Ứng dụng mô hình mike 21/3 fm couple nghiên cứu quá trình vận chuyển trầm tích tại vịnh Cam Ranh
Mô hình MIKE cùng với việc xác định các
điều kiện biên cho mô hình để xác định ảnh
hưởng của sóng gió, thủy triều trong mùa gió
Tây Nam và trong điều kiện có bão đến quá
trình vận chuyển trầm tích và biến đổi địa hình
đáy tại vịnh Cam Ranh có thể chấp nhận được
thông qua các kết quả được kiểm chứng với số
liệu thực đo [7]. Từ những kết quả đó, có thể
đưa ra được những kết luận sau:
Trường sóng trong mùa gió Tây Nam và
trong điều kiện bão tại vịnh Cam Ranh không
lớn do đặc điểm địa hình (có nhiều eo và một
số đảo chắn). Phần chịu tác động sóng nhiều
nhất trong vịnh Cam Ranh là phía bên ngoài.
Tại đây độ cao sóng cực đại có thể đạt 2 ÷ 4 m
(khi có bão lớn) với các sóng có chu kỳ trung
bình 5 ÷ 8 s. Phần bên trong vịnh Cam Ranh độ
cao sóng giảm đáng kể do có eo Hòn Lương.
Tác động sóng mạnh nhất là vùng ven bờ phía
Bắc thị trấn Ba Ngòi, độ cao sóng cực đại có
thể đạt từ 0,5 ÷ 1 m. Các vùng khác trong vịnh
Cam Ranh có độ cao sóng không đáng kể.
Hướng sóng có tác động mạnh nhất cho khu
vực vịnh Cam Ranh là hướng Đông Nam.
Dòng triều mạnh nhất tại các vùng hẹp (eo
Hòn Lương) tốc độ dòng cực đại khi triều lên
có thể đạt 0,2 ÷ 0,5 m/s, còn khi triều xuống là
0,3 ÷ 0,6 m/s. Vùng dòng triều tương đối yếu là
vùng trong đầm, tốc độ cực đại 0,1 ÷ 0,4 m/s.
Tốc độ dòng triều trung bình cao nhất ở khu
vực cửa vịnh.
Dao động mực nước tại Cam Ranh mang
tính chất nhật triều không đều. Do đặc điểm địa
hình của vịnh Cam Ranh (trục vịnh dài, một
cửa chính) khi có bão có thể gây ra hiện tượng
nước dâng. Đồng thời dòng chảy do gió có thể
gây hiện tượng nước dồn hoặc nước rút tại các
khu vực bờ phía Đông Nam và Tây Nam của
vịnh Cam Ranh.
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 573 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng mô hình mike 21/3 fm couple nghiên cứu quá trình vận chuyển trầm tích tại vịnh Cam Ranh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
229
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 14, Số 3; 2014: 229-237
DOI: 10.15625/1859-3097/14/3/5160
ỨNG DỤNG MÔ HÌNH MIKE 21/3 FM COUPLE NGHIÊN CỨU
QUÁ TRÌNH VẬN CHUYỂN TRẦM TÍCH TẠI VỊNH CAM RANH
Nguyễn Ngọc Tiến
Viện Địa chất và Địa vật lý biển-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
E-mail: nntien@imgg.vast.vn
Ngày nhận bài: 21-5-2014
TÓM TẮT: Trong bài báo này, Mô hình MIKE 21/3 FM COUPLE được áp dụng để đánh giá
tác động của sóng gió, thủy triều mùa gió Tây Nam ảnh hưởng tới quá trình vận chuyển trầm tích
và biến đổi địa hình đáy vùng biển vịnh Cam Ranh. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Trong mùa gió
Tây Nam ảnh hưởng của sóng gió và dòng chảy đến xu thế vận chuyển trầm tích và biến đổi địa
hình đáy tại vùng biển vịnh Cam Ranh không mạnh. Trong mùa này thủy triều đóng vai trò chủ đạo
đến đặc điểm lan truyền trầm tích. Trong pha triều lên, thủy triều làm tăng cường sự xâm nhập của
nước biển và trầm tích vào sâu trong các đầm phá. Vào pha triều xuống, yếu tố này làm tăng cường
sự phát tán của trầm tích ra phía ngoài cửa vịnh do vậy tích tụ trầm tích tại khu vực và biến đổi địa
hình đáy là không lớn.
Từ khóa: Mô hình, Trầm tích, Cam Ranh.
