Vai trò của công nghiệp hóa-hiện đại hóa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nayMục lục
A- Lời nói đầu.
B- Nội dung.
1. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
1.1. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là gì?
1.2.Tính tất yếu của công nghiệp hoá hiện đại hoá .
1.3. Vai trò của công nghiệp hóa.
2. Thực tế quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta.
2.1. Mục tiêu và những quan điểm cần quán triệt trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá.
2.2. Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá hiện đại hóa ở nước ta.
2.3. Một số kết quả thu được sau gần 20 năm đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá.
3. Một số biện pháp đốí với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
C-Lời kết.
Danh mục tài liệu tham khảo.
16 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2123 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của công nghiệp hóa - Hiện đại hóa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A- Lời nói đầu.
Sau khi giành được thắng lợi mùa xuân 1975, hai miền Bắc-Nam thống nhất, cả nước ta cùng quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện đất nước phải chịu những đảo lộn kinh tế và xã hội với qui mô lớn sau cuộc chiến tranh ác liệt, lâu dài và tình hình thế giới cũng có những diễn biến không thuận lợi. Trong thời kỳ 1976-1985 dù có nhiều khó khăn trở ngại nhưng nước ta cũng đã đạt được một số thành tựu quan trọng.Tuy nhiên đây là vẫn là thời kỳ nền kinh tế gặp nhiều khó khăn và mẫu thuẫn gay gắt, phát triển chậm chạp thậm chí giảm sút (năm 79-80: thu nhập quốc dân năm 79 giảm 2%, năm 80 giảm 1,4%); giai đoạn 1981-1985 nền kinh tế tăng trưởng nhanh hơn nhưng tình hình lại khó khăn hơn do lạm phát nghiêm trọng. Kinh tế đất nước bắt đầu rơi vào tình trạng khủng hoảng trong khi nguồn viện trợ không còn, nguồn vốn vay từ các nước Liên Xô và Đông Âu giảm sút; Mỹ vẫn tếp tục bao vây cấm vận kinh tế, ngăn cản Việt Nam bình thường hoá quan hệ và các tổ chức quốc tế. Từ thực tiễn đó, Đảng và nhà nước đã có một số chủ trương dần tháo gỡ những vướng mắc trong cơ chế quản lý. Đến Đại hội Đảng VI đã đưa ra những quyết sách lớn về đường lối đổi mới nhằm xoay chuyển tình hình và tạo ra bước ngoặt lớn cho sự phát triển của đất nước ta. Đại hội VII (năm 1991) chủ trương điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng “từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hoá” mà yêu cầu với công nghiệp hoá được đặt ra trong thời kỳ này là “không chỉ đơn giản tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân” cho nên công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá là nhu cầu tất yếu khách quan trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam. Từ giữa thập niên 90, trên cơ sở những tiền đề đã đạt được, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh Công nghiệp hoá Hiện đại hoá phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đai hội VIII của Đảng nêu rõ: “Tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.Đại hội Đảng IX tiếp tục khẳng định đường lối công nghiệp hoá nêu trên.Từ cuối thập kỷ 90,cơ cấu kinh tế nước ta đã được điều chỉnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá với con đường vừa có những bước đi tuần tự, vừa nhảy vọt, vừa tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn những thành tựu mới về khoa học công nghệ của các nước đi trước,từng bước phát triển kinh tế trí thức.
