Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
STTT u vú luôn chiếm vị trí hàng đầu 44%
(435 trường hợp/ 997) bỏ xa các vị trí tiếp theo
đó là u giáp 19% (193/997); buồng trứng 12%
(119/997); hạch 6% (56/997). Kết quả này cũng
phù hợp với nghiên cứu của Đặng Thế Căn(1)
STTT ở vú cũng chiếm vị trí dẫn đầu với tỉ lệ
63% trong năm 1997. Theo Prey(7) STTT vú
cũng chiếm gần một nửa trong số 4057 trường
hợp STTT tại bệnh viện St. Louis (Mỹ). Trong
nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy STTT vú
chiếm gần 50% ở lứa tuổi 40-50 trong khi tỉ lệ
lại rất thấp ở lứa tuổi trẻ (<30) hoặc lứa tuổi
trên 60 (Bảng 1). Điều này phù hợp logic với
bệnh cảnh lâm sàng của u vú, tổn thương ở
lứa tuổi này rất khó khẳng định ngay là lành
hay ác tính, đặc biệt khi u rất nhỏ, tổn thương
không rõ hoặc tổn thương không sờ thấy.
Chẩn đoán tế bào (CĐTB) trước mổ có
nhiều ưu điểm nhưng trong nghiên cứu của
chúng tôi có đến 179 trường hợp (41%) là có
DTG, ATG hoặc CĐTB không thể khẳng định
mà STTT lại khẳng định được phần lớn nhược
điểm này (Bảng 2). Nghiên cứu của Karve(6) tỉ
lệ này là 51% trong tổng số 237 trường hợp.
Kết quả này chứng tỏ rằng, CĐTB còn có tỉ lệ
ATG và DTG cao, và rất cần thiết có chỉ định
STTT khi CĐTB không thể kết luận (22,5%)
được khi có ít tế bào và u có độ ác tính thấp.
Nhận xét đại thể tổn thương là bước đầu
tiên của STTT, nó rất quan trọng vì chỉ khi
nhận định tổn thương đúng thì mới có thể
chọn lát cắt mô phù hợp để soi kính hiển vi.
Chúng tôi nhận thấy có tới 86% (148+230 / 435)
nhận định tổn thương đại thể phù hợp với kết
quả cuối cùng của mô học (Bảng 3). Theo
Fuerth (dẫn theo 3), quan sát đại thể tốt tổn
thương có thể đánh giá tới 70% tổn thương
hoặc hơn, tác giả còn khẳng định khâu đọc
kính hiển vi không phải là phần khó nhất mà
nhận định đại thể một cách thích hợp và chính
xác là quan trọng hơn.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi thấy có
10 trường hợp STTT có âm tính giả chiếm
2,29%, 1 trường hợp dương tính giả chiếm 0,23
% và có tới 11 trường hợp STTT cũng không
thể trả lời ngay kết quả trong mổ mà phải đợi
kết quả mô học thường qui (Bảng 4). Trong y
văn thế giới rất nhiều nghiên cứu cho thấy tỉ lệ
DTG là từ 0 đến 0,79% và tỉ lệ ATG dao động
từ 0,23 đến 3,57% (Bảng 6). Kết quả của chúng
tôi đã nằm trong khỏang dao động trên và đặc
biệt kết quả này so với kết quả của Đ.T. Căn
thì khá trùng nhau khi nghiên cứu xảy ra tại
cùng một phòng xét nghiệm với hai thời điểm
khác nhau. Độ chính xác của STTT trong
nghiên cứu của chúng tôi là 97,4% cũng nằm
trong biên độ của gần chục nghiên cứu khác
trên thế giới cho thấy từ 95,84 đến 99,8%(5).