MỞ ĐẦU
Vịnh Cam Ranh là tài nguyên vô giá mà
thiên nhiên ban tặng cho vùng đất này. Theo tài
liệu đã được công bố, vịnh Cam Ranh có diện
tích hơn 60 km2, chỗ rộng nhất khoảng 6 km,
ăn sâu vào nội địa chừng 12 km, thông với biển
bởi một cửa rộng khoảng 3 km. Hoạt động gió
mùa theo hai hướng chủ đạo trong năm là Đông
Bắc và Tây Nam, điều kiện hải văn như sóng
thay đổi theo mùa độ cao của sóng mùa gió Tây
Nam thường nhỏ hơn so với mùa gió Đông
Bắc, dòng chảy trên toàn bề mặt vịnh biến đổi
phức tạp (tốc độ dòng khảo sát năm 2003 biến
đổi từ 6-46 cm/s. Khu vực cửa vịnh phần lớn có
độ sâu từ 18-32 m, tàu trên 3 vạn tấn có thể ra
vào bất cứ lúc nào. Vịnh có ưu điểm là chỉ cách
đường hàng hải quốc tế 1 giờ tàu biển (cảng
Hải Phòng cách 18 giờ). Thủy triều trong vịnh
khá đều đặn, có chế độ nhật triều không đều.
Điều kiện tự nhiên thuận lợi này có ý nghĩa rất
lớn về kinh tế và kỹ thuật hàng hải.
Là một trong những vịnh thuộc tỉnh Khánh
Hòa quan trọng về an ninh quốc phòng, phát
triển kinh tế và dân sinh chính vì vậy việc
nghiên cứu các quá trình thủy thạch động lực là
một vấn đề cấp thiết nhằm đưa ra những phân
tích, đánh giá và định hướng lâu dài về xây
dựng các công trình biển, bảo vệ tài nguyên và
môi trường. Để có được những phân tích và
đánh giá đó bộ mô hình MIKE 21/3 FM
COUPLE đã được sử dụng với mục đích là
nghiên cứu các chế độ động lực biển nhằm
đánh giá chính xác quá trình vận chuyển trầm
tích và biến đổi địa hình đáy tại khu vực nghiên
cứu. Nghiên cứu này được hoàn thành với sự
hỗ trợ kinh phí của Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam năm 2013.
TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Mô hình MIKE 21/3 FM COUPLE
Đã sử dụng Module thủy động lực
(MIKE21/3 HD) để xác định trường dòng chảy
và phân bố độ dâng rút mực nước.
Nguyễn Ngọc Tiến
230
Module phổ sóng để xác định trường sóng
và ứng suất sóng.
Module vận chuyển và lắng đọng trầm tích
(MIKE21/3ST) để mô phỏng quá trình diễn
biến hình thái và vận chuyển trầm tích rời.
Tính toán các điều kiện biên của mô hình
đã sử dụng các module khác trong mô hình
MIKE như: Module phổ sóng gió ven bờ MIKE
21 - SW: Mô phỏng lan truyền sóng từ ngoài
khơi vào bờ.
Miền tính toán và số liệu cho mô hình
Xây dựng lưới tính: Lưới tính toàn Biển
Đông (Mesh BD) (hình 2) phục vụ cho tính
toán thủy triều trên toàn Biển Đông làm điều
kiện biên mực nước cho lưới tính thủy lực và
để tính sóng ngoài khơi truyền vào khu vực
nghiên cứu (Mesh I) hình 1.
Hình 1. Lưới tính cho khu vực nghiên cứu
Hình 2. Lưới tính cho khu vực Biển Đông
Địa hình vùng nghiên cứu được xây dựng
trên bản đồ có tỉ lệ 1:50.000 với các đường
đồng mức 0,5 m, hệ quy chiếu UTM, zone 49.
Độ sâu khảo sát là từ mép nước tới 30 m tại
khu vực cửa vịnh và phía ngoài khu vực đảo
Bình Ba - Cam Ranh và quy về độ sâu hải đồ
và được số hóa từ bản đồ Hải quân.
Nguồn số liệu thứ hai phía ngoài vịnh sử
dụng cơ sở dữ liệu GEBCO -1/8 có độ phân dải
0,5 phút.
