Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước với sự phát triển xã hội chủ nghĩa của Việt Nam Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát mà nước ta lựa chọn trong thời kỳ đổi mới. Nó vừa mang tính chất chung của kinh tế thị trường, vừa có những đặc thù, được quyết định bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đây là sự vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm trong nước và thế giới về phát triển kinh tế thị trường, là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng trong quá trình lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước. Đảng ta đã xác định một cách nhất quán kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Vì vậy, việc xác định một cách rõ ràng và nhất quán vị trí, vai trò của kinh tế nhà nước trong quá trình hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế đất nước định hướng Xã hội Chủ Nghĩa là rất cần thiết.
Ở nước ta, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là xuất phát từ lợi ích của đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là cơ sở để xem xét sự quá trình đi lên xã hội chủ nghĩa của nước ta đã đúng hướng hay chưa. Kinh tế nhà nước càng phát huy tốt vai trò chủ đạo bao nhiêu thì kinh tế - xã hội sẽ phát triển nhanh bấy nhiêu, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
*** Nội dung chính của bài làm bao gồm ba phần :
Phần 1 : Lý thuyết chung
Phần 2 : Vai trò kinh tế nhà nước và thực trạng vai trò kinh tế nhà nước ở Việt Nam
Phần 3 : Phương hướng cải cách nhằm phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa .
17 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1944 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước với sự phát triển xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hược điểm :
Do tính tự phát vốn có kinh tế thị trường không chỉ đem lại sự tiến bộ cho nền kinh tế mà còn đem lại cả những suy thoái và gây ra tình trạng thất nghiệp lạm phát, tình trạng tập trung hóa cao độ sinh ra độc quyền, thủ tiêu cạnh tranh là giảm hiệu quả chung và tính tự điều tiết của nền kinh tế
Cơ chế phân bổ tài nguyên không hoàn toàn hiệu quả dẫn tới cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường.
Xã hội phát sinh tiêu cực: sự bất bình đẳng, sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt dẫn tới tệ nạn xã hội, các nhà kinh doanh dùng mọi thủ đoạn trốn thuế, buôn hàng giả, hàng nhái, lừa đảo … để thu lợi nhuận tối đa.
- Mục tiêu của kinh tế thi trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa :
+ Các chủ thể trong nền kinh tế có tính độc lập (có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lỗ lãi tự chịu).
+ Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo.
+ Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh .
+ Có hệ thống pháp luật kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
b, Kinh tế nhà nước :
- Khái niệm :
Kinh tế Nhà nước bao gồm không chỉ các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước mà còn có cả một số lĩnh vực khác như tài nguyên quốc doanh (do doanh nghiệp Nhà nước sử dụng) ngân sách Nhà nước và dự trữ quốc gia….
- Mục tiêu : làm cho dân giàu nước mạnh, nền kinh tế tăng trưởng phát triển một cách ổn định trong điều kiện công bằng xã hội và hiệu quả kinh tế của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nhằm thống nhất các lợi ích khác nhau về cùng một lợi ích để mỗi cá nhân khi theo đuổi lợi ích riêng mình cũng đều là đóng góp vào lợi ích chung cuả toàn dân tộc
- Các thành phần của kinh tế nhà nước :
+ Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và các doanh nghiệp hoạt động công ích
+ Các doanh nghiệp cổ phần nhà nước
+ Các doanh nghiệp nhà nước góp vốn
+ Các tổ chức sự nghiệp hoạt động kinh tế của nhà nước
2 Vai trò kinh tế nhà nước :
2.1 Tính tất yếu của vai trò chủ đạo Kinh tế nhà nước :
Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) chỉ rõ: vai trò chủ đạo của khu vực doanh nghiệp Nhà nước “thể hiện ở chỗ mở đường và hỗ trợ cho các thành phần khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của nền kinh tế, là một công cụ có sức mạnh vật chất của Nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Văn kiện Đại hội VIII (1996) nêu cụ thể: “tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế Nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”.
Văn kiện Đại hội IX (2001) lại nêu: kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật”.
Văn kiện Đại hội X (2006) một lần nữa khẳng định: “kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển”.
Nhìn tổng quát từ sau Đại hội VII đến nay, quan niệm của Đảng ta về kinh tế Nhà nước và về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta đã có sự phát triển đáng kể. Hai điểm nổi bật nhất là:
Một, do có sự phân biệt giữa sở hữu Nhà nước với hình thức doanh nghiệp Nhà nước và cũng do có sự phân biệt giữa quyền chủ sở hữu với quyền kinh doanh trong doanh nghiệp Nhà nước mà chúng ta đã chuyển từ khái niệm kinh tế quốc doanh sang khái niệm kinh tế Nhà nước.
Hai, để tránh sự lẫn lộn trong nhận thức giữa vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước với vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước, pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế nước ta, Đảng ta đã khẳng định rõ ràng rằng thành phần kinh tế Nhà nước không lãnh đạo các thành phần kinh tế khác mà “là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển”.
Vậy kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta sở dĩ thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo bởi vì những lý do chính sau:
Thứ nhất, chúng ta đều biết “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế ”. Nền chính trị của Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo với mục tiêu dưa nước ta tiến lên CNXH, thực hiện “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Thành phần kinh tế nhà nước của nước ta mà trước hết là các doanh nghiệp Nhà nước cũng phải phục vụ cho nhiệm vụ này.
Trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta do hạn chế của trình độ lực lượng sản xuất phát triển còn thấp, các quan hệ sở hữu còn tồn tại dưới nhiều hình thức, do đó nền kinh tế nước ta ở giai đoạn này là một nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Tuy vây, cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo. Bên cạnh những ưu điểm to lớn của nó mà không ai có thể phủ nhận thì nó cũng tồn tại những khuyết tật như: gây ra sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội, khủng hoảng kinh tế, các tệ nạn xã hội vv… điều đó đòi hỏi cơ chế thị trường phải có bàn tay quản lý, điều tiết của Nhà nước. Và công cụ hữu hiệu nhất mà thông qua nó nhà nước thể hiện vai trò điều tiết của mình đó là thành phân kinh tế nhà nước. Chỉ có kinh tế nhà nước mới có thể bảo đảm vững chắc định hướng XHCN, đảm bảo cho lợi ích của người lao động, khắc phục những tiêu cực, khuyết tật và hạn chế của cơ chế thị trường, phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng là động lực thúc đẩy phát triển và tăng trưởng kinh tế, gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công băng xã hội. Vai trò đó của kinh tế nhà nước đã được chứng minh qua thưc tiễn phát triển kinh tế và ổn định xã hội ở nước ta sau đổi mới đến nay
Thứ hai là kinh tế nhà nước luôn nắm giữ những vị trí then chốt, trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân do đó chỉ có kinh tế nhà nước mới có khả năng chi phối, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, đảm bảo được các mục tiêu phát triển KT-XH, thực hiện CNH-HĐH trong điều kiện thị trường vẫn chưa hoàn thiện, người dân có thu nhập thấp, tích luỹ không đủ tạo nguồn đầu tư cơ bản, kinh tế tư nhân còn nhỏ bé thì DNNN có vai trò huy động vốn đầu tư xây dựng những công trình lớn, hiện đại. Mặt khác với sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng tốt để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh và bền vững. Nhưng thường thì những ngành này đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm hoặc có lãi suất thấp như các ngành: giao thông vận tải, giáo dục, y tế, năng lượng vv…Để thực hiện được điều đó đòi hỏi Nhà nước phải đầu tư trực tiếp vào các lĩnh vực này nhằm củng cố thêm nội lực cho thành phần KTNN để đạt được các mục đích: dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển một cách toàn diện, vững chắc, chống khủng hoảng kinh tế, ngăn ngừa những đột biến xấu trong nền kinh tế. Ngoài ra DNNN là lực lượng vật chất chủ lực để nhà nước can thiệp, bình ổn thị trường, hạn chế ảnh hưởng xấu của ngành nghề độc quyền tự nhiên có tác hại lớn cho nền kinh tế.