Bảng 5 cho thấy có sự khác biệt rất rõ khi
so sánh tỉ lệ % của một số típ mô học có độ ác
tính thấp và mức độ tế bào có ít giữa nhóm
STTT và nhóm có kết quả mô học chung. Với
các típ mô học là ung thư tại chỗ, ung thư thể
tiểu thùy, ung thư thể nội ống, ung thư thể
nhú. tỉ lệ gặp khá cao trong nhóm STTT. Đây
chính là những tip mô học mà trên lâm sàng
và CĐTB gặp rất nhiều khó khăn. Nhận định
này có thể khuyến cáo các thầy thuốc lâm sàng
và các nhà TBH luôn phải lưu ý các thể mô
học này và chẩn đoán STTT có thể hữu ích
trong những trường hợp đó.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 171 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò chẩn đoán sinh thiết tức thì trong mổ các u vú tại bệnh viện K Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VAI TRÒ CHẨN ĐOÁN SINH THIẾT TỨC THÌ TRONG MỔ
CÁC U VÚ TẠI BỆNH VIỆN K HÀ NỘI
Lê Quang Hải *
TÓM TẮT
Mục đích: Xác định tính chính xác, tỉ lệ âm tính giả, dương tính giả của phương pháp cắt lạnh cho các
u vú, đối chiếu kết quả của cắt lạnh với cắt thường, từ đó phân tích, tìm nguyên nhân của những ca không
tương hợp.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên số mẫu 435 bệnh nhân có u vú được cắt lạnh,
sau đó được đối chiếu với kết quả cắt thường.
Kết quả: Gồm 190 ca u ác tính, 245 ca u lành tính. Độ chính xác 97,4%, tỉ lệ âm tính giả 2,29%,
dương tính giả 0,23%.
Kết luận: Phương pháp cắt lạnh có vai trò quan trọng trong chẩn đoán các u vú do sự chính xác,
nhanh chóng, đặc biệt trong những trường hợp có chẩn đóan tế bào khó khăn (nhất là ung thư độ thấp, hoặc
phết ít tế bào).
ABSTRACT
ROLE OF FROZEN SECTION IN BREAST LUMPS AT K HOSPITAL- HANOI
Le Quang Hai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 3 - 2007: 118 – 122
Context: Frozen section is an invaluable intra- operative tool for evaluation of breast lumps.
Aims: The aim of this study was to (1) calculate the overall accuracy, false positivity, false negativity
for frozen section of breast lumps, (2) analyse the causes of discrepancies, and (3) compare the data with that
of published literature on frozen section of breast lumps.
Methods: Four hundred and thirty five cases received for frozen section in 2004 were analyzed.
Pathology reports and slides (of both frozen section and paraffin sections) were reviewed. The values were
calculated using paraffin slides as the gold standard.
Results: The 435 lesions received for diagnosis comprised 190 malignant and 245 benign lesions. The false
negativity rate was 2,29, false positive rate 0,23, overall accuracy rate was 97,4% and referral rate 2,5%.
Conclusion: Frozen section has a role despite the raging papularity of aspiration cytology in the
following setting: low cytologic grade and the aspirate is acellular.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư vú là bệnh có tỉ lệ mắc nhất ở phụ
nữ nhiều nước trên thế giới. Đến năm 2000
trên thế giới đã có 1 triệu ca mới mắc hàng
năm. ở Mỹ, nếu trong năm 1987 chỉ có 180.000
trường hợp mới mắc hàng năm thì đến năm
2004 đã có tới 217.000 trường hợp mới mắc
hàng năm trong đó có tới 40.000 trường hợp
bệnh nhân đang ở giai đọan cuối. ở Việt nam
theo thống kê của bệnh viện K, tỉ lệ ung thư
vú chiếm vị trí hàng đầu trong số các ung thư
ở nữ (24,8/100.000).
Để cải thiện tình trạng trên, có rất nhiều
phương pháp chẩn đoán khác nhau như chụp
vú, chẩn đóan tế bào học...được ứng dụng
rộng rãi và các phương pháp này ngày càng tỏ
ra rất có ích, nhưng nó cũng tồn tại những
nhược điểm cần khắc phục. Chẩn đoán tế bào
bằng chọc hút kim nhỏ luôn được biết đến là
phương pháp chẩn đoán trước mổ có hiệu quả
* Khoa Giải phẫu bệnh-tế bào BV K – Hà Nội
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh – Tế Bào Bệnh Học 119
cao, thời gian chẩn đóan nhanh, giá thành rẻ
và hầu như không có biến chứng. Nhưng chẩn
đóan tế bào học còn có những nhược điểm là tỉ
lệ âm tính giả và tỉ lệ dương tính giả còn cao.