Các số liệu dao động mực nước ngoài khơi
được thu thập và xử lý để làm đầu vào cho các
điều kiện biên mở phía biển của mô hình từ 4
sóng triều chính là O1, K1, M2, S2. Các hằng
số điều hòa thủy triều ở phía ngoài xa bờ được
thu thập từ cơ sở dữ liệu FES2004 của LEGOS
và CLS.
Số liệu nhiệt độ và độ muối nước biển
ngoài khơi vịnh Cam Ranh được thu thập từ cơ
sở dữ liệu WOA 2013 để sử dụng cho mô hình
tính các điều kiện biên mở phía biển [1].
Số liệu sóng được tính toán từ mô hình
sóng và được kiểm tra với kết quả tính từ mô
hình toàn cầu WAVEWACH III. Sau khi tính
toán cho cả Biển Đông, kết quả tính lan truyền
sóng vào bờ theo MIKE21 SW tại các dãy điểm
A1, A2, A3 sẽ được lấy làm biên để tính toán
lưới dày hơn (Mesh I) gần khu vực cửa vịnh và
ra ngoài khơi cách bờ khoảng 4 km, kéo dài
dọc hai phía cửa vịnh 6 km [2, 3].
Số liệu gió trên toàn miền tính (MESH BD)
được được cung cấp bởi Viện Khí tượng Thủy
văn trong tháng 11 năm 2009 và tháng 6 năm
2013.
Tham số nhám đáy (bottom roughness)
trong nghiên cứu này lựa chọn sử dụng các hệ
số Manning (n) biến đổi theo không gian với
giá trị 0,018÷0,023. Các hệ số manning lớn hơn
ở điều kiện trầm tích đáy là vật liệu thô và nhỏ
hơn ở điều kiện trầm tích đáy là hạt mịn. Căn
cứ để tính toán các hệ số này dựa vào bản đồ
phân bố trầm tích tầng mặt và tài liệu hướng
dẫn lựa chọn các hệ số manning [4]. Vận tốc
lắng đọng của trầm tích lơ lửng được chọn là
0,1 mm/s [5, 6].
Các trường hợp tính toán
Thời gian mô phỏng: Bão tháng 11 năm
2009 và gió mùa Tây Nam năm 2013. Vào mùa
Ứng dụng mô hình Mike
231
này, gió chủ yếu thổi theo hai hướng Đông Bắc
và Tây Nam, nhưng chủ yếu là Tây Nam, song
song với đường bờ biển vịnh Cam Ranh.
Hướng này tạo nên hướng sóng chủ đạo có tác
động đáng kể tới diễn biến đường bờ theo mùa.
KẾT QUẢ TÍNH TOÁN
Tác động của sóng trong điều kiện gió mùa
Tây Nam
Hướng gió trên toàn Biển Đông thay đổi
theo mùa gây nên hướng sóng cũng theo hai
hướng chính là Đông Bắc và Tây Nam. Vào
mùa gió Đông Bắc, sóng trên toàn Biển Đông
(hình 3) tác dụng chủ yếu theo hướng Đông
Bắc, độ cao sóng đạt từ 0,3 ÷ 2,6 m, do hướng
đường bờ nằm theo hướng Tây Nam nên sóng
ngoài khơi Biển Đông lan truyền tác dụng
vuông góc với đường bờ và hướng trực tiếp đến
cửa vịnh, vào thời điểm này khu vực ngoài cửa
vịnh chịu tác động mạnh nhất của sóng và dòng
chảy, chiều cao sóng ngoài cửa vịnh khoảng
0,2 đến 0,4 m.
Hình 3. Trường sóng gió mùa Tây Nam trên
Biển Đông
Vào mùa gió Tây Nam, hướng sóng trên
toàn Biển Đông (hình 3) chủ yếu theo hướng
này, độ cao sóng trên toàn biển đạt từ 0,2 ÷
2,4 m, đường bờ biển tỉnh Khánh Hòa lồi lõm
do đó hiện tượng khúc xạ sóng theo địa hình
xảy ra. Khu vực ngoài cửa vịnh (hình 4) độ cao
sóng chỉ đạt 0,4 m. Sóng được truyền vào vùng
cửa vịnh chỉ đạt trung bình 0,02 m.