Thứ ba, trong xu thế toàn cầu hoá hội nhập kinh tế quốc tế, đất nước ta mới bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân.. Việc tiếp nhận, chuyển giao công nghệ phụ thuộc vào năng lực tiếp thu và khả năng nội sinh hóa công nghệ nhập khẩu. Tiềm lực khoa học và công nghệ của ta yếu kém nên chúng ta thường gặp phải những khó khăn, rủi ro hơn trong việc thực thi các hợp đồng chuyển giao công nghệ cũng như các dự án góp vốn đầu tư hoặc nhập khẩu các dây chuyền thiết bị đồng bộ. Nếu hoàn cảnh này kéo dài, các đối tác nước ngoài có thể lợi dụng ưu thế của họ để khống chế các đối tác nội địa. Chính vì vậy, nếu không có một khu vực kinh tế nhà nước đủ mạnh thì Nhà nước không thể hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác vươn lên trong cuộc hợp tác và cạnh tranh với các đối tác nước ngoài.
Từ những lý do trên ta có thể khẳng định KTNN có vai trò chủ đạo và sự tồn tại của KTNN là một tất yếu khách quan và chỉ có phát huy vai trò chủ đạo của KTNN thì chúng ta mới có một nền kinh tế độc lập tự chủ.
2.2 Vai trò của kinh tế nhà nước :
Như chúng ta đã biết vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tất yếu khách quan và trong thời kỳ quá độ hiên nay vai trò ấy lại được thể hiên sâu sắc và cấp thiết hơn bao giờ hết.
Ngày 10/3/2010, tại buổi làm việc với đại diện các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà nước, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đánh giá “Các tập đoàn, Tổng công ty nhà nước là lực lượng giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế, là công cụ vật chất để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô”
2.2.1 Vai trò của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần :
Đối với kinh tế quốc doanh, nhận thức về vị trí của khu vực kinh tế này được điều chỉnh từng bước trong tiến trình đổi mới. Đại hội VI (12-1986) gắn vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh với việc “chiếm tỷ trọng lớn cả trong sản xuất và lưu thông Hội nghị Trung ương 6 khoá VI (3-1989) vẫn đặt quốc doanh vào vị trí chủ đạo, nhưng “không nhất thiết chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành, nghề. Vào đầu thập kỷ 90 (thế kỷ trước), kinh tế quốc doanh đang nắm vai trò chi phối nền kinh tế với 12 nghìn xí nghiệp (toàn bộ vốn đều thuộc Nhà nước), chiếm tỷ trọng lớn và giữ những vị trí then chốt trong các ngành phi nông nghiep.. Cương lĩnh 1993 chỉ nêu gọn “Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Chiến lược 1994 nói rõ hơn : “Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, nắm những doanh nghiệp trọng yếu và đảm đương những hoạt động mà các thành phần khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư kinh doanh... Những cơ sở không cần giữ hình thức quốc doanh thì Nhà nước chuyển hình thức kinh doanh, hình thức sở hữu hoặc giải thể, đồng thời có chính sách giải quyết việc làm và đời sống cho người lao động Quan điểm này một mặt tạo tiền đề cho sự phát triển khu vực kinh tế ngoài nhà nước, nhất là kinh tế tư nhân; mặt khác, không coi vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh là điều mặc nhiên mà phải gắn với việc “sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Các xí nghiệp quốc doanh hoạt động theo nguyên tắc tự chủ kinh doanh, tự trang trải và tích luỹ trong môi trường hợp tác, cạnh tranh; Nhà nước chỉ tài trợ có thời hạn cho một số cơ sở thật sự cần thiết' Kinh tế nhà nước vẫn đóng vai trò "bà đỡ" cho các doanh nghiệp vào những giai đoạn khó khăn, nhất là trong chuyển giao công nghệ, liên doanh góp vốn với nước ngoài.
2.2.1.1 Cơ cấu ngành :
Từ các hình thức sở hữu cơ bản: “sở hữu toàn dân sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức sở hữu kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp “ Các thành phần kinh tế được nêu lên gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước. Thành phần kinh tế hợp tác đã có nhiều thay đổi, phát triển hơn, phù hợp với nguyên tắc hoạt động của thành phần kinh tế tập thể (nói rõ hơn về bản chất sở hữu, bao gồm nhiều hình thức hợp tác đa dạng trong đó hợp tác xã vẫn là hình thức chủ yếu) thành phần kinh tế có vồn đầu tư nước ngoài góp phần quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và ngày càng phát triển hơn trong những năm gần đây bao gồm vốn do nươc ngoài đầu tư vào nước ta 100% hoặc do liên doanh liên kết. Nhìn chung nền kinh tế Việt Nam có những chuyển biến tích cực, tỷ lênh ngành dịch vụ (42%)và công nghiệp trong GDP tăng lên đáng kể, nông nghiệp có xu hướng giảm. Song cốt lõi vần là công nông và dịch vụ .
2.2.1.2 Kinh tế đối ngoại :
Nước ta đã mở cửa nền kinh tế liên kết với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới với xu hướng ngày càng mạnh mẽ. Hoạt động xuất nhập khẩu phát triển khá nhanh.