Ngày nay, sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đã, đang và sẽ có những bước phát triển rõ rệt, gặt hái được nhiều thành công, thay đổi bộ mặt đất nước.Nền kinh tế đã vượt qua giai đoạn suy giảm tốc độ tăng trưởng, đạt mức tăng trưởng khá cao;chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và sản phẩm có chuyển biến.Thực hiện có kết quả chủ trương giữ vững độc lập, tự chủ về kinh tế; có tiến bộ đáng kể trong việc phát huy các nguồn nội lực của đất nước, của các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển; đồng thời tiếp tụ mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế.Cơ cấu của nền kinh tế tiếp tục có bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá và từng bước hiện đại hoá, phát huy các lợi thế so sánh.nước ta đang từng bước tiến tới những mục tiêu mà Đảng và nhà nước đã đề ra,rút ngắn khoảng cách với các nước trên thế giới.Tình hình hiện nay thế giới có những biến động phức tạp về cả chính trị và kinh tế. Đảng ta đã nhận định:đối với đất nước ta, các thế lực phản động đế quốc sẽ vẫn tiếp tục kích động các vấn đề “dân chủ”,“nhân quyền”, dân tộc tôn giáo, tăng cường hỗ trợ các thế lực phản động và cực đoan trong nước hòng gây mất ổn định chính trị-xã hội và tạo cớ can thiệp tuy nhiên chúng ta có thể và cần phải phát huy mọi điều kiện, giữ vững môi trường hoà bình ổn định để tập trung xây dựng và phát triển đất nước.Mặt khác về kinh tế,kinh tế thế giới và khu vực có khả năng từng bước phục hồi đà phát triển. Xu thế toàn cầu hoá sẽ tiếp tục mở rộng.Với việc Trung Quốc và Campuchia đã gia nhập WTO, các quan hệ thương mại tự do song phương và đa phương ở khu vực có xu hướng được đẩy nhanh, nước ta đã đến thời hạn phải thực hiện các cam kết trong AFTA, đang đứng trước sức ép phải chủ động và khẩn trương hơn nữa trong hội nhập kinh tế quốc tế, nếu không muốn lâm vào thế bất lợi trong cạnh tranh với các nước trên thị trường thế giới. Chính vì vậy việc đẩy nhanh hơn nữa công cuộc đổi mới, tăng nhanh nhịp độ phát triển bền vững kinh tế-xã hội là rất cần thiết và vai trò của công nghiệp hoá hiện đại hoá là hết sức quan trọng.
Vì thế, em chọn đề tài “vai trò công nghiệp hoá hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” để có thể hiểu rõ hơn về vấn đề này.Do khả năng và thời gian hạn chế nên tiểu luận này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, sửa chữa của thầy. Em xin cảm ơn thầy.
B- Nội dung.
1. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
1.1. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là gì?
Loài người biết đến xã hội công nghiệp bắt đầu từ thế kỷ XVIII. Từ đó đến nay, nhiều dân tộc đã lần lượt đi lên xã hội công nghiệp thông qua thực hiện công nghiệp hoá. Công nghiệp hoá được hiểu là quá trình thay đổi sản xuất lao động thủ công bằng sản xuất công nghiệp cơ khí hoá dựa trên khoa học kỹ thuật tiến tiến và công nghệ hiện đại. Những vấn đề kinh tế nói chung và công nghiệp hoá nói riêng đều mang tính lịch sử nên trong từng giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội có những đặc điểm tính chất khác nhau.Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút những kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hoá, và thực tiễn công nghiệp hoá ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy khoá VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định: Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụngmột cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học-công nghệ tạo ra năng suất lao động cao.
Trước khi tiến hành đổi mới năm 1986, nước ta cũng đã thực hiện công nghiệp hoá nhưng do đường lối chính sách chưa phù hợp, cơ chế quan liêu bao cấp kìm hãm phát triển… nên chưa thành công.Nhằm khắc phục những thiếu sót, Đảng nhà nước đã quyết định thực hiện công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá có những điểm khác biệt với công nghiệp hoá trước đây:
Thứ nhất, công nghiệp hoá gắn liền hiện đại hoá vì trong thời đại ngày nay sự phát triển nhanh chóng của cuộc Cách mạng khoa học công nghiệp: những công nghệ mới (như công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin…), các kỹ thuật điện tử và công nghiệp hoá không ngừng được cải tiến và nâng cao. Để tranh thủ công nghệ mở, rút ngắn thời gian, hạn chế nguy cơ tụt hậu thì cần thiết phải hiện đại hoá trong quá trình công nghiệp hoá.
Thứ hai, trước đây công nghiệp hoá nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc; ngày nay công nghiệp hoá hiện đại hoá nhằm mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cả nước đã thống nhất.
Thứ ba, công nghiệp hoá hiện đại hóa được tiến hành trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước đưa ra các chính sách vĩ mô, đường lối, cho phép các chủ thể sản xuất có quyền tự chủ trong sản xuất và kinh doanh.
