In recent decades, sand and gravel mining and dam constructions conducted in the Tedori River
have affected seriously morphology of both river and Ishikawa coast, Japan. This paper aims to
estimate temporal variation in sediment supply of the lower Tedori river to Ishikawa coast using a
dataset consisting of river topography and related human intervention over the period of 58 years.
The results indicate that dredging activity and sand and gravel mining induced a decrease in
sediment supply to the Ishikawa coast in the period of 1950 -1991. The sediment supply reached the
lowest value at 0.72×105 m3/yr during the period 1972 – 1991. Due to totally prohibited sand and
gravel mining in 1991 together with Tedorigawa dam operation in 1981, the sediment supply
slightly recovered to 1.02×105 m3/yr in the period of 1991 – 2007. Time lag between erosion
occurred in the Ishikawa coast and that occurred in the lower Tedori river was attributed to the
indirect effect of sand and gravel mining conducted in the reach of 0-7km upstream far from the
river mouth.
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 384 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ước tính tải lượng bùn cát của sông tedori cấp cho biển Ishikawa, Nhật Bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 59
BÀI BÁO KHOA H
C
ƯỚC TÍNH TẢI LƯỢNG BÙN CÁT CỦA SÔNG TEDORI
CẤP CHO BIỂN ISHIKAWA, NHẬT BẢN
Đặng Minh Hải1
Tóm tắt: Trong những thập kỷ gần đây, các hoạt động khai thác cát sỏi (KTC) và xây dựng đập
(XDĐ) trên sông Tedori đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới hình thái của sông và biển Ishikawa, Nhật
Bản. Trong bài báo này, dựa vào bộ số liệu về địa hình của đoạn hạ lưu sông Tedori trong 58 năm
và các hoạt động của con người trên đoạn sông đó, ước tính về diễn biến của tải lượng bùn cát từ
hạ lưu sông Tedori cấp cho biển Ishikawa đã được thực hiện. Kết quả cho thấy, các hoạt động nạo
vét lòng dẫn và KTC là nguyên nhân làm cho tải lượng bùn cát cấp cho biển Ishikawa giảm dần
trong các giai đoạn từ năm 1950 đến năm 1991. Tải lượng bùn cát đạt giá trị nhỏ nhất 0.72×105
m
3/năm trong giai đoạn 1972–1991. Trong giai đoạn 1991-2007, đập Tedorigawa được vận hành
(năm 1981) cùng với việc cấm hoàn toàn các hoạt động KTC (năm 1991) nên tải lượng bùn cát đã
khôi phục nhẹ tới trị số 1.02×105 m3/năm. Tác động gián tiếp của các hoạt động KTC trong giai
đoạn 0-7 km được coi là nguyên nhân gây nên hiện tượng xói bờ biển Ishikawa xảy ra sau so với
quá trình xói lòng dẫn của đoạn hạ lưu sông Tedori.
Từ khóa: Khai thác cát; xây dựng đập; sông Tedori; biển Ishikawa; xói
1. ĐẶT VẤN ĐỀ *
Trong những thập kỷ gần đây, hiện tượng xói
lở ngày càng gia tăng dọc theo bờ biển Nhật
Bản. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là
do các hoạt động của con người đã làm giảm
lượng bùn cát từ sông cấp cho biển. Để tìm
được giải pháp hợp lý quản lý bùn cát trong
sông và biển liền kề, việc ước tính tải lượng bùn
cát cấp cho biển từ các sông chịu ảnh hưởng bởi
các tác động của con người là hết sức cần thiết.