Năm 2007 kim ngạch xuất khẩu của cả nước như sau: Khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt kim ngạch 11,717 tỷ USD chiếm 43,4 % tổng kim ngạch xuất khảu của cả nước ( cùng kỳ năm 2006, tỷ lệ này là 41,9%) khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt kim ngạch 15,073 tỷ USD, chiếm 46,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.Tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 32,243 tỷ USD, tăng 29,8% so với cùng kỳ năm trước( cùng kỳ năm 2006 đạt 24,77 tỷ USD tăng 16,5% so với cùng kỳ năm 2006) Riêng tháng 7 đạt 5,05 tỷ USD, tiếp tực tăng so với tháng 6 năm 2007. Trong đó kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 20,823 tỷ USD, tăng 31,8% so với cùng ký năm 2006, chiếm tỷ trọng 64,6% tổng kim ngach nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu từ nước ngoài đạt 11,42 tỷ USD, tăng 26,3% so với cùng kỳ năm 2006, chiếm 35,4% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước ( cùng kỳ năm 2006 đạt 9 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 36,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước , tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2005)
Tổng xuất nhập khẩu hàng hóa trong năm 2008 đặt 143,4 tỷ USd tăng 28,9% so với năm 2007, trong đó xuất khảu đạt 62,69 % tỷ USD tăng29,1% so với năm trước, vượt 7% kế hoạch năm và nhập khẩu là 80,71 tỷ USD ,tăng 28,8% thấp hơn tốc độ tăng xuất khẩu. Hết tháng 12 năm 2008 nhập siêu của Việt Nam là 18,03 tỷ USD đạt con số kỷ lục từ trước tới nay, tăng 27,7% so với con số 14,12 tỷ USD của năm 2007. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá trong năm 2008 đạt 143,4 tỷ USD, tăng 28,9% so với năm 2007, trong đó xuất khẩu đạt 62,69 tỷ USD, tăng 29,1% so với năm trước, vượt 7% kế hoạch năm và nhập khẩu là 80,71 tỷ USD, tăng 28,8%, thấp hơn tốc độ tăng xuất khẩu.
Theo Bộ Kế hoạch – Đầu tư, kim ngạch xuất khẩu cả nước năm 2009 ước đạt 56,7 tỷ USD giảm 9,5% so với năm 2008, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 68,7 tỷ USD giảm 14,9%so với năm 2008. Tỷ trọng nhập siêu của Việt Nam năm 2009 chiếm 21,1% kim ngạch xuất khẩu. Tỷ lệ này cho thấy, Việt Nam không đạt mục tiêu đề ra là nhập siêu phải có tỷ trọng dưới 20% so với tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. So với năm 2008, một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu tăng mạnh như phân bón, nhập 4,3 triệu tấn tăng gần 42%, chất dẻo nguyên liệu nhập 2,2 triệu tấn, tăng 25,8%; sợi các loại nhập 495 nghìn tấn, tăng 19,5%; sắt thép nhập 9,6 triệu tấn, tăng 13,8%, máy vi tính và linh kiện điện tử, đạt kim ngạch tới 3,9 tỷ USD tăng 5,8%; dược phẩm nhập trên 1 tỷ USD tăng 27%...
Theo báo cáo công bố tình hình kinh tế xã hội tháng 3 và Quý I năm 2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại cuộc họp Báo Chính phủ ngày 1/4/2010, mặc dù đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, nhưng trong quý I/2010 nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục đà phục hồi của những quý cuối năm 2009 với tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước đạt 5,83%, gấp gần 1,9 lần tốc độ tăng trong quý I/2009. Đáng chú ý là sự phục hồi diễn ra ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế then chốt:
Tổng kim ngạch xuất khẩu: Quý I/2010 ước đạt 14,01 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm 2009; trong đó kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 6,68 tỷ USD, tăng 40,5%. Riêng yếu tố tăng giá làm tăng kim ngạch xuất khẩu khoảng 1 tỷ USD. Nếu loại trừ yếu tố tăng đột biến xuất khẩu vàng Quý I/2009, kim ngạch xuất khẩu 3 tháng đầu năm 2010 tăng khoảng 11,9% so với cùng kỳ năm 2009.
Tổng kim ngạch nhập khẩu: Quý I/2010 ước đạt 17,5 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009; trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI ước đạt 7,1 tỷ USD, tăng 53,1%.
Nhập siêu Quý I/2010 ước đạt 3,5 tỷ USD, bằng 25% so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn vừa có tính trước mắt vừa có tính lâu dài. Chất lượng, hiệu quả tăng trưởng hạn chế, sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của nhiều ngành, nhiều loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ còn thấp. Một số cân đối kinh tế vĩ mô chưa được cải thiện đáng kể, thiếu tính bền vững, nhất là cân đối xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, cân đối thu chi ngân sách Nhà nước, cân đối vốn đầu tư phát triển, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao (Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3 năm 2010 tăng 0,75% so với tháng 2 năm 2010. So với tháng 12/2009, chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2010 tăng 4,12%. Chỉ số giá Quý I năm 2010 tăng 8,51% so với cùng kỳ năm 2009).
Các mặt hàng xuất khẩu nước ta vẫn ở dạng thô, giá trị thấp, sức cạnh tranh kém, các doanh nghiệp nhập khẩu nhiều do hệ thống luật pháp của Việt Nam còn nhiều thiếu sót, các doanh nghiệp Việt Nam chưa làm tốt công tác xúc tiến thương mại, chưa có chiến lược xuất khẩu dài hạn ổn định lâu dài, thương mại điện tử còn chưa phát triển mạnh điều đó hạn chế khả năng tham gia hội nhập nền kinh tế thế giới của các doanh nghiệp Việt Nam, đòi hỏi Nhà nước phải có giải pháp trong quá trình hội nhập sao cho thu được nhiều hiệu quả tốt.
2.2.2 Những biểu hiện về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước :
2.2.2.1 Là lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô.
Nhà nước sử dụng chung tất cả các biện pháp có thể can thiệp vào kinh tế nhằm hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, phân bổ nguồn lực tối ưu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội một cách hài hoà phù hợp với giá trị truyền thống và văn hoá đất nước.
Trong kinh tế, mỗi đơn vị kinh doanh là một chủ thể kinh tế, trực tiếp đối mặt với thị trường để quyết định các vấn đề kinh tế cơ bản : sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? theo mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Điều này tất yếu dẫn đến kết cục là ở đâu, khi nào, đối với mặt hàng nào có thể đem lại lợi nhuận cao thì ở đó, khi đó các doanh nghiệp có khả năng sẽ đổ xô vào sản xuất và kinh doanh mặt hàng đó. Ngược lại, nếu ở đâu, khi nào và đối với mặt hàng nào không có lời hoặc lỗ vốn thì ở đó, khi đó sẽ có nhiều doanh ngiệp có khả năng sẽ rút khỏi thị trường sản xuất và kinh doanh mặt hàng đó. Do sự hạn chế của mỗi dịch vụ về việc thu thập cũng như xử lý các thông tin cần thiết về thị trường để quyết định có tham gia hay rút khỏi một thị trường nào đó, tất cả sẽ dẫn đến nguy cơ có thể phát sinh mâu thuẫn giữa cung và cầu ở mọi lúc, mọi nơi và đối với mọi mặt hàng. Để chống lại nguy cơ đó Nhà nước phải thực hiện chức năng điếu tiết bằng nhiều công cụ khác nhau. Trong đó doanh nghiệp Nhà nước được coi là một công cụ.