Để hạn chế những thiếu sót của chẩn đóan
tế bào, sinh thiết tức thì trong mổ là cần thiết
để giúp phẫu thuật viên có chiến lược điều trị
sớm và triệt để cho người bệnh.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu tất cả các
trường hợp STTT vú trong mổ của năm 2004
với mục đích:
- Xác định giá trị của STTT qua các thông
số: độ chính xác, tỉ lệ dương tính giả và âm
tính giả.
- Phân tích các nguyên nhân của sự khác biệt.
- So sánh số liệu thu thập được với thông
số đã được công bố trong và ngoài nước.
PHƢƠNG PHÁP - ĐốI TƢợNG NGHIÊN CứU
- Nghiên cứu hồi cứu tất cả các trường hợp
đã làm STTT trong năm 2004 tại bệnh viện K,
Hà nội: 435 trường hợp.
- Tất cả các số liệu được xử l í bằng thuật
toán thống kê.
- Tất cả các thông tin lâm sàng: chẩn đóan
lâm sàng, chẩn đoán TBH, kết quả chụp
vú.....đều được cập nhật đầy đủ cho từng
trường hợp khi bệnh phẩm được đưa đến
khoa giải phẫu bệnh.
Tất cả các mẫu bệnh phẩm đều được nhận
xét đại thể rất chi tiết: kích cỡ, hình dáng, bờ
xung quanh, mật độ, màu sắc, hoại tử, chảy
máu, vùng tổn thương nang, chất nhày...
Bệnh phẩm từ vùng tổn thương sẽ được
cắt theo kích thước 1cm x 1cm x 0,3 cm, lát cắt
này được phủ dung dịch cố định, đưa vào
máy cắt lạnh được đặt nhiệt độ khỏang -25 độ.
(Máy cắt lạnh: Cryotome AS 620).
Sau khi lát cắt đạt độ cứng dưới tác dụng
của nhiệt độ lạnh, tiến hành cắt thành các tiêu
bản có độ dày khỏng 3 đến 5 micron.
Nhuộm đồng thời bằng xanh Toludin và HE,
gắn label và đọc dưới kính hiển vi quang học.
Lát bệnh phẩm được đưa khỏi máy cắt để ở
nhiệt độ phòng, sau quá trình tan đông tiếp tục
được ngâm trong dung dịch foocmôn để chuẩn
bị cho việc chuyển đúc thông thường và được
làm thành các tiêu bản mô học thường qui.
- Các kết quả STTT đều được so sánh, đối
chiếu với kết quả mô học, được coi là tiêu
chuẩn vàng.
- Các kết quả STTT được ghi nhận và phân loại:
+ Đại thể nghĩ đến tổn thương lành: Mật
độ mềm, diện cắt dai chắc, tổn thương có vỏ,
ranh giới rõ với mô xung quanh, thường có
màu trắng, có thể thấy tổn thương nang...
+ Đại thể nghĩ đến ác tính: Mật độ cứng,
diện cắt cứng chắc, bờ tổn thương không rõ,
xâm lấn vùng mô lành, thường có màu hồng
đậm, màu vàng, có thể thấy hoại tử, chảy máu,
chất nhày.
+ Kết quả vi thể: xơ nang, u xơ, tổn thương
viêm, các tổn thương lành khác(quá sản biểu
mô lành tính, hoại tử mỡ, u nang, u phylloid)
và ung thư biểu mô (có thể phân t íp mô học).
Các thuật ngữ để đánh giá độ chính xác
của phương pháp STTT:
+ Âm tính thật (ATT): STTT chẩn đoán
lành tính và kết quả mô học cũng là lành tính.
