Tìm hiểu một số giá trị của siêu âm đàn hồi mô trong đánh giá bản chất tổn thương dạng nốt tuyến giáp
2.1. Giá trị chẩn đoán của siêu âm theo thang điểm đàn hồi trong đánh giá nguy cơ ác tính của nốt tuyến
giáp (chưa loại trừ vôi hóa)
Bảng 2. Giá trị chẩn đoán của siêu âm theo thang điểm đàn hồi trong đánh giá nguy cơ ác tính
của nốt tuyến giáp
Giải phẫu bệnh
Đàn hồi mô
Ác tính Lành tính Tổng
n % n % n %
Ác tính (ES 3-4) 4 22,22 14 77,78 18 100
Lành tính (ES 1-2) 1 5,88 16 94,12 17 100
Tổng 5 14,28 30 85,72 35 100
Nhiều tác giả nghiên cứu đặc điểm nốt tuyến giáp dựa trên thang điểm Asteria như Lippolis (2011), Moon
(2012), El-Hariri (2014). đều đề nghị lấy điểm đàn hồi ES ≥ 3 gợi ý ác tính [3], [5], [6].
So sánh với một số nghiên cứu không loại trường hợp tổn thương vôi hóa lớn, chúng tôi có bảng sau [2], [3], [4]:
Bảng 3. So sánh giá trị siêu âm đàn hồi mô áp dụng thang điểm đàn hồi
của Asteria không loại trường hợp tổn thương vôi hóa lớn
Nghiên cứu Se (%) Sp (%) PPV (%) NPV(%) Acc (%)
Chúng tôi 80,00 53,33 22,22 94,11 57,14
Asteria (2008) 94,1 81,0 55,2 98,2 83,7
M. Friedrich – Rust (2013) 80,00 65,66 26,09 95,58 67,54
El-Hariri (2014) 84,0 84,7 70,0 92,6 84,5
Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của một số tác giả về độ nhạy và giá trị dự báo
âm tính của điểm đàn hồi nhóm 3 và 4 đối với tổn thương dạng nốt tuyến giáp ác tính là khá cao. Các chỉ số độ đặc
hiệu, giá trị dự báo dương tính và độ chính xác của chúng tôi còn thấp hơn so với các tác giả còn lại. Sự khác biệt
về phương pháp siêu âm đàn hồi mô (nghiên cứu của chúng tôi và tác giả Rust cùng sử dụng phương pháp siêu
âm đàn hồi gây biến dạng trong khi tác giả Moon và Lippolis sử dụng phương pháp siêu âm đàn hồi thời gian thực
còn tác giả Hariri) cũng có thể là một yếu tố dẫn đến sự khác biệt về kết quả. Đồng thời, nghiên cứu của chúng tôi
có cỡ mẫu nhỏ nên kết quả còn hạn chế.
Chúng tôi thống kê 18 trường hợp có điểm đàn hồi 3, 4 (đánh giá ác tính), trong đó 14 trường hợp là dương
tính giả, số liệu này do các nốt vôi hóa, các tổn thương có thành phần hỗn hợp gây ra, đây cũng là nguyên nhân dẫn
đến kết quả độ đặc hiệu và giá trị tiên đoán dương thấp trong nghiên cứu của chúng tôi.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 24 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng siêu âm đàn hồi mô theo thang điểm Esteria trong đánh giá bản chất tổn thương dạng nốt tuyến giáp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 25 - 8/201610
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
* Khoa Chẩn đoán hình ảnh
- Bệnh viện trường Đại học Y
Dược Huế
Objectives: Describing elastography ultrasound images of
thyroid nodule lesions and understanding the role of ultrasound
elastography semiquantitative in evaluating the malignancy of
thyroid nodules lesions.
Material and methods: Cross-section study on 35 patients
has thyroid nodule lesions by using ultrasound and comparing
with pathological results.
Results: Using Asteria criterias for diagnosis of exclusion.
The sensitivity, specificity, positive predictive value, negative
predictive value and accuracy of ultrasound elastography in
evaluating the malignancy of thyroid nodule lesions were
80.0%, 53.33%, 22.22%, 94.11% and 57.14%, respectively.