Các hoạt động của con người như nạo vét
sông, KTC và XDĐ đã làm gián đoạn đường
vận chuyển bùn cát từ sông tới biển. Syvitski &
nnk (2005) đã ước tính rằng các hồ chứa đã làm
giảm 1.4 × 109 tấn/năm bùn cát sông cấp cho
biển toàn cầu. Liu & nnk (2008) đã chỉ ra ảnh
hưởng các hoạt động của con người tới việc
giảm vận chuyển bùn cát trong 10 sông lớn ở
Trung Quốc. Trong một nghiên cứu về 169 sông
chảy ra biển Mediterranean, Poulos & nnk
(2002) đã tính toán rằng xây dựng đập đã giảm
35% cung cấp bùn cát so với trước đây. Rinaldi
& nnk ( 2005) cho rằng các hoạt động KTC trên
1
Trường Đại học Thuỷ lợi
sông cũng gây giảm lượng bùn cát từ sông chảy
về biển và gây xói bờ biển.
Ảnh hưởng của các hoạt động KTC và XDĐ
đến biến đổi hình thái của sông và biển liền kề ở
Nhật Bản đã được nghiên cứu ở một số lưu vực
sông biển của Nhật Bản. Sato & nnk (2004) đã
chỉ ra rằng việc xây dựng đập Takashiba trên
sông Samegawa và đập Shitoki trên sông
Shitoki cùng với các hoạt động KTC gần khu
vực cửa sông Samegawa đã gây xói bờ biển
Nakoso. Huang (2011) đã chỉ ra mối liên hệ
giữa xói bờ biển Enshunada và các hoạt động
XDĐ và KTC trên sông Tenryu.
Tương tự như các lưu vực sông-biển khác ở
Nhật Bản, trong những thập kỷ gần đây, các
hoạt động KTC và XDĐ trên sông Tedori đã
gây nên hiện tượng xói bờ biển Ishikawa. Đã có
một số nghiên cứu về mối liên hệ giữa các hoạt
động KTC và XDĐ đến biến đổi hình thái của
sông Tedori (Dang & nnk, 2014) và biến đổi
hình thái của biển Ishikawa (Yuhi, 2008). Tuy
nhiên, việc ước tính định lượng diễn biến của tải
lượng bùn cát từ sông Tedori cấp cho biển
Ishikawa vẫn chưa được thực hiện.
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 60
Trong bài báo này, dựa vào bộ số liệu về địa
hình của đoạn hạ lưu sông Tedori trong 58 năm
và số liệu về các hoạt động của con người trên
đoạn sông đó, tác giả đã ước tính diễn biến của
tải lượng bùn cát từ hạ lưu sông Tedori cấp cho
biển Ishikawa. Thêm vào đó, nguyên nhân về
việc trễ pha giữa quá trình xói bờ biển Ishikawa
và xói lòng dẫn đoạn hạ lưu sông Tedori cũng sẽ
được phân tích.
2. ĐẶC ĐIỂM VÙNG NGHIÊN CỨU
Sông Tedori bắt nguồn từ núi Hakusan (có
độ cao +2702 m trên mực nước biển) và đổ ra
biển Nhật Bản tại thị trấn Mikawa (hình 1).
Sông Tedori có diện tích lưu vực 809 km2 và
chiều dài 72 km. Ba chi lưu chính của sông
Tedori gồm sông Ushikubi, sông Dainichi và
sông Ozo. Đoạn hạ lưu của sông Tedori được đề
cập trong bài báo này bắt đầu cửa sông tới 16
km về phía thượng lưu (hạ lưu của đập
Tedorigawa). Sông Tedori là một trong số các
sông có độ dốc lớn ở Nhật Bản, độ dốc tương
ứng của toàn bộ sông và đoạn hạ lưu lần lượt là
0.037 và 0.0069. Chiều rộng của sông biến đổi
từ 150 m đến 420 m. Hình thái của sông Tedori
là sông phân lạch. Dựa vào sự đồng nhất về độ
dốc, chiều rộng và đường kính trung bình của
bùn cát đáy, toàn bộ đoạn hạ lưu sông Tedori
được chia thành 4 đoạn gồm: 0 – 2 km, 2 – 7
km, 7 – 13 km và 13 – 16 km.
