lẽ được nhận. Hạ 
thấp chi phí nhân công là 
một cơ sở để các doanh 
nghiệp đầu tư nước ngoài 
gia tăng lợi nhuận. Do đó, 
tỷ lệ thất nghiệp không tác 
động ngược chiều tới FDI. 
GDP tăng 1% sẽ làm 
FDI tăng 0,75%. Với các 
nhà đầu tư, nền kinh tế với sự tăng trưởng của GDP 
cao luôn tạo được sự hấp dẫn. Sự gia tăng của GDP 
đồng nghĩa với việc thị trường đó có nhiều cơ hội để 
thực hiện mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận hơn. Do đó 
khi GDP tăng kéo theo sự gia tăng của FDI. Kết quả 
này trùng với lợi thế địa điểm trong Thuyết Chiết 
trung của Dunning (1977) nghiên cứu của Mohamed 
Ibrahim Mugableh (2014), Hoàng Thị Thu (2007), 
Lê Văn Thắng & Nguyễn Lưu Bảo Đoan (2017). 
Trong dài hạn, lãi suất cho vay có tác động cùng 
chiều với FDI. Khi lãi suất cho vay tăng 1% sẽ làm 
FDI tăng nhẹ ở mức 0.32%. Kết quả này trùng với 
Lý thuyết lợi nhuận cận biên của Mac Dougall 
(1960), nghiên cứu của Hira Aijaz Ahmed Siddiqui, 
Vesarach Aumeboonsuke (2014) và Salamatu 
Fornah, Zuo Yuehua (2017), Nandipha Dondashe 
and Andrew Phiri (2018). Đối với các nhà đầu tư, có 
thể chi phí vốn cao không phải là một nhân tố cản 
trở tới quyết định đầu tư vào một nước đang phát 
triển nhiều tiềm năng như Việt Nam. Mặt khác, các 
nhà đầu tư có thể trực tiếp sử dụng vốn vay từ nước 
của họ với lãi suất thấp và đầu tư tại Việt Nam với 
mức lợi nhuận lớn hơn lãi suất ban đầu. 
Trong ngắn hạn, mô hình giải thích được 92,18% 
sự biến động của các nhân tố tác động đến FDI. 
15
?
Sè 143/2020
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
Bảng 3: Kết quả hồi quy mô hình ARDL trong dài hạn 
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp 
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. 
LNGDP 0.748186 0.194303 3.850614 0.0039 
LNOPEN 2.501716 1.012633 2.470506 0.0355 
LNINR 0.323623 0.158243 2.045107 0.0712 
LNUNE 2.375046 0.342913 6.926090 0.0001 
Bảng 4: Kết quả hồi quy mô hình ARDL trong ngắn hạn (mô hình ECM) 
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp 
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. 
C -11.56242 0.961957 -12.01968 0.0000 
D(LNFDI(-1)) 0.417331 0.085932 4.856507 0.0009 
D(LNINR) -0.370248 0.093445 -3.962212 0.0033 
D(LNINR(-1)) -0.494270 0.097419 -5.073676 0.0007 
D(LNUNE) 0.471788 0.122046 3.865650 0.0038 
D(LNUNE(-1)) -0.631423 0.138077 -4.572968 0.0013 
CointEq(-1)* -0.811708 0.066660 -12.17680 0.0000 
?Trong ngắn hạn, FDI chịu tác động của giá trị 
khoản FDI của năm trước. FDI năm trước tăng 1% 
sẽ dẫn đến FDI tăng 0,41% và ngược lại. Trong ngắn 
hạn, FDI chịu ảnh hưởng của lãi suất, tỷ lệ thất 
nghiệp hiện tại và năm trước đó. Cụ thể, nếu lãi suất 
hiện tại tăng 1% làm FDI ngắn hạn giảm 0,37%, 
trong khi đó lãi suất năm trước tăng 1% sẽ làm FDI 
hiện tại giảm 0,49% và ngược lại. Tương tự với tỷ lệ 
thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp hiện tại tăng 1% sẽ làm 
FDI tăng 0,47%, tỷ lệ thất nghiệp năm trước tăng 
1% làm FDI giảm 0,63%. Để xác định tác động của 
tỷ lệ thất nghiệp và lãi suất, cần cộng tổng tác động 
của hiện tại và năm trước đó. Kết quả này cũng cho 
thấy, độ mở thương mại của nền kinh tế và GDP 
không có tác động đến FDI trong ngắn hạn. 