Conclusion: Ultrasound elastography is a simple method which
is easy to apply in clinical practice with high diagnostic accuracy,
contributing for diagnosis of thyroid nodule lesions which are high
chances for being malignant.
Keywords: Elastography ultrasound, Asteria criterias,
thyroid nodules.
ỨNG DỤNG SIÊU ÂM ĐÀN HỒI MÔ
THEO THANG ĐIỂM ESTERIA TRONG
ĐÁNH GIÁ BẢN CHẤT TỔN THƯƠNG
DẠNG NỐT TUYẾN GIÁP
Application Asteria criterias of Elastography
Ultrasound in evaluation of thyroid nodules
Châu Thị Hiền Trang*, Trần Thị Tịnh Tâm*, Hoàng Minh Lợi*
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 25 - 8/2016 11
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nốt là hình thái tổn thương thường gặp nhất trong
bệnh lý tuyến giáp [1]. Tỉ lệ cao của các tổn thương
dạng nốt tuyến giáp đã biết đến từ rất lâu thông qua các
nghiên cứu, bệnh có ưu thế rõ rệt ở giới nữ. Trong đó,
tỉ lệ ung thư giáp khá thấp (5-10% trường hợp), được
giải thích một phần do kích thước khối u nhỏ, tiến triển
bệnh tương đối chậm, thường phát hiện ở giai đoạn
muộn và di căn. Nhằm phân biệt các nốt tổn thương
lành và ác tính ở tuyến giáp, nhiều tiêu chí trên siêu âm
2D và siêu âm Doppler đã được nhiều nghiên cứu đề
cập đến. Gần đây, việc ứng dụng kĩ thuật siêu âm đàn
hồi mô vào khảo sát tổn thương dạng nốt tuyến giáp
đã góp phần phát hiện và chẩn đoán sớm hơn các tổn
thương có nguy cơ ác tính cao. Do đó, chúng tôi thực
hiện đề tài: nghiên cứu giá trị siêu âm đàn hồi mô trong
chẩn đoán bản chất tổn thương dạng nốt tuyến giáp với
hai mục tiêu sau:
1. Mô tả đặc điểm hình ảnh siêu âm đàn hồi mô
của tổn thương dạng nốt tuyến giáp.
2. Tìm hiểu giá trị của siêu âm đàn hồi mô trong
đánh giá bản chất tổn thương dạng nốt tuyến giáp.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, thu thập
số liệu tiến cứu.
2. Đối tượng nghiên cứu: Gồm 35 bệnh nhân có tổn
thương dạng nốt tuyến giáp đến khám tại Khoa Chẩn
đoán hình ảnh - Bệnh viện Đại học Y Dược Huế, thời
gian từ tháng 5/2015 - 5/2016. Các bệnh nhân được
thăm khám siêu âm, sau đó đối chiếu kết quả giải phẫu
bệnh (tế bào học hoặc mô bệnh học).
3. Phương pháp nghiên cứu
Bệnh nhân có tổn thương dạng nốt tuyến giáp được
khảo sát trên siêu âm ở các chế độ 2D, Doppler và đàn
hồi mô (siêu âm đàn hồi gây biến dạng, sử dụng lực cơ
học) trên máy Toshiba Aplio 400. Sử dụng thang điểm
đàn hồi của của Asteria để phân loại tổn thương [2]:
- 1 điểm: toàn bộ nốt là màu xanh lục.
- 2 điểm: hầu hết nốt là màu xanh lục, một ít vùng
xanh lam.
- 3 điểm: hầu hết nốt là màu xanh lam, một ít vùng
xanh lục.
- 4 điểm: toàn bộ nốt là màu xanh lam.
Hình 1. Đặc điểm trên siêu âm đàn hồi mô theo
thang điểm Asteria.
(a) Điểm đàn hồi 1. (b) Điểm đàn hồi 2.
(c) Điểm đàn hồi 3. (d) Điểm đàn hồi 4.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nhóm đối tượng nghiên cứu gồm 35 bệnh nhân,
trong đó có 32 nữ 3 nam. Tuổi trung bình của nhóm
nghiên cứu là 44,89 (17 đến 81 tuổi).