Hình 1. Vị trí vùng nghiên cứu (a), sơ đồ lưu
vực nghiên cứu (b) và hình thái của biển
Ishikawa (c)
Vùng nghiên cứu đặc trưng bởi khí hậu gió
mùa được thổi từ biển Nhật Bản. Lượng mưa
trung bình của khu vực là 2600 mm/năm ở vùng
đồng bằng và từ 3300 đến 3600 mm/năm ở khu
vực miền núi.
Gần đây, sông Tedori bị ảnh hưởng bởi nhiều
tác động của con người như nạo vét lòng dẫn,
KTC, xây dựng các đập kiểm soát bùn cát và
XDĐ đa mục tiêu. Những hoạt động này đã làm
gián đoạn đường vận chuyển bùn cát từ sông ra
biển. Từ những năm 1910, gần 150 đập kiểm
soát bùn cát đã được xây dựng để kiểm soát và
giám sát dòng bùn cát tại các đoạn thượng lưu
của sông ở khu vực xung quanh núi Hakusan.
Lượng bùn cát bị giữ bởi các đập kiểm soát bùn
cát ước tính khoảng 9.2 × 106 m3 đến năm 1991.
Để nâng cao khả vận chuyển dòng chảy của
sông Tedori, các hoạt động nạo vét được thực
hiện trong đoạn 0-4.8 km từ năm 1949 đến năm
1963. Lượng bùn cát đáy được nạo vét khoảng
2.1× 106 m3. Đáng chú ý nhất là hoạt động KTC
diễn ra mạnh mẽ trong phạm vi từ cửa sông đến
15 km về phía thượng lưu. Trong giai đoạn
1962-1991, khoảng 7.8 × 106 m3 cát sỏi được
cấp phép khai thác. Tuy nhiên, thể tích cát sỏi
được khai thác thực tế lớn hơn nhiều so với trị
số được cấp phép. Điều này đã ảnh hưởng đáng
kể tới sự thay đổi lòng dẫn và quá trình vận
chuyển bùn cát trong sông. Thêm vào đó, đập
Tedorigawa bắt đầu vận hành năm 1981 và một
số đập khác vận hành trước đó đã giữ lại tất cả
tải lượng bùn cát đáy và một phần tải lượng bùn
cát lơ lửng từ chi lưu Ushikubi. Đến năm 2005,
tổng lượng bùn cát bị giữ lại ở đập Tedorigawa
là khoảng 8.2×106 m3. Như vậy, các hoạt động
của con người đã giảm một lượng lớn bùn cát
của hạ lưu sông Tedori và từ đó gây ra mất cân
bằng giữa việc cung cấp và vận chuyển bùn cát
trong lưu vực tổng hợp sông Tedori – biển
Ishikawa.
3. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1 Dữ liệu
Bộ dữ liệu sử dụng trong bài báo này được
cấp bởi Cục Phát triển vùng Hokuriku, thuộc Bộ
Đất đai, hạ tầng và giao thông Nhật Bản (sau
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 61
đây gọi là HRDB), gồm có:
• Số liệu về địa hình lòng dẫn của 81 mặt cắt
ngang sông (bố trí cách nhau 200 m dọc theo
đoạn 0-16 km) được điều tra trong 6 năm (1950,
1960, 1970, 1979, 1991 và 2007);
• Thể tích cát sỏi được cấp phép để khai
trên đoạn hạ lưu sông Tedori từ năm 1951 đến
năm 1991;
• Thể tích bùn cát được nạo vét từ năm 1949
đến năm 1963.
