Kết quả cho thấy không có mối liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa mức độ can xương và tổng số lượng tế bào
CD34(+), CD73(+) trong khối dịch TBGTX được ghép
cho bệnh nhân tại thời điểm 12 tháng sau ghép (bảng 3).
Điều này cũng phù hợp với kết quả của Nguyễn Mạnh
Khánh và cộng sự [6]. Tuy nhiên tỉ lệ bệnh nhân có liền
xương độ 5 (thang điểm Lieberman) trong nghiên cứu của
chúng tôi cao hơn chiếm 51,2% (21/41 BN) cho thấy ưu
điểm của phương pháp ghép dịch TBGTX qua các đường
hầm xuyên ổ khớp giả.
Để xác định các loại TBG khác nhau của tuỷ xương
trong khi kháng nguyên CD34 đặc trưng cho các TBG tạo
máu thì chúng tôi tiến hành định lượng thêm kháng
nguyên CD73 là đặc trưng cho TBG tạo xương (nguồn
gốc trung mô), kết quả bảng 2 cho thấy số lượng tế bào
CD73(+) khá cao: 9,7 ± 3,21 x106. Với mục đích xác
định gián tiếp số lượng TBG trung mô (hệ tạo xương)
Hernigou khi nuôi cấy tuỷ xương của 60 ca khớp giả
thân xương chày thu được trung bình 33 cụm CFU-F/
106 tế bào có nhân [4]. Các tác giả đều nhận thấy có
mối liên quan tỷ lệ thuận: số lượng tế bào có nhân,
tế bào CD34(+) càng nhiều thì số lượng TBG trung
mô càng cao (p<0,01). Các tác giả cũng thống nhất
rằng tuỷ xương trước khi ghép vào ổ gãy nên được
tách bỏ những tế bào không cần thiết để làm tăng số
lượng TBG cần thiết cho quá trình tạo xương tại ổ gãy
[5],[6]. Trong nghiên cứu này chúng tôi không đủ điều
kiện nuôi cấy cụm tế bào CFU-F để đánh giá gián tiếp
số lượng TBG trung mô như các tác giả khác.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng phương pháp ghép tế bào gốc tuỷ xương tự thân qua các đường hầm trong điều trị khớp giả thân xương dài tại bệnh viện Việt Đức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ 3/2013
6
Ngô Bá Toàn1,
Nguyễn Mạnh Khánh1
Trần Đình Chiến2,
Nguyễn Đắc Nghĩa3 ,
Lê Xuân Hải4,
Nguyễn Anh Trí4.
1-Bệnh viện Việt Đức,
2-Học viện quân y,
3-Bệnh viện Vimex,
4-Viện HHTM TƯ.
Email:
nbtoan@yahoo.com
Ngày nhận: 26 - 4 - 2013
Ngày phản biện: 20 - 5 -2013
Ngày in: 06 - 6 - 2013
Ngo Ba Toan,
Nguyen Manh Khanh,
Tran Dinh Chien,
Nguyen Dac Nghia,
Le Xuan Hai,
Nguyen Anh Tri
ỨNG DụNG PHƯƠNG PHÁP GHÉP TẾ BÀO GỐc TUỶ XƯƠNG
TỰ THÂN QUA cÁc ĐƯỜNG HẦM TRONG ĐIỀU TRỊ KHỚP
GIẢ THÂN XƯƠNG DÀI TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨc
PERcUTANEOUS AUTOlOGOUS BONE MARROW DERIVED
TEM cEllS GRAFTING TO TREAT THE lONG BONE IAPHYSEAl
NONUNIONS AT VIET DUc UNIVERSITY HOSPITAl.
ABSTRAcT
Objectives: To evaluate the effect of percutaneous autologous bone marrow derived stem
cells grafting to treat the long bone diaphyseal nonunions.
Materials and methods: From January 2009 to November 2011, 41 patients with nonunions
of long bone were treated with percutaneous drilling and autologous bone marrow
derived stem cells grafting. They were evaluated the healing result and the relation with
the number of bone marrow cells: CD34+, CD 73+ stem cells in Institute of Orthopaedic-
Traumatology, VietDuc Hospital and Department of Immunology-Cytogenetic & Molecular
Biology National Institute of Hematology and Blood Transfusion of Vietnam.