Với tư cách là công cụ điều tiết luôn được Nhà nước thực hiện theo phương châm : ở đâu, khi nào nền kinh tế quốc dân đang mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng cụ thể nào đó mà các doanh nghiệp dân doanh hoặc không có đủ sức kinh doanh hoặc từ chối thì ở đó và khi đó cần sự có mặt của doanh nghiệp Nhanườc. Đến lúc nào đó, khi các doanh nghiệp dân doanh đủ sức đáp ứng nhu cầu thị trường, doanh nghiệp Nhà nước có thể rút khỏi thị trường đó, nhường chỗ cho các doanh nghiệp dân doanh. Quá trình diễn ra liên tục, lặp lại ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân hình thành vai trò điều tiết của doanh nghiệp Nhà nước. Chức năng này còn thể hiện ở trong phạm vi từng vùng đặc biệt quan trọng với các vùng xa, vùng sâu.
Như vậy, chức năng điều tiết nền kinh tế quốc dân đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng doanh nghiệp Nhà nước như một công cụ cần thiết bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động một cách thông suốt, đảm bảo lợi ích xã hội.
2.2.2.2 Làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội.
Để nền kinh tế nước ta phát triển một cách nhanh chóng thì cần phải có những bước tăng trưởng. Do vậy, cần có một lực lượng có sức mạnh kinh tế làm đòn bẩy để thúc đẩy các lực lượng khác cùng phát triển. Doanh nghiệp Nhà nước hiện nay chưa đủ khả năng chi phối toàn bộ nền kinh tế nhưng có một thực lực to lớn nên chỉ có doanh nghiệp Nhà nước mới có thể thực hiện được chức năng đòn bẩy.
Những vấn đề xã hội đang là một hạn chế lớn của nước ta. Muốn phát triển kinh tế - xã hội Nhà nước phải giải quyết triệt để những vấn đề đó. Để thực hiện được điều này chúng ta cần có thực lực về kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần như hiện nay thì chỉ có thành phần kinh tế Nhà nước mới có thể đảm nhận được vai trò làm lực lượng chủ lực cho Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội.
2.2.2.3 Mở đường hướng dẫn, hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới.
Kinh tế nhà nước kiểm soát các thị trường của hoạt động vốn và thị trường tiền tệ để bảo đảm khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của nhà nước. Các công cụ tài chính tiền tệ, tín dụng là các công cụ chính yếu của nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô.
Thành phần kinh tế nhà nước thể hiện vai trò chủ đạo chi phối các thành phần kinh tế khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc tính của mình, tạo cơ sở hạ tầng cho mỗi kinh tế hàng hoá, chiếm giữ các ngành then chốt và trọng yếu xã hội, làm đòn bảy nhanh tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội. Đóng góp phần lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của toàn xã hội.
2.3 Thực trạng của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa tại Việt Nam hiện nay :
Kinh tế Nhà nước ở nước ta có một thực lực to lớn, chiếm hơn 3/4 tài sản quốc gia, nắm giữ các đài chỉ huy và các vị trí then chốt trong nền kinh tế, đó chính là nền tảng, là cơ sở và sức mạnh để định hướng xã hội chủ nghĩa toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tại Việt Nam, khu vực kinh tế Nhà nước thu hút phần lớn các nguồn lực; từ tài chính, đầu tư, đến lao động, tài nguyên, và được hưởng nhiều ưu đãi. Nhưng xét về mặt hiệu quả thì khả năng đem lại phúc lợi không bao nhiêu và chính điều này đang làm suy yếu tính định hướng, dẫn dắt, nêu gương của nó với các thành phần kinh tế khác. Tỉ lệ 40% GDP mà các tập đoàn, công ty Nhà nước tạo ra đã được thống kê chính thức của Việt Nam nói đến, là một con số quá cao so với thực tế.
Ví dụ :
- Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 3 năm 2010 ước tăng 17,8% so với tháng 2 năm 2010 và tăng 14% so với cùng kỳ năm 2009. Tính chung Quý I/2010, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,6% cao hơn so với kế hoạch năm 2010 (12%), trong đó: khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 14,6%, chiếm tỷ trọng 36,3% toàn ngành và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,4%, chiếm tỷ trọng 41,8% toàn ngành. Vậy khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng 21,9% toàn ngành.
- Ngành xây dựng tiếp tục đạt tốc độ tăng cao. Giá trị sản xuất ngành xây dựng (theo giá thực tế) Quý I/2010 ước tăng 17,4% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó: khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 17,9% (chiếm tỷ trọng 27,5% toàn ngành), khu vực ngoài nhà nước tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước (chiếm tỷ trọng 69,9% toàn ngành).
2.3.1 Sử dụng vốn :
- Vốn đầu tư :
Theo Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế-xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch đầu tư, báo cáo 4-2008, vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
Từ năm 2000 đến năm 2003, tỷ trọng này luôn chiếm trên 50%, cụ thể, năm 2000, vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước chiếm 59,14%; năm 2001 chiếm 59,81%; năm 2002 chiếm 57,33% và năm 2003 chiếm 52,9%, và có giảm trong những năm tiếp theo (năm 2004: 48,06%; năm 2005: 47,11% và năm 2006: 46,4%) nhưng vẫn chiếm một phần lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
Tổng lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 theo giá thực tế ước tính đạt 461,9 nghìn tỷ đồng, trong đó vốn khu vực Nhà nước 200 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,3% tổng vốn; vốn khu vực ngoài Nhà nước 187,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 40,7% ; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 74,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 16% và tăng 17,1%.
Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước thực hiện tăng 88,9%. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009 theo giá thực tế ước tính tăng 15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8% GDP(kế hoạch là 39,5%), trong đó khu vực Nhà nước tăng 40,5%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 5,8%. chỉ số ICOR lên đến 8 là quá cao, so với mức 6,6 của năm 2008. Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước chiếm 21,8% tổng vốn đầu tư cả nước, đạt 106,8% kế hoạch năm.