Có thể thấy trong ngắn hạn và dài hạn, tỷ lệ thất 
nghiệp và lãi suất có tác động trái chiều nhau đến 
FDI. Điều này được lý giải bởi, trạng thái của FDI 
trong dài hạn là trạng thái không chịu bất cứ cú sốc 
nào của các biến độc lập. Tuy nhiên, khi các yếu tố 
thay đổi trong ngắn hạn, làm lệch giá trị FDI khỏi 
đường cân bằng trong dài hạn thì ở kỳ tiếp theo 
(năm sau đó), giá trị của các nhân tố này có xu 
hướng quay lại vị trí cân bằng với mức độ điều 
chỉnh là 81,17%, hệ số CointEq (-1). Với tốc độ này, 
sự mất cân bằng trong ngắn hạn sẽ được đưa lại 
trạng thái cân bằng trong dài hạn sau khoảng 1 năm 
3 tháng. 
Sau khi xem xét các tác 
động của các biến nghiên cứu 
trong ngắn hạn và dài hạn, để 
kiểm tra tính chính xác của mô 
hình, các kiểm định Ramsey, 
Breusch-Godfrey Serial 
Correlation LM, White được 
thực hiện, với kết quả như 
(bảng 5): 
Các kiểm định này đều 
cho kết quả tốt, cho thấy kết 
quả của mô hình không có 
sai sót. Sự ổn định của mô 
hình được kiểm tra thông 
qua kiểm định tổng tích lũy 
phần dư (CUSUM Test) và 
tổng tích lũy hiệu chỉnh của 
phần dư (CUSUMSQ Test). 
Cả 2 đường tổng tích lũy phần dư và tổng tích lũy 
hiệu chỉnh phần dư đều nằm trong mức ý nghĩa 5%, 
do đó có thể kết luận mô hình hoạt động ổn định. 
4. Các hàm ý chính sách 
Nghiên cứu đã vận dụng mô hình ARDL để 
nghiên cứu các yếu tố tác động tới FDI vào Việt 
Nam giai đoạn từ khi mở cửa kinh tế đến nay. Xét 
về tác động của các nhân tố trong dài hạn thì mức độ 
tăng trưởng GDP, độ mở thương mại của nền kinh 
tế, lãi suất thực và tỷ lệ thất nghiệp đều có tác động 
cùng chiều tới FDI. Trong ngắn hạn, tăng trưởng 
GDP và độ mở thương mại của nền kinh tế đều 
không có tác động, trong khi FDI của giai đoạn 
trước có tác động tích cực đến FDI. Cũng trong ngắn 
hạn, lãi suất cho vay, tỷ lệ thất nghiệp có tác động 
ngược chiều đến dòng vốn này vào Việt Nam. Tuy 
nhiên, sự chênh lệch này sẽ dần tự điều chỉnh với tốc 
độ 81,17% hàng năm để trở lại trạng thái cân bằng 
trong dài hạn. Nghiên cứu đồng thời cũng sử dụng 
các kiểm định để kiểm tra và nhận thấy mô hình 
được chỉ định đúng, hoạt động ổn định và không có 
các hiện tượng tự tương quan, phương sai sai số thay 
đổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy mô hình đang 
được sử dụng là đáng tin cậy và có thể áp dụng trong 
thực tiễn. 