Hình 4. Trường sóng gió mùa Tây Nam tại
vùng biển Cam Ranh
Sóng gió trong vịnh Cam Ranh không lớn
do đặc điểm địa hình (có nhiều eo và một số
đảo chắn). Phần chịu tác động sóng nhiều nhất
trong vịnh Cam Ranh là phía bên ngoài. Tại
đây độ cao sóng cực đại có thể đạt 1 - 2 m
(trong điều kiện bão) với các sóng có chu kỳ
trung bình 1 - 2 s. Phần bên trong vịnh Cam
Ranh độ cao sóng giảm đáng kể do có eo Hòn
Lương (đảo Bình Ba). Tác động sóng mạnh
nhất là vùng ven bờ phía Bắc thị trấn Ba Ngòi
(6 - 8 km) độ cao sóng cực đại có thể đạt tại
vùng này là 0,5 ÷ 1 m. Hướng sóng có tác dụng
mạnh nhất cho khu vực vịnh Cam Ranh là
hướng Đông Nam.
Trường dòng chảy trong mùa gió Tây Nam
Vào thời điểm nước lớn của tháng 6 hướng
dòng chảy tổng hợp ở vùng cửa vịnh Cam Ranh
biến động mạnh theo pha dao động của mực
nước triều. Trong pha triều lên, dòng chảy có
hướng từ biển vào phía trong cửa vịnh. Ở phía
ngoài vịnh, hướng dòng chảy chủ yếu là Đông
Nam - Tây Bắc (hình 5). Trong pha triều này,
các khối nước đi từ phía ngoài vào vùng ven bờ
vịnh. Vận tốc dòng chảy phổ biến trong khoảng
0,2 ÷ 0,5 m/s.
Nguyễn Ngọc Tiến
232
Hình 5. Trường dòng chảy tháng 6 (pha triều lên)
Hình 6. Trường dòng chảy tháng 6 (pha triều
xuống)
Trong pha triều xuống tốc độ dòng chảy lớn
hơn (đặc biệt là các lớp nước trên mặt). Vận tốc
dòng chảy ở pha triều này phổ biến dao động
trong khoảng 0,2 ÷ 0,7 m/s (hình 6). Hướng dòng
chảy chủ yếu theo hướng từ bờ ra phía ngoài.
Vận chuyển trầm tích và biến đổi địa hình
đáy trong mùa gió Tây Nam
Trong tháng 6 (mùa khô) đặc điểm vận
chuyển và lắng đọng của trầm tích có liên quan
chặt chẽ đến chế độ thủy động lực và nguồn
cung cấp trầm tích. Do vịnh Cam Ranh, lưu
lượng các con sông đổ ra không nhiều vì vậy
hàm lượng trầm tích của các sông thường có
giá trị không lớn nên phạm vi phát tán của trầm
tích ra vùng biển phía ngoài cũng rất hạn chế.
Trong pha triều lên trường dòng chảy có
hướng từ phía biển vào cửa vịnh vì vậy vùng có
hàm lượng trầm tích cao (chủ yếu là trầm tích
lơ lửng) bị đẩy dần về phía trong vịnh vùng
nước có hàm lượng trầm tích lơ lửng cao chỉ ở
sát phía ngoài cửa vịnh và phía trong cửa Bình
Ba (hình 7). Các khu vực khác hàm lượng trầm
tích không lớn.
Trong pha triều xuống, khối nước từ vịnh
hướng ra biển có điều kiện phát triển mạnh hơn
nên dòng chảy lại đưa trầm tích phát triển ra
phía biển. Tuy nhiên do lưu lượng nước trong
mùa khô khá nhỏ nên sự chênh lệch phạm vi
của vùng nước có hàm lượng trầm tích cao
trong pha triều lên và triều xuống là không lớn
(hình 8).
Trong cả con nước hàm lượng trầm tích chủ
yếu là trầm tích lơ lửng có giá trị khá nhỏ vì
vậy sự thay đổi địa hình đáy chỉ dao động từ
0,002 đến 0,03 m.
Ứng dụng mô hình Mike
233
Hình 7. Vận chuyển trầm tích và biến đổi địa hình đáy tháng 6 lúc triều lên
Hình 8. Vận chuyển trầm tích và biến đổi địa hình đáy tháng 6 lúc triều xuống
Những tác động trong điều kiện bão
Khu vực miền Trung hàng năm chịu ảnh
hưởng nặng nề của các cơn bão, gây nên thiệt
hại nặng nề cho người dân địa phương. Việc mô
phỏng quá trình cũng như tác động của bão đến
cửa vịnh nhằm đánh giá nguyên nhân và ảnh
hưởng của hiện tượng đặc biệt này đến khu vực.