- Vốn kinh doanh :
Theo một nghiên cứu mới đây của Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), tổng số vốn kinh doanh (theo giá ghi sổ) của doanh nghiệp ở Việt Nam đã tăng nhanh trong thời gian qua và tổng số vốn năm 2006 là 3062,7 nghìn tỷ đồng, tăng gấp hơn 3 lần so với năm 2000. Về thành phần kinh tế, thì trong cùng thời gian, số vốn của doanh nghiệp nhà nước đã tăng gần 2,4 lần (từ khoảng 670 ngàn tỷ đồng lên 1601 ngàn tỷ đồng) số vốn của doanh nghiệp tư nhân trong nước tăng khoảng 8,7 lần, từ 98,4 ngàn tỷ lên 857 ngàn tỷ VNĐ. Số vốn của doanh nghiệp FDI tăng lên khoảng 2,6 lần, từ 229,8 lên 604,6 ngàn tỷ VNĐ. Như vậy, đến năm 2006, tuy số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm mạnh, số vốn của doanh nghiệp nhà nước vẫn lớn gần gần 2 lần số vốn của doanh nghiệp tư nhân trong nước. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp theo thành phần kinh tế cũng đã thay đổi đáng kể. Tỷ trọng vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước đã giảm xuống từ khoảng 67% vào năm 2000 xuống còn khoảng 53% năm 2006; tỷ trọng của doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI tăng lên tương ứng từ khoảng 10 và 23% vào năm 2000 lên 28 và 19,7% năm 2006. Như vậy, doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục năm giữa hơn ½ tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
- Đánh giá : Về tài sản hiện thời mà các doanh nghiệp nhà nước quản lý ước tính cho rằng nhóm này hiện nắm giữ 60% nguồn vốn cho vay của các Ngân hàng thương mại nhưng chỉ đóng góp được 40% vào GDP hàng năm. Theo Tiến sỹ Nguyễn Quang A thì tỷ lệ này còn thấp hơn rất nhiều: chỉ khoảng 30%. Như vậy, có thể thấy nguồn lực mà các doanh nghiệp nhà nước này sử dụng nhiều hơn về mặt tỷ lệ so với những gì mà nhóm này đóng góp cho nền kinh tế. Thậm chí các khoản nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại thì nhóm doanh nghiệp nhà nước cũng có tỷ lệ cao nhất.
Ví dụ :
Trong mức tăng của tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2009, khu vực kinh tế cá thể tăng 20,3%; kinh tế tư nhân tăng 22,9%; kinh tế Nhà nước tăng 1,4%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9,5%; kinh tế tập thể tăng 18,8%.
Có thể nói, số vốn đầu tư huy động hàng năm chiếm tỷ trọng cao trong GDP nhưng chủ yếu đầu tư cho khu vực kinh tế nhà nước. Thực tế cho thấy :Vốn đầu tư kinh doanh cho khu vực kinh tế nhà nước tuy nhiều nhưng hoạt động kinh doanh chưa hiệu quả.
2.3.2 Xuất nhập khẩu :
Định hướng chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam là thúc đẩy xuất khẩu. Tuy nhiên qua thống kê cho thấy tỷ lệ xuất khẩu của khối nội và khối ngoại (FDI) như sau:
Năm
% kim ngạch xuất khẩu
2006
2007
2008
2009
FDI
62,8%
60,3%
55%
52,8%
thành phần kinh tế trong nước
37,2%
39,7%
45%
47,2%
Như vậy, xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước chiếm chưa đến 50%, và đương nhiên con số của các doanh nghiệp nhà nước còn thấp hơn rất nhiều.
Một điều hết sức đáng lưu ý là khu vực kinh tế trong nước liên tục nhập siêu với mức độ ngày càng tăng suốt 14 năm, từ 1995 đến năm 2009, trong khi khu vực kinh tế FDI liên tục xuất siêu cũng với nhịp độ ngày càng tăng.
2.3.3 Tài sản cố định
Về giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp, tổng giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp đã tăng lên 3,51 lần trong thời kỳ 2000-2006, trong đó doanh nghiệp nhà nước tăng hơn 3,53 lần, doanh nghiệp tư nhân trong nước tăng hơn 8,8 lần và doanh nghiệp FDI tăng gần 2,3 lần. Tuy vậy, giá trị tăng thêm về tài sản cố định của doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ nói trên vẫn chiếm hơn một nửa số giá trị tăng thêm về tài sản cố định của các doanh nghiệp và cao gấp hơn 2 lần so với doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Về cơ cấu giá trị tài sản cố định, trong thời kỳ 2000-2006, tỷ trọng của DNNN giảm nhẹ sau đó lại tăng lên nhưng hầu như không thay đổi; trong khi đó, tỷ trọng của doanh nghiệp tư nhân trong nước đã tăng mạnh từ 8,3% năm 2000 lên 20,7% năm 2006; và tỷ trọng của doanh nghiệp FDI giảm tương ứng từ 35,9% xuống còn 23,3% trong cùng thời kỳ.
2.3.4 Đóng góp cho GDP
Bảng sau cho thấy đóng góp của các thành phần kinh tế vào GDP.
Bảng 2: Tỷ lệ đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế (%)
Năm:
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Khu vực kinh tế Nhà nước
38,52
38,40
38,38
39,08
39,10
38,40
37,32
Khu vực kinh tế tư nhân
48.20
47.84
47.86
46.45
45.77
45.61
45.66
Khu vực kinh tế FDI
13.27
13.76
13.76
14.47
15.13
15.99
17.02
Theo số liệu thống kê suất từ năm 1999 – 2007 ,kinh tế nhà nước đóng góp gần 40%. Nhưng từ năm 2008 tới nay sự đóng góp đã giảm xuống dưới 35%.
Có thể thấy đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế nhà nước không tương xứng với nguồn lực mà nó sử dụng. Khu vực tư nhân nói chung (trong nước và FDI) tạo ra gần 2/3 GDP. Sự đóng góp của kinh tế nhà nước cho GDP đang có sự giảm sút.
Đóng góp của “kinh tế nhà nước” cho GDP, theo thống kê, bao gồm cả đóng góp của nhà nước trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng (đóng góp 3,28% năm 1998 và 2,77% năm 2008); giáo dục đào tạo (3,66% năm 1998 và 2,61% năm 2008); y tế cứu trợ, văn hóa thể thao, đảng và đoàn thể (2,11% năm 1998 và 1,8% năm 2008) tổng cộng là 9,05% năm 1998 và 7,18% năm 2008.
Với nguồn lực to lớn của đất nước mà các tập đoàn sử dụng(vốn đầu tư, vốn kinh doanh, tài sản cố định), thành tích đóng góp cho GDP và tạo công ăn việc làm từ các tập đoàn này là vẫn còn hạn chế. Cải tổ triệt để các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của công cuộc tái cơ cấu nền kinh tế.
2.3.5 Công ăn việc làm
Theo quan điểm của giáo sư Nguyễn Quang A, nguồn tạo ra công ăn việc làm cho người lao động Việt Nam là những công ty tư nhân chứ không phải là nhờ vào khu vực kinh tế Nhà nước.
Thành tích tạo công ăn việc làm là một chỉ số quan trọng. Theo báo cáo đã nhắc tới của CIEM, tổng số lao động làm việc tại các doanh nghiệp năm 2006 là 6722,2 nghìn người, tăng 3184,7 nghìn người so với năm 2000. Trong đó, số lao động làm việc trong doanh nghiệp nhà nước đã giảm mất 181,5 ngàn người; trong doanh nghiệp tư nhân tăng thêm 2329 ngàn người và trong các doanh nghiệp FDI tăng thêm 1037,7 ngàn người. Như vậy, doanh nghiệp nhà nước trong 7 năm qua không tạo thêm công ăn việc làm mới cho người lao động; mà ngược lại, đã mất đi hơn 181 nghìn chỗ làm việc. Như vậy, số lao động làm việc trong doanh nghiệp tư nhân trong nước đã tăng hơn 3 lần trong những năm 2000-2006, từ hơn 1 triệu lên hơn 3 triệu người. Tương tự, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI đã tăng hơn 3 lần, từ hơn 407 ngàn người năm 2000 đã tăng lên hơn 1,4 triệu người năm 2006. Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước chỉ còn chiếm 28% tổng số lao động trong doanh nghiệp; giảm hơn một nửa (59,1%) so với năm 2000. Trong khi đó, tỷ trọng lao động của doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp FDI đã tăng lên tương ứng từ 29,4 và 11,5% năm 2000 lên 50,1 và 21,5% vào năm 2006.