Trong thời điểm hiện nay khi mối quan hệ kinh 
tế giữa Mỹ và Trung Quốc có những bất ổn, dự báo 
Sè 143/202016
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
Bảng 5: Tổng hợp các kiểm định của mô hình 
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp 
Loҥi kiӇPÿӏnh KӃt quҧ p-value KӃt luұn 
KiӇPÿӏnh Ramsey 0,7549 0{KuQKÿѭӧc chӍ ÿӏQKÿ~QJ 
KiӇPÿӏnh Serial 
Correlation LM 0,5547 Mô hình không gһp phҧi hiӋQWѭӧng tӵ WѭѫQJTXDQ 
KiӇPÿӏnh White 0,1538 0{KuQKNK{QJFySKѭѫQJVDLVDLVӕ WKD\ÿәi 
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ phần mềm Eview 10.0. 
Hình 1 và 2: Kết quả kiểm định CUSUM & CUSUMSQ 
-10.0
-7.5
-5.0
-2.5
0.0
2.5
5.0
7.5
10.0
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
CUSUM 5% Significance 
-0.4
0.0
0.4
0.8
1.2
1.6
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
CUSUM of Squares 5% Significance 
dòng vốn FDI từ Mỹ vào Trung Quốc đang có xu 
hướng dịch chuyển sang nước thứ ba. Việt Nam cần 
có những chính sách kinh tế phù hợp để tận dụng cơ 
hội này, từ đó thu hút dòng vốn FDI lớn hơn cũng 
như việc chuyển dịch dần dòng vốn FDI từ lượng 
sang chất như theo định hướng của Nhà nước. Trước 
bối cảnh đó, việc đánh giá lại các nhân tố tác động 
đến FDI là cần thiết và cần dựa vào việc thay đổi các 
nhân tố này để đề xuất các khuyến nghị về chính 
sách cho phù hợp khi mà nhà đầu tư nước ngoài 
đang quan tâm đến thị trường Việt Nam. Đồng thời, 
đánh giá lại tác động của những nhân tố này để có 
những điều chỉnh nhất định cho phù hợp với điều 
kiện kinh tế thế giới cũng như tăng cường, thu hút 
thêm vốn FDI mà vẫn đảm bảo được chất lượng của 
dòng vốn. 
Khẳng định chính sách phát triển kinh tế xã hội 
hiện nay ở Việt Nam đang phù hợp và phát triển 
đúng hướng nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, 
gia tăng quy mô thị trường. Đây là yếu tố quan trọng 
mà các nhà đầu tư nước ngoài cân nhắc đầu tiên khi 
xem xét đưa ra quyết định. Bởi sự tăng trưởng ổn 
định về kinh tế, sự gia tăng quy mô thị trường sẽ tạo 
điều kiện thuận lợi để Việt Nam chuẩn bị tốt các 
điều kiện về quy hoạch xây dựng, gắn với quy hoạch 
khu công nghiệp, quy hoạch phát triển đô thị, nhà ở 
và dịch vụ. Từ đó tạo điều kiện tập trung đầu tư hạ 
tầng, kết nối địa phương với vùng, với quốc gia; ưu 
tiên đầu tư phát triển hạ tầng bên trong các khu công 
nghiệp. Mặt khác, cần tăng cường nội lực, tạo điều 
kiện xây dựng môi trường cạnh tranh công bằng 
giữa các doanh nghiệp ngoại và nội địa. Ngoài ra, 
trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến 
động, Nhà nước cần bám sát sự thay đổi của nền 
kinh tế thế giới nhằm điều hành chính sách giá cả, 
lãi suất, tỷ giá một cách linh hoạt, chủ động, góp 
phần ổn định nền kinh tế vĩ mô. 