Results: None of the patients had post-operative complications. Bone union was obtained
in 37 patients (90,2%) at an average of 24 months follow-up. The bone marrow grafts
used for these patients contained a mean of 12,5±8,17 x106 CD34(+) stem cells and 9,7 ±
3,21 x106 CD73(+). There was a positive correlation between the time healing and callus
level and the number of stem cells in the graft.
Conclusions: Percutaneous autologous bone marrow derived stem cells grafting is a
minimally invasive alternative, effective and safe method for the treatment of the long
bone diaphyseal nonunions with the comparative bone healing rate.
Key words: nonunions, stem cells, drilling.
Muïc tieâu: Ñaùnh giaù hieäu quaû cuûa gheùp khoái teá baøo goác tuyû xöông töï thaân tôùi quaù trình
lieàn xöông trong ñieàu trò khôùp giaû thaân xöông daøi.
Ñoái töôïng vaø phöông phaùp: Töø thaùng 1/2009 ñeán thaùng 11/2011, taïi Vieän Chaán
thöông Chænh hình, BV Vieät Ñöùc vaø Khoa Mieãn dòch-di truyeàn & sinh hoïc phaân töû,
Vieän Huyeát hoïc truyeàn maùu TÖ, 41 beänh nhaân khôùp giaû thaân xöông daøi ñöôïc gheùp
khoái teá baøo goác tuyû xöông töï thaân vaøo oå gaõy qua caùc ñöôøng haàm khoan xuyeân oå khôùp
giaû; ñaùnh giaù keát quaû lieàn xöông vaø moái lieân quan vôùi soá löôïng teá baøo tuyû xöông, teá
baøo goác CD34+, CD73+.
Keát quaû: Khoâng coù bieán chöùng taïi nôi laáy vaø gheùp tuyû xöông. Tyû leä lieàn xöông
90,24% (37/41 beänh nhaân) vôùi thôøi gian theo doõi trung bình 24 thaùng. Trung bình dòch
tuûy xöông sau taùch coù 12,52 ± 8,17 x106 teá baøo goác CD34+ vaø 9,73 ± 3,21 x106 teá baøo
goác CD73+ ,ñöôïc gheùp cho beänh nhaân. Coù moái lieân quan giöõa soá löôïng teá baøo goác vôùi
möùc ñoä can xöông.
Keát luaän: Gheùp teá baøo goác tuyû xöông töï thaân qua caùc ñöôøng haàm ñieàu trò khôùp giaû
thaân xöông chaøy laø phöông phaùp ít xaâm laán, ñôn giaûn, an toaøn vaø hieäu quaû vôùi tyû leä
lieàn xöông cao.
Töø khoùa: khôùp giaû, teá baøo goác, khoan ñöôøng haàm
TÓM TẮT
Phản biện khoa học: GS. TS. Đỗ Đức Vân, PGS. TS. Nguyễn Văn Thạch
Ứng dụng phương pháp ghép tế bào gốc tuỷ xương tự thân qua các đường hầm trong điều trị khớp giả thân xương
dài tại Bệnh viện Việt Đức 7
ĐẶt VẤN ĐỀ
Khớp giả thân xương dài là biến chứng có thể gặp sau
gãy xương do những nguyên nhân cơ học, sinh học khác
nhau gây nên. Việc điều trị không đơn giản, có thể để lại
nhiều di chứng nặng nề, thậm chí cắt cụt chi, đặc biệt với
những trường hợp có phần mềm xấu, tiền sử nhiễm trùng,
khuyết xương hoặc diện gãy teo đét...
Có nhiều phương pháp can thiệp được đưa ra để điều
trị ổ khớp giả xương dài với mục tiêu cuối cùng đem lại
liền xương cho ổ khớp giả, một trong các phương pháp
tiên phong là khoan tạo đường hầm qua ổ khớp giả ít xâm
lấn của Beck với mục đích tăng cấp máu tủy xương vào
ổ khớp giả nhằm phát động quá trình liền xương [1]. Dù
ghi nhận được những thành công nhất định nhưng phương
pháp khoan tạo đường hầm của Beck có tỉ lệ liền xương
thấp nên hiện nay không còn được sử dụng đơn thuần trên
lâm sàng.