Có thể thấy thành tích về tạo công ăn việc làm của các doanh nghiệp nhà nước rất tồi và hoàn toàn không tương xứng với những nguồn lực to lớn mà nó sử dụng. Nếu so với tổng số lao động của cả nước, 43,35 triệu lao động, thì số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm dưới 4,4% trong năm 2006 (nếu tính số lao động của toàn bộ khu vực nhà nước thì tỷ lệ trên tổng số lao động là gần 9%). Tuyệt đại bộ phận người lao động (trên 95,6%) gồm nông dân, những người lao động tự do và những người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân và FDI sử dụng khoảng ½ tổng đầu tư của xã hội còn chưa đến 4,4% lao động trong khu vực kinh tế nhà nước lại sử dụng gần ½ tổng đầu tư xã hội.
2.3.6 Trình độ khoa học Kỹ thuật:
Nhìn chung hiện nay trình độ khoa học công nghệ nước ta so với các nước láng giềng chúng ta còn kém xa, chúng ta chậm 10 năm so với Trung Quốc, chậm từ 20-30 năm so với Đài Loan ở thời điểm bắt đầu công nghiệp hóa. Các thành phần Kinh tế nhà nước cũng đang hướng sự phát triển vào những ngành, lĩnh vực có trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại như: tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hoá.
2.3.7 Nông lâm ngư nghiệp
Trong khu vực này vai trò của khu vực kinh tế nhà nước và FDI là không đáng kể.
Năm 2009, doanh thu các tổng công ty nhà nước thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đạt 79.361 tỉ đồng, lợi nhuận trước thuế 5.360 tỉ đồng nhưng tập trung chủ yếu vào Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam và hai tổng công ty lương thực, còn lại các tổng công ty khác lãi thấp hoặc thua lỗ.
Một số đơn vị có lãi nhưng chủ yếu do thu cổ tức, lãi chia liên doanh từ phần vốn nhà nước đầu tư tại các công ty con, công ty liên kết nộp về. Đặc biệt, có một số tổng công ty chưa khắc phục được lỗ lũy kế như Tổng công ty Dâu tằm tơ (lỗ 61 tỉ đồng), Tổng công ty Muối (lỗ 15 tỉ đồng), lỗ nặng như Tổng công ty Cà phê Việt Nam tới 420 tỉ đồng.
2.3.8 Thương mại nội địa
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế năm 2007 ước đạt 726,1 nghìn tỷ đồng, tăng 23,3% so với năm 2006, trong đó kinh tế cá thể chiếm 56,2% và tăng 25,9%; kinh tế tư nhân chiếm 28,8% và tăng 30,3%; khu vực kinh tế Nhà nước chiếm 10,9%, giảm 1,3% so với năm 2006.
Trong mức tăng của tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2009, khu vực kinh tế cá thể tăng 20,3%; kinh tế tư nhân tăng 22,9%; kinh tế Nhà nước tăng 1,4%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9,5%; kinh tế tập thể tăng 18,8%. Xét theo ngành kinh doanh thì kinh doanh thương nghiệp tăng 18,6%; khách sạn, nhà hàng tăng 18,4%; dịch vụ tăng 20,3%; du lịch tăng 1,9%.
Có thể nói vai trò của khu vực kinh tế nhà nước trong thương mại nội địa không lớn và theo xu hướng tái cơ cấu rất đáng khích lệ này vai trò của khu vực kinh tế nhà nước trong thương mại nội địa sẽ trở nên không đáng kể trong tương lai.
2.4 Đánh giá chung tình hình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam và khu vực
Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế-xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch đầu tư, 4-2008: khu vực kinh tế nhà nước là khu vực đi đầu trong việc gây ra mất cân đối nghiêm trọng. Rõ ràng hàng công nghiệp nhẹ chủ yếu do các doanh nghiệp tư nhân và FDI xuất khẩu, hàng tiểu thủ công nghiệp do khu vực tư nhân trong nước làm ra. Các mặt hàng nông sản, thủy sản và lâm sản chủ yếu do khu vực tư nhân trong nước xuất khẩu. Các khoản này chiếm khoảng 2/3 xuất khẩu. Nói cách khác phần xuất khẩu của khu vực tư nhân trong nước hẳn là đáng kể.
Về nhập khẩu: chủ yếu là tư liệu sản xuất (luôn hơn 92%) trong đó nhiên liệu chỉ do các doanh nghiệp nhà nước nhập khẩu, nguyên vật liệu và máy móc cả 3 khu vực đều nhập (song FDI luôn xuất siêu, nên không ảnh hưởng gì) và rất có thể khu vực tư nhân trong nước nếu không xuất siêu thì tỷ lệ nhập siêu cũng không thể lớn. Nói cách khác khu vực kinh tế nhà nước là tác nhân gây nhập siêu chính (dầu, than, ..) một phần hàng Công nghiệp nhẹ là do các doanh nghiệp nhà nước xuất; trừ các thứ này hầu như mọi thứ nhập khẩu của các tập đoàn đều phục vụ cho sản xuất các hàng hóa thay thế nhập khẩu; tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng chỉ ở mức 6-8% minh chứng cho chính sách thay thế hàng nhập khẩu vẫn rất thịnh hành .
Bên cạnh những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh không hiệu quả, nhiều doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả và những doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực công ích đang góp phần thể hiện rõ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Đó là những tổ chức tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong cuộc chiến chống đói, nghèo và tụt hậu. Nhũng tổ chức này là chỗ dựa để Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nguyên nhân :
Do cơ cấu tổ chức chưa hợp lý, hệ thống luật pháp chưa hoàn thiện, chính sách hoạt động còn nhiều thiếu sót, trình độ khoa học kỹ thuật tại nhiều công ty còn lạc hậu khiến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao :
+ Hiện nay, trong thành phần kinh tế nhà nước các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí cơ bản và rất to lớn nhưng không ít đơn vị chưa xứng đáng với vai trò mà nó đang nắm giữ.
+ Vốn ngân sách của Nhà nước bị thất thoát do có quá nhiều cơ quan thực hiện chức năng cấp phát, khi vốn đến doanh nghiệp thì không còn đủ để thực thi những kế hoạch ban đầu.