3.2 Tính toán sự thay đổi thể tích bùn cát đáy
Hình 2. Sơ đồ tính toán
Đoạn hạ lưu sông Tedori dài 16 km bao gồm
81 mặt cắt ngang đặt cách nhau 200 m. Chiều
rộng của mỗi mặt cắt ngang được giới hạn bởi 2
mốc cố định đặt trên bờ sông và được chia thành
50 đoạn bằng nhau bởi 51 điểm cố định. Tọa độ
và cao trình lòng dẫn tại các điểm cố định trên
các mặt cắt ngang được nội suy từ hai điểm gần
nhất. Thể tích bùn cát đáy của lòng dẫn một
đoạn sông ở năm thứ k được xác định như sau:
(1)
(2)
Trong đó:
: Thể tích bùn cát đáy của đoạn sông năm
thứ k (m3);
xij, yij, zij: Tọa độ và cao độ tại điểm thứ ij
(m); : Cao độ trung bình của ô lưới (m).
Biển đổi bùn cát lòng dẫn ∆Vk của năm thứ
k là sự thay đổi thể tích bùn cát lòng dẫn của
năm thứ k so với thể tích bùn cát lòng dẫn
năm 1950.
3.2 Tính toán tải lượng bùn cát của sông
Tedori cấp cho biển Ishikawa
Để tính toán tải lượng bùn cát của đoạn hạ
lưu sông Tedori cấp cho biển Ishikawa,
phương trình cân bằng bùn cát được thiết lập
như sau:
cssvr VdVQQ βρ −−−= )1( (3)
Trong đó:
vQ là tải lượng bùn cát đến từ thượng lưu.
Theo Dang & nnk (2013) thì vQ = 0.28×106
m3/năm (trước năm 1981) và vQ = 0.11×106
m3/năm (sau năm 1981).
dVs là tốc độ biến đổi thể tích bùn cát lòng
dẫn (m3/năm); dVs của mỗi giai đoạn được xác
định thông qua phân tích hồi quy phi tuyến
chuỗi các giá trị ∆Vk trong giai đoạn đó.
csV là thể tích cát sỏi được cấp phép khai
thác cho mục đích xây dựng và giao thông
thủy trong đoạn sông (m3/năm).
ρ là độ rỗng của lòng dẫn, ρ = 0.25.
β là hệ số kể đến độ rỗng của lòng dẫn và
lượng cát sỏi khai thác lớn hơn lượng được
cấp phép.
rQ là tải lượng bùn cát từ đoạn hạ lưu sông
Tedori cấp cho biển Ishikawa (m3/năm).
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Quá trình biến đổi lòng dẫn của
đoạn hạ lưu sông Tedrori
Cả 4 đoạn sông 0-2 km, 2-7 km, 7-13 km
và 13-16 km của đoạn hạ lưu sông Tedori đều
diễn quá trình xói lòng dẫn trong giai đoạn
1950-2007 (hình 3). Từ năm 1950 đến năm
1991, do ảnh hưởng của các hoạt động nạo vét
lòng dẫn và KTC (hình 5) nên quá trình xói
lòng dẫn diễn ra ở hầu hết các đoạn sông trong
các thời kỳ, ngoại trừ hiện tượng bồi lòng dẫn
xảy ra ở đoạn 0-2 km và 2-7 km từ năm 1972
đến năm 1979. Trong giai đoạn 1962-1972,
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 62
tốc độ xói lòng dẫn lớn nhất với trị số
3.35×105 m3/năm xảy ra ở đoạn 2-7 km, tiếp
đến là tốc độ xói 2.94×105 m3/năm được quan
sát trên đoạn 7-13 km (hình 4). Có thể
nguyên nhân của hiện tượng trên là do lượng
bùn cát với trị số 3.14×105 m3/năm và
1.73×105 m3/năm tương ứng được khai thác
trong đoạn 2-7 km và 7-13 km từ năm 1962
đến năm 1972 (hình 5). Mặc dù lượng cát sỏi
được khai thác trong đoạn 0-2 km và 2-7 km
trong giai đoạn 1972-1979 lớn hơn so với
lượng khai thác trong giai đoạn 1962-1972
nhưng hiện tượng bồi lòng dẫn lại xảy ra
trong thời kỳ này. Việc xảy ra 4 trận lũ lớn
hơn 2000 m3/s trong giai đoạn 1972-1979
được cho đã mang một lượng lớn bùn cát từ
thượng lưu về các đoạn sông hạ lưu 0-2 km
và 2-7 km và gây nên hiện tượng bồi lòng
dẫn như đã chỉ ra ở trên.