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy tế bào gốc tuỷ
xương (TBGTX) có khả năng tạo xương mới. Friedenstein
khi ghép khối tế bào tuỷ xương hoặc tuỷ xương invitro
trong các khoang khuếch tán đều thấy sự hình thành xương
và sụn [2].
Năm 1991, Connolly lần đầu tiên ghép trực tiếp tuỷ
xương tự thân để điều trị khớp giả thân xương chày cho kết
quả liền xương tốt [3]. Hernigou (2005) báo cáo 60 trường
hợp khớp giả thân xương chày được ghép tuỷ xương tự
thân đã qua xử lý có sử dụng máy tách tế bào để tăng số
lượng và độ tập trung tế bào gốc (TBG) được ghép, tỷ lệ
liền xương đạt 88,30%, cho thấy đây là một phương pháp
ít xâm lấn, đơn giản và hiệu quả [4].
Tại Việt Nam các nghiên cứu ứng dụng TBG điều trị
khớp giả còn hạn chế. Năm 2007, Cao Thỉ tiến hành ghép
tủy xương tự thân nhằm tăng cường liền xương cho ổ gãy
chậm liền thân xương chày [5].
Năm 2010, Nguyễn Mạnh Khánh, Nguyễn Tiến Bình
và cộng sự báo cáo trên 59 bệnh nhân chậm liền xương,
khớp giả thân xương chày được ghép tủy xương tự thân đã
qua xử lý tăng số lượng và mật độ TBG đem lại tỷ lệ liền
xương cao 91,50% với thời gian theo dõi trung bình 24,2
tuần [6].
Tuy nhiên cho tới nay việc tiêm một khối lượng lớn
dịch tủy xương cô đặc vào vùng xơ của ổ khớp giả theo
phương pháp thông thường rất khó khăn, tạo phân bố
không đều thậm chí có thể gây vỡ tế bào hoặc trào ra ngoài
da, các nghiên cứu ứng dụng ghép tuỷ xương điều trị khớp
giả, chậm liền thân xương dài tại Việt Nam cũng như trên
thế giới vẫn chưa đề cập tới vấn đề này.
Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục
tiêu : đánh giá hiệu quả liền xương của ghép khối dịch
TBGTX qua các đường hầm trong điều trị khớp giả thân
xương dài.
ĐỐi tƯỢNG Và pHƯƠNG pHáp
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân: Người trưởng thành
tuổi từ 16 đến 60 tuổi được chẩn đoán khớp giả chặt thân
xương dài sau kết hợp xương hoặc điều trị bảo tồn bằng
bột tại Viện Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện Việt Đức
từ tháng 9/2009 tới tháng 11/2011, không bị bệnh của
máu, cơ quan tạo máu và các bệnh cấp tính. Bệnh nhân
tự nguyện và ký giấy đồng ý tham gia nghiên cứu sau khi
được giải thích rõ về các lợi ích và nguy cơ của phương
pháp điều trị.
Không đưa vào nghiên cứu này những bệnh nhân khớp
giả lỏng, khớp giả có dấu hiệu nhiễm trùng hoặc không ký
giấy tham gia nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
phương pháp lấy khối dịch tBGtX: Tuỷ xương được
lấy từ gai chậu sau trên và mào chậu sau hai bên bằng kim
lấy tuỷ có đường kính 3 mm, chống đông bằng heparin.
Khối tế bào đơn nhân có chứa TBGTX được tách bằng
phương pháp ly tâm tỷ trọng, huyền dịch trong nước muối
sinh lý với thể tích cuối cùng là 20 ml và được xét nghiệm
xác định số lượng tế bào tuỷ xương, tế bào đơn nhân, TBG
CD34(+) và CD73(+) tại Khoa Miễn dịch-Di truyền và
Sinh học phân tử, Viện Huyết học truyền máu TW.