+ Vì lợi ích cục bộ của mình và của các doanh nghiệp nhà nước trong ngành, một số bộ, ngành đã cố ý tạo những kẽ hở trong việc đề xuất các văn bản pháp lý để bảo hộ, ưu đãi cho doanh nghiệp của ngành, gây thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân.
+ Do cơ chế hỗ trợ, người điều hành doanh nghiệp không được chủ động tổ chức hoạt động kinh doanh, việc tuyển dụng, đề bạt, đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào phía cơ quan chủ quản.
+ Mức lương của các cấp quản lý thấp hơn rất nhiều so với mức lương các cấp tương tự tại các công ty tư nhân hoặc công ty có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Cơ chế lương thưởng tại các công ty nhà nước chủ yếu phụ thuộc vào thâm niên lao động, bằng cấp và việc đề bạt mà không phải là chuyên môn nghiệp vụ, hiệu quả công việc… do đó thu nhập của người lao động không đảm bảo đời sống cho họ nên người lao động tại các doanh nghiệp nhà nước không tận tâm với công việc, khó khuyến khích họ tạo ra của cải cho xã hội hay tăng năng suất, dẫn đến hiện tượng như “ chảy máu chất xám”…
Ngoài ra, vẫn tồn tại những doanh nghiệp nhà nước không những không nuôi nổi người lao động của mình, mà còn luôn đòi được Nhà nước cứu trợ cho sự tồn tại của nó, trong khi đó số khác liên tục thua lỗ, dù đã hơn một lần được Nhà nước hoặc trợ cấp vốn từ ngân sách. Xét từ góc độ lợi ích của xã hội mà Nhà nước là người đại diện, những doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả thật sự đang là những gánh nặng, cần giải quyết càng sớm càng tốt.
3. Phương hướng cải cách nhằm phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
3.1 Đổi mới cơ chế quản lý
a. Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh:
Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực độc quyền nhà nước: vật liệu nổ, hoá chất độc, chất phóng xạ, hệ thống truyền tải quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia và quốc tế.
Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực: bán buôn lương thực, bán buôn xăng dầu, sản xuất điện, khai thác các khoáng sản quan trọng, sản xuất xi măng, công nghiệp xây dựng, sản xuất hoá độc,… chủ yếu là các doanh nghiệp quy mô lớn, có đóng góp lớn cho ngân sách, đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao và góp phần quan trong ổn định kinh tế vĩ mô. Những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đảm bảo nhu cầu thhiết yếu cho sản xuất và nâng cao đới sống vật chất, tinh thần của đồng bào nông thôn, đồng bào các dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Chuyển các doanh nghiệp giữ 100% vốn sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là Nhà nước hoặc công ty cổ phần gồm các cổ đông là các doanh nghiệp nhà nước.
Căn cứ định hướng trên đây, Chính phủ chỉ đạo rà soát, phê duyệt phân loại cụ thể các doanh nghiệp nhà nước hiện có để triển khai thực hiện và từng thời kỳ xem xét điều chỉnh định hướng, phân loại doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh chủ yếu sẽ thực hiện dưới hình thức công ty cổ phần. Chỉ thành lập mới doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đối với những ngành và lĩnh vực mà nhà nước cần giữ độc quyền, hoặc các thành phần kinh tế khác không muốn hay không có khả năng tham gia.
b. Với doanh nghiệp hoạt động công ích.
Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp công ích hoạt động trong lĩnh vực : in bạc và chứng chỉ có giá, kiểm soát và phân phối tàn số vô tuyến điện, sản xuất và sửa chửa vũ khí, khí tài,trang bị chuyên dùng quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp được giao thực hiện nhiệm vụ quốc phòng đặc biệt và các doanh nghiệp tại các địa bàn chiến lược quan trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng theo quyết định của chính phủ. Các doanh nghiệp của quân đội và công an được sắp xếp và phát triển theo định hướng này.
Nhà nước giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối đối với những doanh nghiệp công ích đang hoạt động trong các lĩnh vực: kiểm định kỷ thuật phương tiện giao thông cơ giới, xuất bản sách giáo khoa, sách báo chính trị, phim thời sự và tài liệu quản lý, quản lý thuỷ nông đầu nguồn, trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, quản lý,bảo trì hệ thống đường bộ, bến xe, đường thuỷ quan trọng… Trong từng thời kỳ, chính phủ xem xét , điều chỉnh định hướng phân loại doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội .
Đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích hiện có, chính phủ căn cứ vào định hướng trên đây chỉ đạo rà soát và phê duyệt phân loại cụ thể để thực hiện triển khai thực hiện . Những doanh nghiệp công ích đang hoạt động không thuộc diện nêu trên sẻ được sắp xếp lại. Việc thành lập doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích phải xem xét chặt chẽ, đúng định hướng, có yêu cầu và có đủ các yêu câù cần thiết. Khuyến kích nhân dân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sản xuất những sản phẩm, dịch vụ mà xả hội cần và pháp luật không cấm.
c. Các doanh nghiệp cổ phần nhà nước
Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách phù hợp đối với doanh nghiệp nhà nước đã chuyển sang công ty cổ phần. Sửa đổi các chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá theo hướng ưu đãi hơn đối vơí những doanh nghiệp khi cổ phần hoá có khó khăn, chỉ đạo chặt chẽ doanh nghiệp nhà nước đầu tư một phần vốn để lập mới công ty cổ phần ở những lĩnh vực cần thiết
àTóm lại :
Cải tổ nhanh và hợp lý các doanh nghiệp nhà nước, chuyển sang các hình thức hoạt động có hiệu quả để tồn tại và đem lại cho Nhà nước một công cụ định hướng, điều tiết tốt. Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, định hướng phát triển cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh, hoạt động xã hội, đã được cổ phần hóa.
Vd :
Số lượng các doanh nghiệp trong tay nhà nước còn tương đối nhiều. Đối với những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh thì cần nhanh chóng chuyển đổi sở hữu thông qua con đường cổ phần hóa và tư nhân hóa. Đối với các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ thì phải nhanh chóng xóa bỏ độc quyền thông qua khống chế mức chi phí và lợi nhuận, không để cho bộ máy quản lý núp danh nhà nước khai thác lợi thế độc quyền vì lợi ích nhóm.
Mục tiêu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là nhằm tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để họ có ý thức trách nhiệm và quyền lợi trong việc sử dụng hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước đồng thời huy độngthêm vốn trong xã hội, trong các cổ đông và tưng cường sự giám sát của xã hội, đảm bảo hài hoà lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
Ở nước ta hiện nay, chính quyền cấp tỉnh, thành phố và các bộ, ngành không cần thành lập và quản lý các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh vì lợi nhuận, mà chỉ thành lập và quản lý các doanh nghiệp công ích theo quy định chung, có tính tới đặc thù của mỗi địa phương. Cần xem xét và xử lý hữu hiệu lại cơ chế cơ quan chủ quản của doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại tràn lan như hiện nay. Vì thực tế ngày càng cho thấy, không phải bao giờ các cơ quan chủ quản cũng giúp các doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động, mà trái lại, nhiều khi lại gây phiền hà, làm trầm trọng thêm cơ chế "xin - cho"- một biến thể của cơ chế bao cấp trước đây, làm nảy sinh các tệ nạn tham nhũng, cửa quyền và lãng phí.