Hình ảnh mô phỏng cơn bão MIRINAE
tháng 11 năm 2009 đổ bộ vào khu vực Biển
Đông cho thấy trường sóng trong bão phù hợp
với hình ảnh vệ tinh của cơn bão này về vị trí
Nguyễn Ngọc Tiến
234
tâm bão cũng như hướng dịch chuyển (hình 9,
10). Tại khu vực cửa Cam Ranh, do ảnh hưởng
của bão sóng hướng thẳng vào cửa, vuông góc
với đường bờ biển, chiều cao sóng lên tới 1 đến
3 m. Sóng tiến sát vào phía cửa vịnh với chiều
cao khoảng 0,5 m (hình 11, 13).
Hình 9. Trường sóng trong bão MIRINAE tại Biển Đông (0h 02/11/2009)
Hình 10. Trường sóng trong bão MIRINAE tại Biển Đông (12h 02/11/2009)
Với biên độ triều nhỏ, thủy triều đã không
làm tăng cường hoặc hạn chế sự phát tán của
quá trình vận chuyển trầm tích từ trong vịnh ra
phía ngoài vì vậy trong điều kiện bão thủy triều
đã không ảnh hưởng nhiều đến phân bố trầm
tích theo không gian (hình 12, 14).
Những ảnh hưởng đồng thời của sóng và
gió đã được khảo sát thông qua các kịch bản
tính toán và phân tích giữa các trường hợp
tháng 6.
Trong điều kiện bão sóng và dòng ven bờ là
hai yếu tố chính đưa trầm tích từ ngoài khơi vào
bờ và ngược lại phá hủy bờ mang theo trầm tích
ra ngoài (hình 11, 12). Quá trình này đã làm cân
bằng bồi xói khi cơn bão kết thúc. Sóng và gió
trong bão cộng với pha triều lên làm tăng cường
sự khuyếch tán trầm tích ở các tầng nước phía
dưới lên các tầng trên mặt (hình 15). Vào pha
triều xuống, ảnh hưởng của sóng- gió cũng làm
độ đục ở phía ngoài tăng lên đáng kể.
Trong thời gian bão, chủ yếu xảy ra nước
dâng, dòng ven bờ lớn. Diễn biến quá trình vận
chuyển trầm tích lơ lửng và biến động địa hình
đáy được thể hiện ở hình 15.
Ứng dụng mô hình Mike
235
Hình 11. Trường sóng bão MIRINAE lúc 0h
ngày 02/11/2009
Hình 12. Trường dòng chảy bão MIRINAE lúc
0h ngày 02/11/2009
Hình 13. Trường sóng bão MIRINAE lúc
10h16 ngày 02/11/2009
Hình 14. Trường dòng chảy bão MIRINAE lúc
10h16 ngày 02/11/2009
Nguyễn Ngọc Tiến
236
Hình 15. Phân bố trầm tích lơ lửng và trầm tích đáy trong bão MIRINAE
KẾT LUẬN
Mô hình MIKE cùng với việc xác định các
điều kiện biên cho mô hình để xác định ảnh
hưởng của sóng gió, thủy triều trong mùa gió
Tây Nam và trong điều kiện có bão đến quá
trình vận chuyển trầm tích và biến đổi địa hình
đáy tại vịnh Cam Ranh có thể chấp nhận được
thông qua các kết quả được kiểm chứng với số
liệu thực đo [7]. Từ những kết quả đó, có thể
đưa ra được những kết luận sau:
Trường sóng trong mùa gió Tây Nam và
trong điều kiện bão tại vịnh Cam Ranh không
lớn do đặc điểm địa hình (có nhiều eo và một
số đảo chắn). Phần chịu tác động sóng nhiều
nhất trong vịnh Cam Ranh là phía bên ngoài.
Tại đây độ cao sóng cực đại có thể đạt 2 ÷ 4 m
(khi có bão lớn) với các sóng có chu kỳ trung
bình 5 ÷ 8 s. Phần bên trong vịnh Cam Ranh độ
cao sóng giảm đáng kể do có eo Hòn Lương.
Tác động sóng mạnh nhất là vùng ven bờ phía
Bắc thị trấn Ba Ngòi, độ cao sóng cực đại có
thể đạt từ 0,5 ÷ 1 m. Các vùng khác trong vịnh
Cam Ranh có độ cao sóng không đáng kể.
Hướng sóng có tác động mạnh nhất cho khu
vực vịnh Cam Ranh là hướng Đông Nam.