Kỹ thuật ghép: Khối dịch TBGTX được ghép cho
bệnh nhân trong vòng 6 giờ kể từ khi lấy tuỷ. Xác định ổ
khớp giả thân xương dài dựa trên màn huỳnh quang tăng
sáng (C-arm), dùng khoan y tế tạo các đường hầm xuyên
ổ khớp giả từ hai vị trí phía trong và ngoài thân xương, 20
ml huyền dịch TBGTX được tiêm vào vùng khớp giả và
xung quanh bằng kim 18G qua hai vị trí khoan trên.
theo dõi sau ghép: Giữ nguyên phương tiện kết hợp
xương hoặc bó bột tăng cường nếu không đủ vững. Với
bệnh nhân khớp giả chi dưới được phép tỳ một phần với
nạng khi có can xương, nếu can xương tiến triển tốt, tăng
dần độ tỳ đến khi tỳ được hoàn toàn. Với bệnh nhân khớp
giả chi trên được phép hoạt động nhẹ với những động tác
không chịu lực, khi có liền xương được chịu lực tăng dần.
Nếu xương liền tốt, bột hoặc phương tiện kết hợp xương
được tháo bỏ. Bệnh nhân được khám lại và chụp X quang
định kỳ sau ghép 1 tháng và hàng 3 tháng đến khi xương
liền để đánh giá tiến triển can xương.
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ 3/2013
8
Đánh giá kết quả: kết quả liền xương được đánh
giá dựa trên dấu hiệu lâm sàng và X quang (mức độ can
xương được đánh giá theo thang điểm của Lieberman
tuỳ theo sự hình thành xương mới qua ổ gãy: 1 = 0-25%,
2 = 26-50%, 3 = 51-75% hay can 1/2 thành xương, 4 =
76-99% hay can 3/4 thành xương, 5 = 100% hay can
toàn bộ thành xương), liền xương là khi có hình ảnh can
xương trên phim thẳng và nghiêng (độ 3,4 và 5). Kết
quả, thời gian liền xương và mức độ can xương được
xác định xem có mối liên quan với số lượng tế bào tuỷ
xương, tế bào CD34(+), CD73(+) hay không.
KẾt QUẢ
Đặc điểm chung của bệnh nhân
41 bệnh nhân được ghép khối dịch TBGTX tự thân
và đánh giá kết quả bao gồm 29 nam (70.7%) và 12 nữ
(29.6%). Tuổi: trung bình 32,20 tuổi.
Vị trí gãy: 15 bệnh nhân (36.6%) khớp giả vùng
cẳng tay, 4 bệnh nhân (9,7%) khớp giả vùng cánh tay,
22 bệnh nhân (53,7%) khớp giả vùng cẳng chân.
Điều trị trước ghép: Bó bột có 8 BN (19,5%), kết
hợp xương bên trong 25 BN (60,8%), cố định ngoài
có 8 BN (19,5%). Có 9 BN (21,9%) có sẹo mổ cũ xấu,
xơ sẹo nhiều hoặc sau vá da, chuyển vạt che xương...
với nguy cơ lộ xương hoặc nhiễm trùng cao nếu phải
mổ lại.
Hình ảnh X quang: 27 bệnh nhân có khớp giả
phì đại (65,9%), 14 bệnh nhân có khớp giả teo đét
(34,2%).
Thời gian nằm viện trung bình: 2,1 ngày (2-5 ngày).
Kết quả ghép khối dịch tBGtX:
- Thời gian theo dõi sau ghép: trung bình 24 tháng
(12-46 tháng).
- Mức độ can xương (bảng 2):
Tại thời điểm theo dõi xa ≥ 12 tháng không có mối
liên quan có ý nghĩa thống kê giữa mức độ can xương
và tổng số lượng tế bào CD34(+), CD73(+) được ghép
cho bệnh nhân (p>0,05).