1. Đặc điểm hình ảnh siêu âm đàn hồi mô của tổn
thương dạng nốt tuyến giáp
1.1. Sự phân bố tổn thương nốt tuyến giáp theo
thang điểm đàn hồi
Bảng 1. Sự phân bố tổn thương nốt tuyến giáp
theo thang điểm đàn hồi
Thang điểm n %
ES 1 3 8,57
ES 2 14 40,00
ES 3 16 45,71
ES 4 2 5,72
Tổng 35 100
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ nhóm điểm
đàn hồi 2 và 3 chiếm cao nhất (85,71%), nhóm điểm
đàn hồi 4 chiếm tỷ lệ thấp nhất 5,72%. Theo tác giả
Lippolis (2011) nghiên cứu trên 102 bệnh nhân thấy
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 25 - 8/201612
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
điểm đàn hồi 1 và 2 chỉ chiếm 7,84%, nhóm điểm đàn
hồi 3 chiếm cao nhất 75,49%, nhóm điểm đàn hồi 4
chiếm 16,67% [5]. Nguyên nhân làm số liệu khác nhau
giữa các nghiên cứu được giải thích do kết quả hình
ảnh đàn hồi phụ thuộc máy móc, áp lực tác động lên
mô của người làm siêu âm, đặc điểm của tổn thương
nốt tuyến giáp trong nghiên cứu như kích thước, tính
chất vôi hóa, thành phần tổn thương. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, tỷ lệ nốt tuyến giáp có thành phần
hỗn hợp là 82,86%, đây là một trong những yếu tố gây
sai số cho kết quả siêu âm đàn hồi mô, theo quan sát,
phần đặc trong các nốt này được biểu diễn bằng màu
xanh lam (cứng), điều này được lý giải do phần đặc
di chuyển dễ dàng trong môi trường lỏng xung quanh,
không biến dạng khi dùng lực cơ học tác động vào
tuyến giáp [7].
1.2. Tỷ lệ các tổn thương lành tính và ác tính ở mỗi nhóm điểm đàn hồi mô
Biểu đồ 1. Tỷ lệ các tổn thương lành tính và ác tính ở mỗi nhóm điểm đàn hồi mô
Tỷ lệ các tổn thương ác tính tăng dần theo thứ tự từ nhóm ES 1 đến ES 4, trong đó 50% tổn thương được xếp
loại ES 4 là ác tính. Có đến 94,12% tổn thương thuộc 2 nhóm ES 1 và 2 là lành tính. Kết quả này tương đồng với
kết quả của các nghiên cứu khác như El-Hariri (2014) nghiên cứu trên 84 nốt thấy tỷ lệ lành tính của nhóm điểm đàn
hồi 1, 2 là 92,59%. Mireen Friedrich – Rust (2013) nghiên cứu trên 114 nốt thấy tỷ lệ lành tính ở nhóm điểm đàn hồi
1 và 2 là 95,59% [3], [4]. Như vậy, kết quả cũng chúng tôi là phù hợp với nhận xét của các tác giả trên là tổn thương
có điểm đàn hồi 1, 2 gợi ý lành tính cao.
Ngoài ra, chúng tôi ghi nhận nhóm tổn thương nhóm ES 4 có tỷ lệ 50% là ác tính. Kết quả này cũng phù hợp
với nghiên cứu của tác giả Lippolis (2011) khi nhận thấy tổn thương nhóm ES 3 tỷ lệ ác tính là 31,17%, nhóm ES 4
tỷ lệ ác tính là 47,06%.