Ngược lại với khuynh hướng xói lòng dẫn
phổ biến trước năm 1991, trong giai đoạn
1991-2007, hiện tượng bồi lòng dẫn được
quan sát ở đoạn 0-7 km và 13-16 km và hiện
tượng xói nhẹ vẫn tiếp tục xảy ra ở đoạn 7-13
km. Sau năm 1991, KTC bị cấm hoàn toàn
trên sông Tedori nên hoạt động này không
còn ảnh hưởng trực tiếp tới diễn biến hình
thái của sông. Thay vào đó, tác động trực tiếp
và gián tiếp của quá trình vận hành đập
Tedorigawa (năm 1981) đã ảnh hưởng tới
diễn biến hình thái trên các đoạn sông của
đoạn hạ lưu sông Tedori. Trong giai đoạn
này, chỉ còn tải lượng bùn cát đáy từ sông
Ozo cấp cho đoạn hạ lưu sông Tedori. Việc
giảm lưu lượng đỉnh lũ do vận hành đập
Tedorigawa đã làm giảm khả năng vận
chuyển bùn cát và làm cho thực vật sông phát
triển mạnh. Khi thực vật sông phát triển sẽ
giảm ứng suất kéo của dòng chảy lũ và vì vậy
làm giảm khả năng vận chuyển bùn cát của
sông ra biển. Do đó, lượng bùn cát đáy cung
cấp từ sông Ozo phần lớn bị giữ lại ở đoạn hạ
lưu sông Tedori mà không vận chuyển hết ra
biển Ishikawa gây nên khuynh hướng bồi
lòng dẫn ở đoạn hạ lưu sông Tedori.
Hình 3. Diễn biến lòng dẫn ở các đoạn khác
nhau của hạ lưu sông Tedori (so sánh với lòng
dẫn năm 1950)
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 63
Hình 4. Tốc độ thay đổi thể tích bùn cát lòng
dẫn hạ lưu sông Tedori
Hình 5. Mức độ khai thác cát của các
giai đoạn khác nhau
4.2 Tải lượng bùn cát từ sông Tedori cấp
cho biển Ishikawa
Sông Tedori là nguồn chủ yếu cung cấp bùn
cát cho biển Ishikawa. Hình 6 mô tả diễn biến
của tải lượng bùn cát từ sông Tedori cấp cho
biển Ishikawa qua 5 giai đoạn khác nhau từ năm
1950 đến năm 2007. Kết quả cho thấy tải lượng
bùn cát cấp cho biển Ishikawa giảm đáng kể qua
các giai đoạn và đạt giá trị nhỏ nhất vào giai
đoạn 1972-1979 và 1979-1991 với tải lượng
0.72×105 m3/năm. Việc giảm 71% tải lượng bùn
cát từ sông đã gây nên hiện tượng thiếu hụt bùn
cát cung cấp cho biển Ishikawa. Hình 7 cho thấy
hiện tượng xói ở biển Ishikawa bắt đầu xảy ra từ
năm 1972 và diễn ra ngày càng nghiêm trọng
hơn sau khi đập Tedorigawa đi vào vận hành
(năm 1981). Quá trình xói ở biển Ishikawa diễn
ra sau 20 năm so với quá trình xói lòng dẫn ở
đoạn hạ lưu sông Tedori (xảy ra từ năm 1950).
Nguyên nhân gây ra thời gian trễ của quá
trình xói bờ biển so với quá trình xói lòng dẫn
ở hạ lưu sông Tedori có thể là do ảnh hưởng
gián tiếp của hoạt động KTC trên đoạn sông.