Kết quả liền xương và số lượng TBG tủy xương
ghép: 37/41 BN liền xương (90,2%)
Đặc điểm khối tBGtX:
Baûng 1: Soá löôïng teá baøo tuyû xöông trong khoái dòch TBGTX (n=41)
TB tuyû xöông Soá löôïng Tyû leä % Ng. Maïnh Khaùnh [6]
TB hoàng caàu 1,23 ± 0,63 x106
TB baïch caàu 63,11 ± 21,23 x103
TB tieåu caàu 186,28 ± 106,24 x103
TB CD34(+) 12,45 ± 8,17 x106 1,15 ± 0,31 13,8 ± 5,1 x106
TB CD73(+) 9,73 ± 3,21 x106 1,07 ± 0,29
Baûng 2. Möùc ñoä can xöông sau gheùp ≥ 12 thaùng vaø toång soá löôïng TBG gheùp (n=41)
Möùc ñoä
can xöông
Chuùng toâi Ng. Maïnh Khaùnh [6]
n SLTB CD34(+) SLTB CD73(+) n SLTB CD34(+)
0-25% 3 9,31 ± 0,50 x106 8,70 ± 0,62 x106 2 11,2 ± 2,7 x106
26-50% 1 10,76 ± 0 x106 8,34 ± 0 x106 3 14,3 ± 2,3 x106
51-75% 4 10,78 ± 1,33 x106 9,06 ± 1,15 x106 0
76-99% 12 10,15 ± 2,42 x106 9,09 ± 2,01 x106 51 13,8 ± 5,4 x106
100% 21 14,06 ± 10,94 x106 10,44 ± 4,12 x106 3 14,9 ± 2,0 x106
TS 41 12,45 ± 8,17 x106 9,73 ± 3,21 x106 59 13,8 ± 5,1 x106
Ứng dụng phương pháp ghép tế bào gốc tuỷ xương tự thân qua các đường hầm trong điều trị khớp giả thân xương
dài tại Bệnh viện Việt Đức 9
BàN LUẬN
Qua nghiên cứu trên 41 bệnh nhân khớp giả thân xương
dài được phẫu thuật ghép khối dịch TBGTX tự thân qua
các đường hầm xuyên ổ khớp giả chúng tôi thấy :
Đặc điểm bệnh nhân: Đa số là các bệnh nhân nam
chiếm 70.7% và nữ chiếm 29.3% với độ tuổi trung bình
trẻ hầu hết đang trong độ tuổi lao động : 32,2 tuổi, nên cần
nhanh chóng trả lại khả năng lao động cho bệnh nhân.
Có 9 bệnh nhân (21,9%) có sẹo mổ cũ xấu, xơ sẹo nhiều
hoặc sau vá da, chuyển vạt che xương... với nguy cơ lộ
xương hoặc nhiễm trùng cao nếu phải mổ mở ghép xương.
Phương pháp ghép khối dịch TBGTX qua các đường hầm
ít tác động nhất cho tổ chức phần mềm xung quanh, chúng
tôi giữ nguyên phương tiện cố định xương, chỉ khoan tạo
các đường hầm và bơm dịch chứa TBGTX nên sau mổ
bệnh nhân hầu như không phải dùng thuốc giảm đau, chỉ
có lỗ chọc kim Kirschner nên giảm thiểu nguy cơ nhiễm
trùng, thời gian nằm viện trung bình là 2,1 ngày. Đây cũng
là một trong những ưu điểm của phương pháp này.
Đặc điểm khối dịch TBGTX : Số lượng CD34(+) là
12,5 ± 8,17 x106, CD73(+) là 9,7 ± 3,21 x106. Con số
này cũng tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Mạnh
Khánh trên 59 bệnh nhân là 13,8 ± 5,1 x106 [6], mặt khác
số lượng tiểu cầu trong dịch ghép cũng khá cao : 186,3 ±
106,24 x103 điều này cũng giúp thúc đẩy quá trình biệt
hóa và sinh sản các TBG trong quá trình liền xương với
yếu tố phát triển nguồn gốc tiểu cầu [4].
Kết quả ghép khối dịch TBGTX: Qua nghiên cứu
chúng tôi thu được tỉ lệ liền xương là 90,2% (37/41 BN).