2. Tìm hiểu một số giá trị của siêu âm đàn hồi mô trong đánh giá bản chất tổn thương dạng nốt tuyến giáp
2.1. Giá trị chẩn đoán của siêu âm theo thang điểm đàn hồi trong đánh giá nguy cơ ác tính của nốt tuyến
giáp (chưa loại trừ vôi hóa)
Bảng 2. Giá trị chẩn đoán của siêu âm theo thang điểm đàn hồi trong đánh giá nguy cơ ác tính
của nốt tuyến giáp
Giải phẫu bệnh
Đàn hồi mô
Ác tính Lành tính Tổng
n % n % n %
Ác tính (ES 3-4) 4 22,22 14 77,78 18 100
Lành tính (ES 1-2) 1 5,88 16 94,12 17 100
Tổng 5 14,28 30 85,72 35 100
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 25 - 8/2016 13
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nhiều tác giả nghiên cứu đặc điểm nốt tuyến giáp dựa trên thang điểm Asteria như Lippolis (2011), Moon
(2012), El-Hariri (2014)... đều đề nghị lấy điểm đàn hồi ES ≥ 3 gợi ý ác tính [3], [5], [6].
So sánh với một số nghiên cứu không loại trường hợp tổn thương vôi hóa lớn, chúng tôi có bảng sau [2], [3], [4]:
Bảng 3. So sánh giá trị siêu âm đàn hồi mô áp dụng thang điểm đàn hồi
của Asteria không loại trường hợp tổn thương vôi hóa lớn
Nghiên cứu Se (%) Sp (%) PPV (%) NPV(%) Acc (%)
Chúng tôi 80,00 53,33 22,22 94,11 57,14
Asteria (2008) 94,1 81,0 55,2 98,2 83,7
M. Friedrich – Rust (2013) 80,00 65,66 26,09 95,58 67,54
El-Hariri (2014) 84,0 84,7 70,0 92,6 84,5
Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của một số tác giả về độ nhạy và giá trị dự báo
âm tính của điểm đàn hồi nhóm 3 và 4 đối với tổn thương dạng nốt tuyến giáp ác tính là khá cao. Các chỉ số độ đặc
hiệu, giá trị dự báo dương tính và độ chính xác của chúng tôi còn thấp hơn so với các tác giả còn lại. Sự khác biệt
về phương pháp siêu âm đàn hồi mô (nghiên cứu của chúng tôi và tác giả Rust cùng sử dụng phương pháp siêu
âm đàn hồi gây biến dạng trong khi tác giả Moon và Lippolis sử dụng phương pháp siêu âm đàn hồi thời gian thực
còn tác giả Hariri) cũng có thể là một yếu tố dẫn đến sự khác biệt về kết quả. Đồng thời, nghiên cứu của chúng tôi
có cỡ mẫu nhỏ nên kết quả còn hạn chế.
Chúng tôi thống kê 18 trường hợp có điểm đàn hồi 3, 4 (đánh giá ác tính), trong đó 14 trường hợp là dương
tính giả, số liệu này do các nốt vôi hóa, các tổn thương có thành phần hỗn hợp gây ra, đây cũng là nguyên nhân dẫn
đến kết quả độ đặc hiệu và giá trị tiên đoán dương thấp trong nghiên cứu của chúng tôi.
2.2. Giá trị chẩn đoán của siêu âm theo thang điểm đàn hồi trong đánh giá nguy cơ ác tính của nốt tuyến
giáp sau khi loại trừ các trường hợp có vôi hóa lớn
Bảng 4. So sánh giữa kết quả đánh giá siêu âm đàn hồi mô
và giải phẫu bệnh sau khi loại trừ các trường hợp có vôi hóa lớn
Giải phẫu bệnh
Đàn hồi mô
Ác tính Lành tính Tổng
n % n % n %
Ác tính (ES 3-4) 4 26,67 11 73,33 15 100
Lành tính (ES 1-2) 1 5,88 16 94,12 17 100
Tổng 5 15,63 27 84,38 32 100
Sau khi loại 3 nốt tuyến giáp có vôi hóa lớn trên siêu âm 2D, chúng tôi tính toán được giá trị của siêu âm đàn
hồi mô trong chẩn đoán bệnh lý ác tính nốt tuyến giáp có độ nhạy 80%, độ đặc hiệu 59,26%, giá trị tiên đoán dương
26,67%, giá trị tiên đoán âm 94,11%, độ chính xác 62,5%. Như vậy chưa thấy sự khác biệt đáng kể giữa giá trị của
siêu âm đàn hồi mô trước và sau khi loại trừ các tổn thương có vôi hóa lớn.