Trong giai đoạn 1950-1972, khi các hoạt động
KTC được thực hiện trên đoạn 0-7 km sẽ tạo
ra các hố khai thác trong lòng dẫn. Miệng các
hố khai thác sẽ là nơi độ dốc lòng dẫn của
sông thay đổi đột ngột. Khi lưu lượng dòng
chảy lớn (trong thời kỳ này xảy ra 4 trận lũ
lớn hơn 2500 m3/s - lưu lượng có thể mang
bùn cát ra biển) miệng hố khai thác sẽ bị xói
cục bộ làm cho phạm vi hố khai thác mở rộng
dần về phía thượng lưu và hạ lưu. Quá trình
mở rộng các hố khai thác cát đóng góp một
lượng đáng kể vào tải lượng bùn cát 2.49×105
m3/năm được dòng chảy mang đi cung cấp
cho biển Ishikawa. Hiện tượng hố khai thác
cát mở rộng về phía thượng lưu hàng km đã
được quan sát bởi (Scott, 1973). Đến giai đoạn
1972 -1979, không xảy ra trận lũ có lưu lượng
lớn hơn 2500 m3/s và các hoạt động khai thác
cát được kiểm soát chặt chẽ hơn nên lòng dẫn
của các đoạn sông 0-2 km và 2-7 km có
khuynh hướng bồi tụ (hình 3c). Điều đó có
nghĩa là lượng bùn cát sinh ra do xói lòng dẫn
ở các đoạn thượng lưu được giữ lại ở đoạn 0 -
7 km thay vì vận chuyển ra biển Ishikawa. Vì
vậy, tải lượng bùn cát mà sông Tedori cấp cho
biển Ishikawa chỉ còn 0.72×105 m3/năm trong
giai đoạn 1972-1979.
Hình 6. Tải lượng bùn cát từ sông Tedori cấp
cho biển Ishikawa
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 64
Hình 7. Diễn biến hình thái của biển
Ishikawa (Yuhi & nnk, 2009)
5. KẾT LUẬN
Hiểu rõ cơ chế ảnh hưởng của các hoạt động
trên sông đến diễn biến tải lượng bùn cát của nó
cung cấp cho biển liền kề có vai trò rất quan
trọng trong việc quản lý bền vững sông và biển.
Trong bài báo này, dựa vào bộ số liệu về địa
hình của đoạn hạ lưu sông Tedori trong 58 năm
và các hoạt động của con người trên đoạn sông
đó, diễn biến của tải lượng bùn cát từ hạ lưu
sông Tedori cấp cho biển Ishikawa trong mối
liên hệ với các hoạt động KTC và XDĐ đã được
làm sáng tỏ. Kết quả cho thấy các hoạt động
KTC là nguyên nhân làm cho tải lượng bùn cát
cấp cho biển Ishikawa giảm dần trong các giai
đoạn từ năm 1950 đến năm 1991. Tải lượng bùn
cát từ sông đạt giá trị nhỏ nhất 0.72×105 m3/năm
trong các giai đoạn 1972-1979 và 1979- 1991.
Từ năm 1991, các hoạt động KTC trên đoạn hạ
lưu sông Tedori bị cấm cùng việc vận hành đập
Tedorigawa (từ năm 1981) nên tải lượng bùn cát
cấp cho biển Ishikawa tăng nhẹ tới trị số
1.02×105 m3/năm. Tác động gián tiếp của các
hoạt động KTC trong giai đoạn 0-7 km được coi
là nguyên nhân gây nên hiện tượng xói bờ biển
Ishikawa xảy ra sau so với quá trình xói lòng
dẫn của đoạn hạ lưu sông Tedori.