Theo nghiên cứu của Hernigou và cộng sự (2005) ghép
tủy xương tự thân qua da trên 60 bệnh nhân tỉ lệ liền
xương là 88,3% [4], gần đây nhất tại Việt Nam Nguyễn
Mạnh Khánh (2010) nghiên cứu cho thấy tỉ lệ liền xương
là 91,5% [6]. Có thể thấy kết quả của chúng tôi và của tác
giả Nguyễn Mạnh Khánh là tương đối đồng nhất cả về số
lượng TBG ghép và tỉ lệ liền xương trên lâm sàng. Tuy
nhiên trong quá trình ghép chúng tôi nhận thấy việc bơm
khối dịch TBGTX qua da trên cơ sở các đường hầm khoan
xuyên ổ khớp giả dễ dàng hơn tránh bị thất thoát dịch ghép
ra ngoài da, giúp làm tăng khả năng phân tán, độ tập trung
của TBGTX vào ổ khớp giả, mặt khác các đường hầm
cũng làm tăng cấp máu tủy xương vào ổ khớp giả [1], đưa
tới kết quả tốt với tỉ lệ liền xương đạt 90,2% .
Chúng tôi gặp 3 bệnh nhân không có can xương (7,3%).
Theo bảng 2 ta thấy số lượng tế bào CD34(+), CD73(+)
và tổng số lượng tế bào CD34(+), CD73(+) trong khối
TBGTX ở 3 bệnh nhân này thấp hơn so với 38 bệnh nhân có
can xương. Theo Hernigou, số lượng TBG trong tuỷ xương
ghép cho bệnh nhân ảnh hưởng tới kết quả liền xương [4].
Cả 3 bệnh nhân này khi ghép TBGTX vào ổ khớp giả đều
có sự hình thành xương mới nhưng có thể do các yếu tố
liên quan trực tiếp đến sự liền xương như diện gãy khuyết
xương nhiều, cong, gãy phương tiện kết xương và ổ gãy
không được cố định vững chắc nên xương không có hình
ảnh can xương trên Xquang. Theo Healey sự lỏng lẻo của ổ
gãy có thể ảnh hưởng đến kết quả ghép tuỷ xương [7].
Trong nghiên cứu của chúng tôi thời gian liền xương
trung bình là 8,7 tháng (6-14) theo chúng tôi, dường như
các TBGTX cùng với tủy xương đã tái phát động lại quá
trình liền xương nên mặc dù tỉ lệ can xương cao nhưng
không đẩy nhanh hơn quá trình này. Cao Thỉ (2007) ghép
trực tiếp tuỷ xương không qua xử lý vào ổ gãy hở thân
hai xương cẳng chân đã được cố định ngoài cũng đã thấy
thời gian liền xương ngắn hơn nhóm bệnh nhân không
được ghép tuỷ xương 3,3 tuần [5]. Gần đây, nghiên cứu
của Nguyễn Mạnh Khánh và cộng sự cũng cho thấy thời
gian liền xương trung bình trong nhóm bệnh nhân khớp
giả xương chày là 24,6 tuần [6].
Kết quả cho thấy không có mối liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa mức độ can xương và tổng số lượng tế bào
CD34(+), CD73(+) trong khối dịch TBGTX được ghép
cho bệnh nhân tại thời điểm 12 tháng sau ghép (bảng 3).
Điều này cũng phù hợp với kết quả của Nguyễn Mạnh
Khánh và cộng sự [6]. Tuy nhiên tỉ lệ bệnh nhân có liền
xương độ 5 (thang điểm Lieberman) trong nghiên cứu của
chúng tôi cao hơn chiếm 51,2% (21/41 BN) cho thấy ưu
điểm của phương pháp ghép dịch TBGTX qua các đường
hầm xuyên ổ khớp giả.
Để xác định các loại TBG khác nhau của tuỷ xương
trong khi kháng nguyên CD34 đặc trưng cho các TBG tạo
Baûng 3: Keát quaû can xöông vaø soá löôïng TBG gheùp (n=41)
Keát quaû Soá BN Toång SL TB CD73(+) Toång SL TB CD34(+)
Coù can xöông 38 9,82 ± 3,31 x106 12,69 ± 8,45 x106
Khoâng coù can xöông 3 8,70 ± 0,62 x106 9,31 ± 0,50 x106
Thời gian liền xương: trung bình 8,7 tháng (6-14 tháng).