+ Dương tính thật (DTT): STTT chẩn đoán
ác tính và kết quả mô học cũng là ác tính.
+ Dương tính giả (DTG): STTT chẩn đoán
ác tính nhưng kết quả mô học là lành tính.
+ Âm tính giả (ATG): STTT chẩn đoán lành
tính nhưng kết quả mô học là ác tính.
Độ chính xác = (DTT + ATT) / (DTT + ATT
+ DTG + ATG) x 100%
Giá trị dự báo dương tính = DTT / (DTT +
DTG) x 100%.
Độ nhạy = DTT / (DTT +ATG) x 100%.
Độ đặc hiệu = ATT / (ATT + DTG) x 100%.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tỉ lệ STTT theo lứa tuổi
Bảng 1:
Tuổi Số bệnh nhân Tỉ lệ %
20-30 18 4,1
30-40 85 19,5
40-50 207 47,6
50-60 106 24,4
60-70 16 3,7
70-80 3 0,7
Tổng số 435 100
Chẩn đóan TBH trong nhóm bệnh nhân
STTT
Bảng 2
Chẩn đóan TBH Số bệnh nhân Tỉ lệ %
DTT 102 23,5
ATT 154 35,5
DTG 9 2
ATG 72 16,5
Nghi ngờ (yêu cầu STTT) 98 22,5
Tổng số 435 100
Kết quả nhận xét tổn thƣơng trên đại thể
Bảng 3
Kết quả chẩn đóan Đại thể STTT Mô học
ác tính 148 175 190
Lành 230 238 245
Chẩn đóan sai + 3 1 0
Chẩn đóan sai - 13 10 0
Không rõ 41 11 0
Tổng số 435 435 435
Kết quả chẩn đóan STTT so với mô học
Bảng 4
STTT
Mô học
Âm tính Dương tính
Âm tính 238 1 239
Dương tính 10 175 185
248 176 424
+ Số trường hợp STTT trì hoãn (đợi kết quả
mô học) = 435-424= 11 (kết quả mô học cuối
cùng: 5 ung thư và 6 lành tính).
+ Trong 10 trường hợp ATG của STTT có
kết quả mô học: 2 K tại chỗ, 4 K thể nội ống, 3
K thể ống xâm lấn độ ác tính thấp – G1, 1 K
thể ống xâm lấn).
+ Trong hai trường hợp DTG của STTT có
kết quả mô học: 1 u nhú nội ống.
+ Tỉ lệ ATG = 10/ 435 x100 = 2,29 % và tỉ lệ
DTG = 1/435 x 100 = 0,23%
+ Giá trị dự báo dương tính = 175/ (175 +1)
x 100 = 99,4%.
+ Độ nhạy = 175 / (175 + 10) x100 = 94,6%.
+ Độ đặc hiệu = 238 / (238 + 1) x 100 = 99,6%.