Thứ tư công nghiệp hoá hiện nay diễn ra trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập kinh tế thế giới nên không thể đi theo mô hình hướng nội như trước đây mà phải là mô hình hướng nội.
1.2.Tính tất yếu của công nghiệp hoá hiện đại hoá .
Nhiệm vụ quan trọng quan trọng nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phải xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến.Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ nói trên , nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá.Mỗi một phương thức sản xuất có một cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng: chủ nghĩa tư bản _ cơ sở vật chất kỹ thuật là nền công nghiệp cơ khí hoá; còn trong chủ nghĩa xã hội đó là nền đại công nghiệp cơ khí hoá dựa trên khoa học tiên tiến thống trị toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém, trình độ của lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được thiết lập, chưa được hoàn thiện.Vì vậy công nghiệp hoá chính là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hoá là một bước tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Trong thời đại ngày nay, để tranh thủ những công nghệ khoa học kỹ thuật hiện đại, rút ngắn thời gian, hạn chế tụt hậu, quá trình công nghiệp hoá nước ta tất yếu gắn với hiện đại hoá. Chúng ta phải chủ động, sáng tạo nắm lấy thời cơ, phát huy những thuận lợi để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo ra thế và lực mới để vượt qua những khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế tăng trưởng, phát triển bền vững.
1.3. Vai trò của công nghiệp hoá.
Sau khi xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, tiến hành thực hiện các chính sách đổi mới, 20 năm qua đất nước ta đã có những bước tiến đáng kể về cả kinh tế, chính trị và xã hội. Trong đó công nghiệp hoá hiện đại hoá có tác dụng tới mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội.
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm thấp. Do đó cần phải công nghiệp hoá hiện đại hoá để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất, trang bị công nghệ kỹ thuật tiên tiến, cơ sở hạ tầng tốt cho nền kinh tế nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Nếu công nghiệp hoá hiện đại hoá đạt được một số thành công nhất định thì sẽ có điều kiện về vật chất kinh tế kỹ thuật để có một cơ sở hạ tầng tốt. Khi đó nền kinh tế sẽ phát triển ở một mức cao hơn và tất nhiên đời sống của nhân dân cũng sẽ được nâng cao hơn.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá có tác dụng xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Cần phải hoàn thiện được quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thì mới có thể có được một hình thái kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa vững chắc và lâu dài.
Theo định hướng xã hội chủ nghĩa: dựa trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phát triển hoàn thiện theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước phát triển tất yếu đã được lịch sử chứng minh (ví dụ như qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa).
Nền kinh tế tăng trưởng và phát triển với nhiều thành tựu của công nghiệp hoá hiện đại hoá đem lại, là cơ sở kinh tế để củng cố và phát triển khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh và hiệu quả của bộ máy kinh tế nhà nước, củng cố và phát triển các bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Chỉ khi giai cấp công nhân, nông dân và trí thức cùng nhau đoàn kết để xây dựng đất nước thù mới có thể tiến tới xã hội chủ nghĩa. Đường lối chính sách của Đảng đúng đắn và thành công mới có thể tạo dựng được lòng tin và trung thành trong mỗi người dân.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá góp phần xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, tiềm năng, lợi thế so sánh, tham gia vào phân công lao động hợp tác quốc tế. Xu thế hiện nay là toàn cầu hoá hội nhập kinh tế thế giới nên nếu ta thực hiện được điều trên thì sẽ có thể rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trên thế giới và có thêm nhiều cơ hội lớn cho phát triển.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá có tác dụng xoá bỏ sự ngăn cách thành thị- nông thôn, công nhiệp- nông nghiệp, trên cơ sở đó thực hiện liên minh công nông. Đây là cơ sở để thực hiện việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cmac đã chỉ ra rằng mâu thuẫn cơ bản của xã hội chính là nảy sinh từ lợi ích giữa người với người, sự cách biệt giàu nghèo và quyền lực. Do đó nhận định này là hoàn toàn đúng đắn.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá còn góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế quốc phòng, giữ vững và đảm bảo độc lập chủ quyền quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Phải phát triển được đất nước thì mới có thể có khả năng về kinh tế và kỹ thuật công nghệ để phát triển quốc phòng. Đặc biệt trong thời đại chạy đua vũ trang hàng loạt ngày nay thì diều này là rất quan trọng.