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ 3/2013
10
máu thì chúng tôi tiến hành định lượng thêm kháng
nguyên CD73 là đặc trưng cho TBG tạo xương (nguồn
gốc trung mô), kết quả bảng 2 cho thấy số lượng tế bào
CD73(+) khá cao: 9,7 ± 3,21 x106. Với mục đích xác
định gián tiếp số lượng TBG trung mô (hệ tạo xương)
Hernigou khi nuôi cấy tuỷ xương của 60 ca khớp giả
thân xương chày thu được trung bình 33 cụm CFU-F/
106 tế bào có nhân [4]. Các tác giả đều nhận thấy có
mối liên quan tỷ lệ thuận: số lượng tế bào có nhân,
tế bào CD34(+) càng nhiều thì số lượng TBG trung
mô càng cao (p<0,01). Các tác giả cũng thống nhất
rằng tuỷ xương trước khi ghép vào ổ gãy nên được
tách bỏ những tế bào không cần thiết để làm tăng số
lượng TBG cần thiết cho quá trình tạo xương tại ổ gãy
[5],[6]. Trong nghiên cứu này chúng tôi không đủ điều
kiện nuôi cấy cụm tế bào CFU-F để đánh giá gián tiếp
số lượng TBG trung mô như các tác giả khác.
KẾt LUẬN
Với những kết quả bước đầu cho thấy phương
pháp ghép khối dịch TBGTX tự thân qua các đường
hầm để điều trị khớp giả thân xương dài là phương
pháp ít xâm lấn, đơn giản, hiệu quả cao với tỷ lệ liền
xương cao có thể so sánh với các phương pháp điều
trị kinh điển khác; phương pháp này có thời gian nằm
viện ngắn, an toàn, đặc biệt ưu điểm với những trường
hợp gãy hở cũ, nguy cơ nhiễm trùng cao, sẹo mổ xấu,
dính sát xương..., số lượng TBG CD34(+),CD73(+)
có tác động tới mức độ can xương. Cần có thêm những
nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này.
Tài liệu tham khảo
1. Pusitz ME, Davis EV (1944), “Bone-drilling in delayed
union of fractures”, J Bone Joint Sur, vol. XXVI, No 3,
pp.560-565.
2. Friedenstein AJ, Chailakhyan RK, Gerasimov UV
(1987), “Bone marrow osteogenic stem cells. In vitro
cultivation and transplantation in diffusion chambers”, Cell
Tissue Kinet, 20, pp. 263-272.
3. Connolly JF, Guse R, Tiedeman J, Dehne R (1991), “
Autologous marrow injection as a substitute for operative
grafting of tibial nonunions”, Clin Orthop, 266,pp. 259-270.
4. Hernigou P, Poignard A, Beaujean F, Rouard H (2005),
“ Percutaneous autologous bone-marrow grafting for
nonunions. Influence of the number and concentration of
progenitor cells”, J Bone Joint Surg, 87A,pp. 1430-1437.
5. Cao Thỉ (2007), “ So sánh thời gian liền xương các gãy hở
xương chày giữa có và không ghép tủy xương tự thân vào
ổ gãy”, Y học thực hành, số 9, tr. 41-43.
6. Nguyễn Mạnh Khánh (2010), “Nghiên cứu ứng dụng
ghép tế bào gốc tuỷ xương tự thân điều trị khớp giả, chậm
liền thân xương chày” , Luận án tiến sĩ y học, Học viện
quân y, Hà nội.
7. Healey JH, Zimmerman PA, McDonnell JM, Lane JM
(1990), “ Percutaneous bone marrow grafting of delayed
union and nonunion in cancer patients”, Clin Orthop, 256,
pp.280-285.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ung_dung_phuong_phap_ghep_te_bao_goc_tuy_xuong_tu_than_qua_c.pdf