Độ mở thương mại của nền kinh tế lớn như hiện 
nay chính là thành quả của việc tham gia nhiều hiệp 
định thương mại, nhiều tổ chức quốc tế. Trong thời 
gian tới cần tận dụng tốt hơn các cơ hội đến từ các 
tổ chức, hội nghị này bằng cách gia tăng chất lượng 
hàng hóa, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng quốc 
tế. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần có những 
chính sách truyền thông tích cực đưa hình ảnh của 
Việt Nam ra thế giới để các đối tác có những đánh 
giá đúng về thực trạng kinh tế xã hội của Việt Nam. 
Từ đó đẩy mạnh giao thương xuất nhập khẩu, gia 
tăng độ mở thương mại của nền kinh tế, thu hút 
thêm các nhà đầu tư đến từ nước ngoài. 
Lợi thế về lượng nhân công trẻ, dồi dào, sẵn có 
với chi phí tiền lương thấp hơn các nước trong khu 
vực cũng là một trong những điểm quan tâm thu hút 
các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, so với các 
nước trong khu vực thì chất lượng lao động ở Việt 
Nam không cao, nhất là lao động đòi hỏi có trình độ, 
có tay nghề cao. Chính điều này cũng đã hạn chế 
việc thu hút các dự án đầu tư có chất lượng vào Việt 
Nam trong thời gian qua. Vì vậy, trong thời gian tới, 
Chính phủ cần tăng cường đầu tư cho giáo dục đào 
tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo 
số lượng đi kèm chất lượng. Ngoài ra, cần gia tăng 
sự hiểu biết về công nghệ của người lao động, giúp 
họ sẵn sàng tiếp nhận công nghệ, khoa học từ nước 
chủ đầu tư, góp phần thúc đẩy chuyển giao công 
nghệ; khuyến khích sự hợp tác giữa doanh nghiệp 
FDI và cơ sở giáo dục nhằm đáp ứng ngày càng tốt 
hơn nhu cầu lao động của các nhà đầu tư và giải 
quyết vấn đề thừa nhân lực trong nước. Đặc biệt, 
trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều bất ổn 
như hiện nay, dòng vốn FDI đang ngày càng bị thu 
hẹp dần, các quốc gia trên thế giới lại ra sức nâng 
cao năng lực cạnh tranh nhằm thu hút dòng vốn này. 
Vì thế, nếu Việt Nam không có những cải thiện về 
chất lượng lao động thì sẽ rất khó có thể thu hút 
được dòng vốn FDI. Như vậy, đã đến lúc Việt Nam 
phải nâng cao chất lượng lao động để từ đó tạo điều 
kiện nâng cao chất lượng và số lượng dòng vốn đầu 
tư trực tiếp nước ngoài.u 
Tài liệu tham khảo: 
1. Cơ sở dữ liệu của Tổng cục Thống kê: 
https://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=706&It
emID=13412. 
2. Cơ sở dữ liệu của World Bank: https://data-
bank.worldbank.org/id/19b79d1f?Report_Name=G
DP-and-GDP-Growth. 
3. Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu 
tư Việt Nam (2018), Hội nghị tổng kết 30 năm thu 
hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 
17
?
Sè 143/2020
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
4. Dondashe, N., & Phiri, A. (2018), 
Determinants of FDI in South Africa: Do macroeco-
nomic variables matter? 
5. Dunning, J.H. (1977), Trade, Location of 
Economic Activity and the MNE: A Search for an 
Eclectic Approach, The International Allocation of 
Economic Activity, MacMillan, London, 395-419. 
6. Ghouse, G., Khan, S. A., & Rehman, A. U. 
(2018), ARDL model as a remedy for spurious 
regression: problems, performance and prospectus. 
7. Hamuda, A. M., Šuliková, V., Gazda, V., & 
Horváth, D. (2013), ARDL investment model of 
Tunisia, Theoretical & Applied Economics, 20(2). 
8. Hasli, A., Ho, C.S. and Ibrahim, N.A., 2015, 
Determinants of FDI inflow in Asia, Journal of 
Emerging Economies and Islamic Research, 3(3), 
pp.1-9. 