Với tác dụng về mọi mặt, công nghiệp hoá hiện đại hoá được xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong cả thời kỳ quá độ, có hoàn thành được nhiệm vụ này thì mới đạt được mục tiêu chủ nghĩa xã hội và các nhiệm vụ khác đều được thực hiện dựa trên cơ sở và xoay quanh nhiệm vụ này.
2. Thực tế quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta.
2.1. Mục tiêu và những quan điểm cần quán triệt trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá tại Đại hội VII là: “Xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tjnh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh”. Mục tiêu trong những năm trước mắt là tập trung đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn và phát triển mạnh các chế biến nông lâm thuỷ sản.
Các quan điểm của Đảng Cộng Sản về công nghiệp hoá hiện đại hoá: giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế; công nghiệp hoá hiện đại hoá là công việc của toàn dân, mọi thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo;lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản để phát triển bền vững; phát triển khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, tranh thủ khoa học công nghệ hiện đại; lấy hiệu quả kinh tế-xã hội làm tiêu chuẩn để xác định phương án, lựa chọn dự án đầu tư; kết hợp chặt chẽ việc phát triển kinh tế với củng cố an ninh.
2.2. Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá hiện đại hóa ở nước ta.
Thứ nhất: phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, đó là nền sản xuất cơ khí hoá dựa trên những thành tựu tiên tiến hiện đại. Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí tức là chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp.Nhưng trong điều kiện hiện nay trên thế giới đang diễn ra cuộc Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại thì để tranh thủ công nghệ mới tiên tiến cần phải kết hợp cả những bước đi tuần tự và nhảy vọt và cả qui mô lớn-vừa-nhỏ trong đó chủ yếu là vừa-nhỏ để khai thác tiềm năng. Nước ta chủ trương lấy việc phát triển khoa học công nghệ làm động lực để thúc đẩy cho nên cần xác định rõ phướng hướng chiến lược phát triển khoa học công nghệ; một mặt vừa phát huy được lợi thế vừa tận dụng được những khả năng công nghệ mới (công nghệ sinh học, công nghệ thông tin…).Nhà nước tạo điều kiện cần thiết cho sự phát triển công nghệ như về vốn, nguồn nhân lực, cơ chế chính sách…
Thứ hai: chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá và hợp lý. Dựa trên quá trình cơ khí hoá, quá trình phân công lao động diễn ra có tính qui luật: chuyển một phần lao động nông nghiệp sang các ngành kinh tế khác như công nghiệp, dịch vụ…, và gắn liền với nó là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế là cấu trúc của nền kinh tế bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu thành phần kinh tế trong đó cơ cấu ngành là quan trọng nhất. Sự chuyển dịch cơ cấu hợp lý là sự chuyển dịch đáp ứng được yêu cầu: tỷ trọng nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ… tăng dần; trình độ khoa học kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ phù hợp với xu huớng phát triển khoa học công nghệ trên thế giới; cho phép khai thác những tiềm năng của đất nước mang lại hiệu quả kinh tế; là một cơ cấu mở, hội nhập kinh tế thế giới, thực hiện phân công hợp tác quốc tế.
Thứ ba: thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nhằm phát triển lực lượng sản xuất trên cơ sở đó thiết lập, củng cố quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Trình độ phát triển xã hội hoá lực lượng sản xuất càng cao thì chế độ công hữu ngày càng được củng cố hoàn thiện và dần chiếm ưu thế tuyệt đối.
Trong những năm trước mắt, Đảng và Nhà nướcđã đưa ra những nội dung cụ thể như sau:
Cần đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.Trong đó chú ý khai thác tiềm năng nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp; trước hết đảm bảo lương thực cho xã hội, sau đó tạo ra nguồn nguyên liệu cho công nghiệp tạo hàng hoá xuất khẩu. Công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là tiến hành cơ giới hoá, kỷ luật hoá, cách mạng sinh học, xây dựng cở sở hạ tầng.
Phát triển các ngành công nghiệp, ưu tiên chế biến lương thực thực phẩm, hàng hoá tiêu dùng xuất khẩu, xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp.