Do đó, xóa bỏ cơ chế chủ quản theo lối hành chính quan liêu, bao cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước, để các doanh nghiệp này được tự chủ trong cơ chế thị trường và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng đồng vốn của Nhà nước trước các cơ quan tài chính là một giải pháp cần được áp dụng trong đổi mới doanh nghiệp nhà nước nói chung và trước hết là đối với các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt của nền kinh tế. Cần có cơ chế bảo đảm để phân định rạch ròi nhiệm vụ chính trị - xã hội mà Nhà nước giao cho với lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhà nước chủ động thay đổi những phương thức hành động không phù hợp với Kinh Tế Thị Trường (bao cấp, hỗ trợ về giá đối với nguyên vật liệu, áp dụng mức thuế ưu đãi...) và các cam kết quốc tế bằng các phương thức phù hợp và có hiệu quả hơn đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng phát triển một cách ổn định tốc độ tăng trưởng nhanh ( GDP hàng năm tăng từ 9 – 10%) tạo đà cho đất nước phát triển duy trì lam phát ở mức có lợi đồng thời tạo việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống ...%, giảm nhập siêu tạo lập cơ sở vững chắc về tài chính, nhân lực , cơ sở vật chất kỹ thuật Đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội, giảm thiểu những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường như: hạn chế tình trạng thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, hủng hoảng kinh tế.
Sắp xếp các tổng công ty nhà nước cho phù hợp theo từng thời kỳ, theo từng yêu cầu phát triển của xã hội. Bên cạnh các công ty nhà nước, nghị quyết trung ương Đảng III chủ trương hình thành các tập doàn kinh tế mạnh trên có sở các tổng công ty nhà nước có sự tham gia của các thành viên kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó các ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân
Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng vĩ mô như định hướng bằng các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, cơ chế, chính sách có chất lượng trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường; tạo môi trường cho các chủ thể phát huy tối đa các nguồn lực; hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối vĩ mô…(Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, trình độ khoa học kỹ thuật của các công ty nhà nước nhằm hình thành những tập đoàn kinh tế mạnh, giải quyết việc làm cho người lao động, phân phối thu nhập quốc dân)
Phân bổ nguồn lực một cách hợp lý
Tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước ra khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp
3.2 Bổ sung hệ thống pháp luật :
Nhà nước định ra khuôn khổ pháp luật trên cơ sở đó đưa ra những điều luật cơ bản về quyền sở hữu (tài sản, trí tuệ)luật lao động điều tiết hoạt động của thị trường tạo hành lang pháp lý an toàn, thông suốt đảm bảo tính dân chủ và sự bình đẳng để mọi công dân đều có thể tham gia vào thị trường, đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của các hoạt động kinh tế xã hội.
Ví dụ : Quy định về cho thuê, bán, phá sản với các doanh nghiệp nhỏ làm ăn không hiệu quả
3.3 Nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước :
Đổi mới trình độ công nghệ và trình độ quản lý trong doanh nghiệp:
Trong thời đại hiện nay, đổi mới công nghệ là vấn đề sống còn của doanh nghiệp nếu muốn tồn tại hiệu quả, vì vậy cần xây dựng đổi mới công nghệ trong từng ngành , từng doanh nghiệp tăng cường nghiên cứu triển khai, phát triển sản phẩm, nghiên cứu thị trường, xúc tiến bán, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng Quốc tế...
Giải quyết lao động dôi dư:
Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích , bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội, tạo điều kiện tốt cho người lao động được hưởng bảo hiểm thất nghiệp.
Đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm 100% vốn thì vấn đề số một là phải có những cơ chế bảo đảm để các doanh nghiệp này đủ sức vươn lên đóng vai trò chủ lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn thế, việc bổ nhiệm tổng giám đốc doanh nghiệp nhà nước phải trên cơ sở giao khoán các nhiệm vụ và chỉ tiêu cụ thể, trước hết là yêu cầu bảo toàn vốn, tỷ suất lợi nhuận doanh nghiệp, đóng góp cho ngân sách nhà nước,... và có cơ chế ngăn chặn mọi sự can thiệp vô nguyên tắc vào hoạt động của doanh nghiệp.
Ngoài ra, cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước. Cán bộ công chức nhà nước phải có trình độ chuyên môn giỏi hơn, chuyên nghiệp hơn và nhất là phải thành thạo ngoại ngữ và sử dụng các phương tiện làm việc hiện đại như công nghệ thông tin, luật pháp quốc tế...
Ví dụ :
Áp dụng chế độ thi tuyển để chọn giám đốc của từng doanh nghiệp nhà nước và chỉ bổ nhiệm có thời hạn dựa trên những điều kiện hợp lý mà các ứng cử viên đưa ra khi tham dự thi tuyển
Nâng cao sức cạnh tranh của các thành phần kinh tế :
Để các doanh nghiệp nhà nước có thể tăng sức cạnh tranh và ngăn ngừa nguy cơ "chảy máu chất xám", cần thực hiện nghiêm Luật Doanh nghiệp nhà nước, bảo vệ các quyền tự chủ của cách doanh nghiệp trong giải quyết các vấn đề về trả lương và các hình thức phân phối thu nhập phù hợp với khả năng của doanh nghiệp.
Ví dụ:
- Nhà nước chỉ quy định mức lương tối thiểu của người lao động trong doanh nghiệp nhà nước, không hạn chế mức lương tối đa.
- Về mức lương tối đa và các loại hình khuyến khích vật chất tại doanh nghiệp nhà nước sẽ do đại hội công nhân, viên chức của doanh nghiệp quyết định theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là một cơ chế bảo đảm và thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước nâng cao năng suất lao động và nêu gương trước các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác về trả công cho người lao động. Và xét cho cùng, đây cũng là một trong những tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
C – KẾT LUẬN :
Trong nền Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa như hiện nay, Kinh tế nhà nước đóng 1 vai trò hết sức quan trọng song hiện nay các thành phần kinh tế nhà nước chưa phát huy tốt vai trò của chúng.
Điều cần làm hiện nay là, phải tiếp tục đổi mới các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài việc giải thể không chậm trễ những doanh nghiệp không còn khả năng tự tồn tại, cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc giữ cổ phần chi phối của Nhà nước. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp nhà nước do cấp tỉnh, thành phố quản lý, phải coi cổ phần hóa là giải pháp cấp thiết. Đã đến lúc các cấp ủy và tổ chức đảng, các cấp chính quyền cần nhanh chóng vào cuộc để đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa và coi đây là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm, cấp bách.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bith7843olu7853n.doc