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới
GS.Yuhi Masatoshi và PGS.Shynia Umeda của
Đại học Tổng hợp Kanazawa, Nhật Bản đã
hướng dẫn tác giả thực hiện một số công việc là
tiền đề để phát triển nội dung của bài báo này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Dang, M. H., Umeda, S., and Yuhi, M. (2014), “Long-term riverbed response of lower Tedori
River, Japan, to sediment extraction and dam construction”, Environmental Earth
Sciences,72(8), 2971–2983.
Dang, M. H., Yuhi, M., and Umeda, S. (2013), “Human impact on morphology and sediment
budget in the Tedori River , Japan”, Advances in River Sediment Research, 289–297.
Huang, G. (2011), “Time lag between reduction of sediment supply and coastal erosion”,
International Journal of Sediment Research, 26(1), 27-35.
Liu, C., Sui, J., and Wang, Z.-Y. (2008), “Sediment load reduction in Chinese rivers”, International
Journal of Sediment Research, 23(1), 44–55.
Poulos, S. E., and Collins, M. B. (2002), “Fluviatile sediment fluxes to the Mediterranean Sea: a
quantitative approach and the influence of dams”, Geological Society, London, Special
Publications, 191(1), 227 LP-245.
Rinaldi, M., Wyzga, B., and Surian, N. (2005), “Sediment mining in alluvial channels: Physical
effects and management perspectives”, River Research and Applications, 21(7), 805–828.
Sato, S., Kajimura, T., Abe, M., and Isobe, M. (2004), “Sand Movement and Long-Term Beach
Evolution in a Fluvial System Composed of the Samegawa River and the Nakoso Coast”, Coastal
Engineering Journal, 46(2), 219–241.
Scott, K. M. (1973), “Scour and Fill in Tujunga Wash - A Fanhead Valley in Urban Southern
California - 1969”, U.S. Geological Survey Professional Paper, 732(B), B1--B29.
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 62 (9/2018) 65
Syvitski, J. P. M., Vörösmarty, C. J., Kettner, A. J., and Green, P. (2005), “Impact of Humans on
the Flux of Terrestrial Sediment to the Global Coastal Ocean”, Science, 308(5720), 376 LP-380.
Yuhi, M. (2008), “Impact of Anthropogenic Modifications of a River Basin on Neighboring Coasts:
Case Study”, Journal of Waterway, Port, Coastal, and Ocean Engineering, 134(6), 336–344.
Yuhi, M., Umeda, S., and Hayakawa, K. (2009), “Regional analysis on the decadal variation of
sediment volume in an integrated watershed composed of the Tedori River and the Ishikawa
Coast, JAPAN”, Journal of Coastal Research, Vol.II, 1701-1705.
Abstract:
ESTIMATION OF SEDIMENT SUPPLY OF TEDORI RIVER
TO ISHIKAWA COAST, JAPAN
In recent decades, sand and gravel mining and dam constructions conducted in the Tedori River
have affected seriously morphology of both river and Ishikawa coast, Japan. This paper aims to
estimate temporal variation in sediment supply of the lower Tedori river to Ishikawa coast using a
dataset consisting of river topography and related human intervention over the period of 58 years.
The results indicate that dredging activity and sand and gravel mining induced a decrease in
sediment supply to the Ishikawa coast in the period of 1950 -1991. The sediment supply reached the
lowest value at 0.72×105 m3/yr during the period 1972 – 1991. Due to totally prohibited sand and
gravel mining in 1991 together with Tedorigawa dam operation in 1981, the sediment supply
slightly recovered to 1.02×105 m3/yr in the period of 1991 – 2007. Time lag between erosion
occurred in the Ishikawa coast and that occurred in the lower Tedori river was attributed to the
indirect effect of sand and gravel mining conducted in the reach of 0-7km upstream far from the
river mouth.
Keywords: Sand and gravel mining, dam constructions, Tedori river, Ishikawa coast, sediment
supply
Ngày nhận bài: 31/7/2018
Ngày chấp nhận đăng: 30/8/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- uoc_tinh_tai_luong_bun_cat_cua_song_tedori_cap_cho_bien_ishi.pdf