Chú trọng cải tạo, mở rộng nâng cấp, xây mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng (đường giao thông, cầu cống. năng lượng, thuỷ lợi…). Kết cấu hạ tầng có vai trò quan trọng trong kinh tế nhưng do hạn chế về vốn nên trước mắt chỉ tập trung vào cải tạo, mở rộng và nâng cấp; việc xây dựng mới phải tập trung vào những khâu trọng điểm như cầu, đường, năng lượng…
Phát triển du lịch và các ngành dịch vụ: phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh ngành du lịch nhằm khai thác tiềm năng, tăng thu nhập, tạo việc làm; phát triển các nghành dịch vụ như hàng không, tài chính ngân hàng, pháp lý thương mại…
Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ, chuyển dịch cơ cấu vùng và lãnh thổ để khai thác lợi thế tiềm năng của từng địa phương nhưng phải gắn phát triển kinh tế xã hội với củng cố an ninh quốc phòng; quan tâm đến các vùng miền núi, miền sâu miền xa, có chính sách hỗ trợ đặc biệt là xoá đói giảm nghèo.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trong xu thế toàn cầu hoá, mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới là tất yếu cần thiết. Công nghiệp hoá hiện đại hoá theo chiến lược mở cửa, hướng ngoại.
2.3. Một số kết quả thu được sau gần 20 năm đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển quan trọng:
Bắt đầu từ năm 1986,nền kinh tế đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục.Trong 10 năm 1991-2000, GDP tăng bình quân 7,56%; tuy hai năm 1998-1999, nền kinh tế có tăng trưởng chậm hơn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á nhưng đến năm 2001 mức tăng trưởng lại đạt đến 6,9%; năm 2002 là 7,04%; năm 2003 là 7,24%. Từ năm 1991 đến nay, sản xuất không chỉ đáp ứng được tiêu dùng mà còn giành một phần để tích luỹ (năm 1991: 10,15; năm 1995: 20%; năm 2000: 27% GDP). Chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và sản phẩm có chuyển biến. Danh mục có khả năng cạnh tranh khá trên thị trường ngày càng được mở rộng, một số sản phẩm thương hiệu Việt Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Cơ cấu của nền kinh tế có bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá, phát huy các lợi thế so sánh. Trong cơ cấu kinh tế chung, xét về giá trị sản phẩm (GDP) và về lao động, tỷ trọng cả khu vực II (công nghiệp và xây dựng) và khu vực III (các nghành dịch vụ) đã tăng lên, tỷ trọng khu vực I (nông lâm nghiệp và thuỷ sản) đã giảm xuống. Tỷ trọng khu vực I năm trong GDP năm 1986 là 34,7%, năm 1995 là 26,3%, năm 2000 là 24,5%, năm 2003 là 21,7%. Tỷ trọng khu vực II trong GDP năm 1986 là 26,8%, năm 1995 là 29,9%, năm 2000 là 36,7%, năm 2003 là 40,5%. Tỷ trọng lao động nông, lâm, ngư trong lao động xã hội năm 2000 là 68,2%, năm 2002 là 66%. Cơ cấu các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ có chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế so sánh, gắn với đáp ứng nhu cầu thị trường. Các ngành kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiếp cận công nghệ tiên tiến hiện đại; tốc độ chuyển giao công nghệ tăng; trình độ công nghệ của một số ngành có bước tiến rõ rệt. Các địa phương có sự chuyển động đều hơn trong phát triển kinh tế; ngày càng có nhièu tỉnh thoát ra khỏi tình trạng lúng túng, trì trệ, có bước chuyển biến đáng kể. Các vùng kinh tế đều đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển mạnh hơn công nghiệp, dịch vụ và các sản phẩm có lợi thế. Hai vùng kinh tế trọng điểm ở phía nam và bắc phát huy được tiềm năng, lợi thế, ngày càng đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của cả nước (chiếm khoảng 52,3% GDP cả nước). Các khu vực công nghiệp, các khu kinh tế cửa khẩu và một số vùng sản xuất chuyên môn hoá cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp đã dần được phát triển, có những bước chuyển biến khá hơn.