9. Khamphengvong, V., Xia, E. Srithilat, K., 
Inflow determinants of FDI, Human Systems 
Management 37(1): 57-66. 
10. Khan R. and Zahra H. (2016), Impact of 
Domestic Interest Rate on Foreign Direct 
Investment (A case study of Pakistan), Bulletin of 
Business and Economics, 5(4), 220- 230. 
11. Lê Văn Thắng & Nguyễn Lưu Bảo Đoan 
(2017), Phân tích yếu tố ảnh hưởng đến FDI của 
các tỉnh thành Việt Nam bằng mô hình kinh tế lượng 
không gian, Tạp chí Phát triển Kinh tế, 28(7), 04-33. 
12. Liew, V. K. S., Shitan, M., Keong, C. C., & 
Wooi, H. C. (2008), Performance of Autoregressive 
Order Selection Criteria: A Simulation Study, 
Pertanika Journal of Science & Technology, 16(2). 
13. MacDougall, G. D. A. (1960), The benefits 
and costs of private investment from abroad: A 
Theoretical Approach 1, Bulletin of the Oxford 
University Institute of Economics & Statistics, 
22(3), 189-211. 
14. Mugableh, M. I. (2015), Time series analysis 
of inward foreign direct investment function in 
Malaysia, Procedia-Social and Behavioral Sciences, 
172, 679-685. 
15. Nguyễn Ngọc Anh và Nguyễn Thắng (2007), 
Foreign direct investment in Vietnam: An overview 
and analysis the determinants of spatial distribu-
tion, Development and Policies Research Center & 
Center for Analysis and Forecasting. 
16. Nguyễn Thị Hồng Nhung, Ứng dụng mô hình 
ARDL đánh giá tác động của chính sách tỷ giá và 
các nhân tố vĩ mô đến thu hút FDI tại Việt Nam, Tạp 
chí Kinh tế và dự báo - 2016- Số 32- Tr. 7 – 10. Lần 
truy cập cuối: tháng 3/2019. 
17. Nguyễn Thị Kim Thanh (2011), Chính sách 
tiền tệ phục vụ yêu cầu ổn định kinh tế vĩ mô của nền 
kinh tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 
18. Pesaran, M. H., & Shin, Y. (1998), An 
autoregressive distributed-lag modelling approach 
to cointegration analysis, Econometric Society 
Monographs, 31, 371-413. 
19. Hoang Thi Thu (2007), Determinants of for-
eign direct investment in Vietnam, National 
Conference of Economists 2007 (3rd: 2007: 
Kasetsart University), p. 958-975. 
20. Trinh Nam Hoai, and Quynh Anh Mai 
Nguyen (2015), The Impact of Foreign Direct 
Investment on Economic Growth: Evidence from 
Vietnam, Developing Country Studies. Doshisha 
University. 
21. UNCTAD (1998), World Investment Report 
1998 Trends and Determinants. 
22. Vernon, R. (1966), International investment 
and international trade in the product cycle, 
Quaterly Journal of Economics, 80: 190-207. 
Summary 
Foreign direct investment (FDI) plays a signifi-
cant role in Vietnam's economic development. In 
order to study the impact of determinants affecting 
FDI in Vietnam since opening the economy until 
now, this paper has applied ARDL model to exam-
ine the impact of these factors in short and long term 
period. The results show that GDP, trade openness, 
interest rates and unemployment rate have a positive 
impact on foreign direct investment in the long 
term. In the short term, FDI is positively influenced 
by FDI inflows in the previous year; where as inter-
est rate and unemployment rate have represented 
negative impacts on FDI. This empirical result sug-
gests some recommendations for policy-makers in 
regulating macro-economic policies to attract more 
FDI in the future. 
Sè 143/202018
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
ung_dung_mo_hinh_ardl_nghien_cuu_cac_yeu_to_anh_huong_den_da.pdf