+ Độ chính xác = (238 +175)/(288+175+1+10)
x100 = 97,4%
Kết quả típ mô học của nhóm STTT so với
kết quả mô học chung
Bảng 5
Típ mô học Nhóm STTT Nhóm mô học chung
Số trường
hợp
Tỉ lệ % Số trường
hợp
Tỉ lệ %
K thể ống 137 72,5 746 85,8
K thể tiểu
thùy
11 5,8 27 3,1
K thể nhú 8 4,3 13 1,5
K thể nhày 5 2,6 28 3,3
K thể nội
ống
12 6,4 36 4,1
K tủy 3 1,6 11 1,3
K tế bào vảy 5 2,6 6 0,6
K tại chỗ 3 1,6 3 0,3
Trì hoãn 5 2,6 0 0
Tổng số 189 100 870 100
So sánh tỉ lệ âm tính giả và dƣơng tính giả
của nghiên cứu này với y văn thế giới
Bảng 6
Tác giả và năm nc Nơi nghiên
cứu
Số ca
STTT
Tỉ lệ
DTG
Tỉ lệ ATG
Simmonetta (1994) ý 672 3(0,44) 24(3,57)
Tinnemans (1987) Hàlan 253 2(0,79) 7(0,76)
Fesial (1987) í 4436 0(0) 74(1,66)
Eskelinenal (1988) Phần lan 371 1(0,26) 4(1,07)
Nakazawa (1987) Hoa kỳ 677 1(0,14) 4(0,59)
Lessel (1987) Scốtlen 2197 1(0,04) 13(0,59)
Holaday (1987) Hoa Kỳ 1616 1(0,06) 8(0,49)
Agnantis (1987) Hylạp 3451 1(0,02) 8(0,23)
Karve (2005) ấn độ 237 0(0) 1(0,42)
D T Căn (1999) Bệnh viện K 408 0(0) 10(2,45)
Nghiên cứu hiện tại Bệnh viện K 435 1(0,23) 10(2,30)
BÀN LUẬN
- Ung thư vú là loại u ác tính chiếm nhiều
nhất của nữ giới ở miền bắc Việt nam, STTT là
phương pháp chẩn đóan trong mổ được xử
dụng từ rất lâu (bắt đầu từ năm 1891) cho các
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh – Tế Bào Bệnh Học 121
trường hợp khó của các phương pháp chẩn
đóan trước mổ cho rất nhiều loại u, đặc biệt là u
vú. Từ đó đến nay, STTT u vú vẫn là phương
pháp chẩn đóan trong mổ phổ biến và có giá trị.
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
STTT u vú luôn chiếm vị trí hàng đầu 44%
(435 trường hợp/ 997) bỏ xa các vị trí tiếp theo
đó là u giáp 19% (193/997); buồng trứng 12%
(119/997); hạch 6% (56/997). Kết quả này cũng
phù hợp với nghiên cứu của Đặng Thế Căn(1)
STTT ở vú cũng chiếm vị trí dẫn đầu với tỉ lệ
63% trong năm 1997. Theo Prey(7) STTT vú
cũng chiếm gần một nửa trong số 4057 trường
hợp STTT tại bệnh viện St. Louis (Mỹ). Trong
nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy STTT vú
chiếm gần 50% ở lứa tuổi 40-50 trong khi tỉ lệ
lại rất thấp ở lứa tuổi trẻ (<30) hoặc lứa tuổi
trên 60 (Bảng 1). Điều này phù hợp logic với
bệnh cảnh lâm sàng của u vú, tổn thương ở
lứa tuổi này rất khó khẳng định ngay là lành
hay ác tính, đặc biệt khi u rất nhỏ, tổn thương
không rõ hoặc tổn thương không sờ thấy.
Chẩn đoán tế bào (CĐTB) trước mổ có
nhiều ưu điểm nhưng trong nghiên cứu của
chúng tôi có đến 179 trường hợp (41%) là có
DTG, ATG hoặc CĐTB không thể khẳng định
mà STTT lại khẳng định được phần lớn nhược
điểm này (Bảng 2). Nghiên cứu của Karve(6) tỉ
lệ này là 51% trong tổng số 237 trường hợp.
Kết quả này chứng tỏ rằng, CĐTB còn có tỉ lệ
ATG và DTG cao, và rất cần thiết có chỉ định
STTT khi CĐTB không thể kết luận (22,5%)
được khi có ít tế bào và u có độ ác tính thấp.
Nhận xét đại thể tổn thương là bước đầu
tiên của STTT, nó rất quan trọng vì chỉ khi
nhận định tổn thương đúng thì mới có thể
chọn lát cắt mô phù hợp để soi kính hiển vi.