Thực hiện có chủ trương giữ vững độc lập, tự chủ về kinh tế; có tiến bộ đáng kể trong việc phát huy các nguồn nội lực cuả đất nước, của các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển; đồng thời tiếp tục mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước ban hành nhiều cơ chế, chính sách để tháo gỡ vướng mắc, khơi dậy nguồn lực trong nhân dân đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh. Tỷ lệ huy động vốn đầu tư trong GDP tăng dần (năm 2000 là 34%, năm 2002 là 34,3%, năm 2003 là 35%). Trong cơ cấu vốn đầu tư xã hội, tỷ trọng vốn huy động trong nước gia tăng (nguồn vốn trong nước chiếm 70% tổng vốn đầu tư), nguồn vốn huy động trong dân tăng mạnh. Doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ được các vị trí trọng yếu của nền kinh tế, có đóng góp lớn nhất vào các nguồn thu nội địa của ngân sách. Năm 2005, tổng xuất khẩu là 32,1 tỉ $, nhập khẩu là 36 tỉ $, tổng thu nhập quốc dân là 50 tỉ $.
Kinh tế nước ta ngày càng hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới; quan hệ quốc tế dược củng cố và mở rộng. Thực hiện các hiệp định song phương và đa phương với các nước trên thế giới như Mỹ, Nhật, EU…, tham gia tích cực việc hình thành khu vực mậu dịch tự do Asean với Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, tiến tới gia nhập WTO.
Thể chế kinh tế tiếp tục được đổi mới, hình thành và phát triển các loại thị trường. Bổ sung, hoàn thiện thêm khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của các loại thị trường; xác định cơ chế mới quản lý doanh nghiệp nhà nước; sửa đổi bổ sung các đạo luật nhằm khuyến khích sự phát triển…
Dù đã gặt hái được nhiều thành công nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều yếu kém, khuyết điểm:
Tốc độ tăng trưởng chưa tương xứng với mức tăng đầu tư và tiềm năng của nền kinh tế. Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, chậm được cải thiện (theo Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2003 thì năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam năm 2001 và2002 đứng thứ 60 trên tổng số 75 nước so sánh). Kinh tế phát triển chưa bền vững.
Cơ cấu kinh tế còn chậm chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, nhất là hiện đại hoá. Công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn còn chậm và có nhiều lúng túng, mang nặng tính tự phát, thiếu bền vững.Nhiều vấn đề nông nghiệp nông thôn, nông dân chậm được giải quyết hơn nữa trình độ của người lao động chưa thực sự được nâng cao. Trong công nghiệp, công nghiệp gia công, lắp ráp còn chiếm tỷ trọng lớn, tốc độ đổi mới công nghiệp trong các ngành kinh tế còn chậm.Tỷ trọng dịch vụ trong GDP giảm, cơ cấu các ngành dịch vụ ít thay đổi, các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao phát triển chậm, còn thiếu nhiều dịch vụ chất lượng cao. Cơ cấu lao động chuyển dịch chậm; lao động nông nghiệp chuyển sang các ngành nghề khác nhau còn rất khó khăn, áp lực dư thừa lao động sẽ vẫn còn là vấn đề gay gắt. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đi mạnh vào phát triển công nghệ cao và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá để phát huy lợi thế và có sức tác động thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của toàn vùng. Các chủ trương về phát triển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung chậm được thực hiện. Kinh tế nhiều vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn và có sự lúng túng về phướng hướng phát triển. Việc đô thị hoá chưa dựa trên nền tảng phát triển kinh tế, thiếu qui hoạch; tình trạng yếu kém, quá tải của hệ thống cơ sở hạ tầng các đô thị lớn chậm được khắc phục. Cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế còn nhiều bất hợp lý, kém hiệu quả do chưa có chính sách chuyển dịch cơ cấu dài hạn, đầu tư dàn trải, phân tán, công trình dở dang nhiều, một số công trình đầu tư lớn nhưng hiệu quả thấp, sử dụng ít lao động; cơ cấu nhiều khu công nghiệp dập khuôn, trùng lặp, chưa cân nhắc kỹ lợi thế so sánh và thiếu quy hoạch tổng thể cả nước.