IV. KẾT LUẬN
Bước đầu áp dụng thang điểm đàn hồi mô vào việc chẩn đoán tổn thương dạng nốt tuyến giáp ác tính siêu âm,
chúng tôi đã ghi nhận những kết quả tích cực, cho thấy đây là một phương pháp có giá trị với độ nhạy 80,0%, độ đặc
hiệu 53,33%, giá trị dự đoán âm tính 94,11%, độ chính xác 57,14% trong chẩn đoán tính chất bệnh lý nốt tuyến giáp.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 25 - 8/201614
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1. Trịnh Văn Tuấn (2014), Nghiên cứu bướu nhân
tuyến giáp ở những người kiểm tra sức khỏe tại Khoa
Khám bệnh theo yêu cầu Bệnh viện Bạch Mai, Luận
văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
2. Asteria C, Giovanardi A, Pizzocaro A, Cozzaglio
L, Morabito A, Somalvico F, et al (2008). US-elastography
in the differential diagnosis of benign and malignant
thyroid nodules. Thyroid 2008, Volume 18, Issue 5, pp.
523–531.
3. EL-Hariri M. A, Taha Ali T. F, Tawab M. A, Magid
A. M, ELShiekh A. F (2014), The clinical value of
ultrasound elastography in predicting malignant thyroid
nodules, The Egyptian Journal of Radiology and Nuclear
Medicine Volume 45, Issue 2, June 2014, pp. 353–359.
4. Friedrich-Rust M, Meyer G, Dauth N, et al (2013),
Interobserver agreement of Thyroid Imaging Reporting
and Data System (TIRADS) and strain elastography for
the assessment of thyroid nodules. PLoS ONE October
24,2013, Volume 8, Issue 10, pp. 1- 6.
5. Lippolis PV, Tognini S, Materazzi G, Polini
A, Mancini R, Ambrosini CE, Dardano A, Basolo
F, Seccia M, Miccoli P, Monzani F (2011), Is elastography
actually useful in the presurgical selection of thyroid
nodules with indeterminate cytology?, J Clin Endocrinol
Metab November 2011, Volume 96 (11), pp. 1826-1830.
6. Moon H. J., Sung J. M, Kim E. K, Yoon Y. H, Youk J.
H, Kwak J. Y (2012), Diagnostic performance of grayscale
US and elastography in solid thyroid nodules. Radiology
March 2012, Volume 262, Issue 3, pp. 1002-1013.
7. Robert A. Sofferman, Anil T. Ahuja (2012),
Ultrasound of the Thyroid and Parathyroid Glands.
Springer publisher.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm hình ảnh siêu âm đàn hồi mô tổn thương dạng nốt tuyến giáp theo thang điểm
Esteria. Tìm hiểu một số giá trị của siêu âm đàn hồi mô trong đánh giá bản chất tổn thương dạng nốt tuyến giáp.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang siêu âm đàn hồi mô và đối chiếu kết quả giải phẫu bệnh trên 35
bệnh nhân có tổn thương dạng nốt tuyến giáp tại Khoa Chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế.
Kết quả: Siêu âm có áp dụng thang điểm đàn hồi mô theo phân loại Asteria giúp chẩn đoán phân biệt các tổn
thương dạng nốt tuyến giáp lành tính và ác tính với độ nhạy 80,0%, độ đặc hiệu 53,33%, giá trị tiên đoán dương
22,22%, giá trị dự đoán âm tính 94,11%, độ chính xác 57,14% trong chẩn đoán tính chất bệnh lý nốt tuyến giáp.
Kết luận: Siêu âm đàn hồi mô là một phương pháp góp phần chẩn đoán bản chất tổn thương dạng nốt tuyến
giáp có nguy cơ ác tính.
Từ khóa: Siêu âm đàn hồi mô, thang điểm Esteria, tổn thương dạng nốt tuyến giáp.
Người liên hệ: Hoàng Minh Lợi; Email: anhloister@gmail.com
Ngày nhận bài: 27.6.2016
Ngày chấp nhận đăng: 20.7.2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ung_dung_sieu_am_dan_hoi_mo_theo_thang_diem_esteria_trong_da.pdf