Dòng triều mạnh nhất tại các vùng hẹp (eo
Hòn Lương) tốc độ dòng cực đại khi triều lên
có thể đạt 0,2 ÷ 0,5 m/s, còn khi triều xuống là
0,3 ÷ 0,6 m/s. Vùng dòng triều tương đối yếu là
vùng trong đầm, tốc độ cực đại 0,1 ÷ 0,4 m/s.
Tốc độ dòng triều trung bình cao nhất ở khu
vực cửa vịnh.
Dao động mực nước tại Cam Ranh mang
tính chất nhật triều không đều. Do đặc điểm địa
hình của vịnh Cam Ranh (trục vịnh dài, một
cửa chính) khi có bão có thể gây ra hiện tượng
nước dâng. Đồng thời dòng chảy do gió có thể
gây hiện tượng nước dồn hoặc nước rút tại các
khu vực bờ phía Đông Nam và Tây Nam của
vịnh Cam Ranh.
Đặc điểm vận chuyển trầm tích và biến
đổi địa hình đáy trong mùa gió Tây Nam vùng
vịnh Cam Ranh hầu như không đáng kể. Trong
đó, thủy triều đóng vai trò chủ đạo đến đặc
điểm lan truyền, lắng đọng trầm tích ở khu vực
này. Trong pha triều lên, ảnh hưởng của thủy
triều làm tăng cường sự xâm nhập của nước
biển và trầm tích vào sâu trong vịnh. Vào pha
triều xuống, yếu tố này làm tăng cường sự phát
tán của trầm tích ra phía ngoài cửa vịnh. Trong
điều kiện có bão xảy ra nước dâng, dòng ven
bờ lớn. Diễn biến quá trình vận chuyển trầm
tích lơ lửng và biến động địa hình đáy chịu ảnh
hưởng lớn của sóng và dòng chảy dọc bờ, đây
là hai nhân tố chính phá hủy bờ mang trầm tích
Ứng dụng mô hình Mike
237
ra ngoài. Sau khi cơn bão kết thúc trầm tích
ngoài khơi được mang lại, quá trình này đã làm
cân bằng bồi xói tại vùng nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lyard F., F. Lefevre, T. Letellier, and O.
Francis, 2006. “Modelling the global ocean
tides: modern insights from FES2004”.
Ocean Dynamics, 56, 394-415.
2. Arcement, G. J., Jr. and V. R. Schneider
1989. “Guide for Selecting Manning’s
Roughness Coefficients for Natural
Channels and Flood Plains”. U.S.
Geological Survey Water Supply Paper
2339, 38 p.
3. Katopodi, I. and Ribberink, J. S., 1992.
“Quasi-3D Modeling of Suspended
Sediment Transport by Currents and
Waves”, Coastal Engineering, Vol. 18, p.
83-110.
4. DHI - MIKE 21/3 Couple Model FM, User
Guide, DHI Software 2007
5. Van Rijn, L., 1993. “Principles of Sediment
Transport in Rivers, Estuaries and Coastal
Seas”, Aqua Publications, The Netherlands.
6. World Ocean Atlas, 2013. “National
Oceanographic Data Center. 2013.
bin/OC5/woa13.pl
7. Vũ Thanh Ca, 2004. Phương pháp xử lý các
điều kiện biên cứng và biên mở trong các
mô hình sóng tuyến tính không dừng. Tạp
chí khoa học kỹ thuật Thuỷ lợi và Môi
trường, số 6 tháng 9/2004.
STUDY ON THE SEDIMENT TRANSPORT PROCESSES IN CAM
RANH BAY USING MIKE 21/3 FM COUPLE MODEL
Nguyen Ngoc Tien
Institute for Marine Geology and Geophysics-VAST
ABSTRACT: In this paper, MIKE 21/3 FM COUPLE software was applied to assess the
impact of wind, wave, current, tides in South-West monsoon on sediment transport and bottom
terrain modification in Cam Ranh bay. The results show that: In South-West monsoon, the impact of
wave and current is minor. Tide is dominant factor effecting sediment spread. In the flood tide
phases, tide increases the penetration of sea water and sediment from open sea into the lagoons and
vice versa during ebb tide phases, hence, sediment accumulation and bottom terrain modification is
not much.
Keywords: Model, sediment, Cam Ranh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5160_20915_1_pb_2896_2079650.pdf