Chúng tôi nhận thấy có tới 86% (148+230 / 435)
nhận định tổn thương đại thể phù hợp với kết
quả cuối cùng của mô học (Bảng 3). Theo
Fuerth (dẫn theo 3), quan sát đại thể tốt tổn
thương có thể đánh giá tới 70% tổn thương
hoặc hơn, tác giả còn khẳng định khâu đọc
kính hiển vi không phải là phần khó nhất mà
nhận định đại thể một cách thích hợp và chính
xác là quan trọng hơn.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi thấy có
10 trường hợp STTT có âm tính giả chiếm
2,29%, 1 trường hợp dương tính giả chiếm 0,23
% và có tới 11 trường hợp STTT cũng không
thể trả lời ngay kết quả trong mổ mà phải đợi
kết quả mô học thường qui (Bảng 4). Trong y
văn thế giới rất nhiều nghiên cứu cho thấy tỉ lệ
DTG là từ 0 đến 0,79% và tỉ lệ ATG dao động
từ 0,23 đến 3,57% (Bảng 6). Kết quả của chúng
tôi đã nằm trong khỏang dao động trên và đặc
biệt kết quả này so với kết quả của Đ.T. Căn
thì khá trùng nhau khi nghiên cứu xảy ra tại
cùng một phòng xét nghiệm với hai thời điểm
khác nhau. Độ chính xác của STTT trong
nghiên cứu của chúng tôi là 97,4% cũng nằm
trong biên độ của gần chục nghiên cứu khác
trên thế giới cho thấy từ 95,84 đến 99,8%(5).
Bảng 5 cho thấy có sự khác biệt rất rõ khi
so sánh tỉ lệ % của một số típ mô học có độ ác
tính thấp và mức độ tế bào có ít giữa nhóm
STTT và nhóm có kết quả mô học chung. Với
các típ mô học là ung thư tại chỗ, ung thư thể
tiểu thùy, ung thư thể nội ống, ung thư thể
nhú... tỉ lệ gặp khá cao trong nhóm STTT. Đây
chính là những tip mô học mà trên lâm sàng
và CĐTB gặp rất nhiều khó khăn. Nhận định
này có thể khuyến cáo các thầy thuốc lâm sàng
và các nhà TBH luôn phải lưu ý các thể mô
học này và chẩn đoán STTT có thể hữu ích
trong những trường hợp đó.
KẾT LUẬN
Chẩn đóan STTT trong mổ là phương pháp
chẩn đoán nhanh, độ chính xác cao và có vai
trò quan trọng, đặc biệt trong những trường
hợp CĐTB gặp khó khăn như típ mô học có độ
ác tính thấp và ít tế bào.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Thế Căn, Hòang xuân Kháng, Giang Ngọc Hùng:
Giá trị của chẩn đoán sinh thiết tức thì: Nghiên cứu trên
757 trường hợp tại bệnh viện K Hà nội. Tạp chí thông tin
y dược, số Đặc biệt chuyên đề ung thư. 201-203; 11-1999.
2. Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Xuân, Nguyễn Sào Trung:
Phương pháp cắt lạnh và phương pháp cắt ấm. Y học
thành phố Hồ Chí Minh, tr 47; 9-1997.
3. Eskelinen M, CollanY, PuittinenJ: Frozen section diagnosis
of breast cancer. Acta Oncol, 1989;28(2):183-6.
4. Esteban JM, Zaloudek C, Silverberg SG: Intraoperative
dianosis of breast lesions. Comparition of cytologic with
frozen section technics. Am J Clin Pathol. 1987 Dec; 88(6):
681-8.
5. Gephardt GN, Zarbo RJ: Interinstitutional comparition of
frozen section consultations. A college of American
Pathologists Q- Probes study of 90,538 cases in 461
institutions. Arch Patho Lab Med. 1996 Sep; 120(9): 804-9.
6. Karve PV, Jambheekar NA, Desai SS, Chinoy RF: Role of
frozen section in patients with breast lumps: A study of
251 cases. Indian Journal of surgery. Volum:67; issue:5;
Pages;248-252. Year:2005.
7. Prey MU, Vitale T, Martin SA: Guidelines for pratical
utilization of intraoperative frozen sections. Arch
Surg.1989 Mar; 124(3): 331-5.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_chan_doan_sinh_thiet_tuc_thi_trong_mo_cac_u_vu_tai_b.pdf