Chưa phát huy được lợi thế về ổn định chính trị- xã hội để thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Còn thiếu chủ động chuẩn bị để đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Hệ thống thị trường chậm được hình thành, thiếu đồng bộ và có nhiều khiếm khuyết. Thị trường vốn còn sơ khai. Còn thiếu khung pháp lý về cạnh tranh và chống độc quyền, chống bán phá giá trong kinh doanh. Thị trường chứng khoán quy mô nhỏ bé, phát triển không đáng kể, thiếu sôi động, chưa có sự tham gia của các doanh nghiệp lớn. Thị trường “ngầm” về nhà đất phát triển manh, mang nặng tính tự phát và yếu tố đầu cơ. Thị trường lao động còn nhiều khiếm khuyết, mất cân đối. Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm, còn nhỏ bé.
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đi với nền kinh tế còn thấp.
3. Một số biện pháp đốí với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
Thứ nhất, phải huy động các nguồn vốn và sử dụng có hiệu quả. Phải biết khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế để giải phóng sức lao động, tăng năng suất lao động xã hội để có thể tạo được thặng dư của các ngành, tích luỹ vốn cho nền kinh tế quốc dân. Nước ta có những nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài dưới nhiều hình thức như vốn đầu tư trực tiếp FDI, vốn vay ODA hay của các chính phủ, tổ chức tập đoàn kinh tế. Để thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài nhất là đầu tư trực tiếp từ các tập đoàn xuyên quốc gia vào các ngành kinh tế quan trọng thì cần phải tạo môi trường thuận lợi như ổn định về chính trị, hệ thống thủ tục pháp lý, đầu tư sử dụng có hiệu quả vốn… Đặc biệt cần phải sử dụng tiết kiệm, đầu tư có trọng điểm và có hiệu quả, kiên quyết chống lãng phí, thất thoát, tham ô…
Thứ hai công nghiệp hoá hiện đại hoá đòi hỏi cần phải phát triển nguồn nhân lực thực sự đáp ứng được yêu cầu về cả số lượng và chất lượng cũng như cơ cấu (cơ cấu ngành nghề và cơ cấu trình độ). Việc đào tạo nguồn nhân lực là chiến lược phát triển nhưng phải được cụ thể hoá trong từng giai đoạn. Đào tạo nhân lực đi đôi với sử dụng có hiệu quả, phải thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ về mọi mặt đặc biệt là ý thức chính trị để đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Thứ ba, cần phải có chiến lược để phát triển tiềm lực khoa học quốc gía, có những chính sách khuyến khích nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, biết tận dụng những kinh nghiệm cũng như khoa học kỹ thuật của các nước tiên tiến trên thế giới.
Thứ tư trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới, công nghiệp hoá hiện đại hoá phát triển theo hướng mở cửa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Thứ năm là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước_tiền đề quyết định sự thắng lợi của công nghiệp hoá hiện đại hoá. Thực chất công nghiệp hoá hiện đại hoá là một cuộc Cách mạng, là sự nghiệp cuả toàn Đảng toàn dân do đó phải phát huy sức mạnh toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng: Đảng thông qua đường lối, phương hướng chiến lược của công nghiệp hoá hiện đại hoá; Nhà nước cụ thể hoá đường lối, tổ chức thực hiện bằng các nhiệm vụ cụ thể và bằng các công cụ chính sách vĩ mô.
Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh quá trình hiện đại hoá công nghiệp hoá, phát triển đất nước. Những giải pháp này cũng đã được Đảng và Nhà nước quán triệt thực hiện một cách hiệu quả nhất trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay ở nước ta.
C-Lời kết.
Sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, nhờ những thành tựu to lớn và rất cơ bản mà nhân dân ta đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực, đưa đất nước ta lên một vị trí mới trên trường quốc tế. Những thành công trên con đương đổi mới đầy khó khăn gian khổ ấy rất đáng để chúng ta có thể tự hào. Tuy nhiên, đó chưa là tất cả những gì chúng ta cần phải làm để đưa đất nước Việt Nam đạt tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Thực tế Việt Nam ngày nay có rất nhiều cơ hội và cả những thách thức lớn trong khi con đường quá độ lên chu nghĩa xã hội vẫn còn dài. Vì vậy việc nắm bắt kịp thời các cơ hội, đưa ra các đường lối chính sách đúng đắn về công nghiệp hoá hiện đại hoá phát triển đất nước là vô cùng cần thiết. Vai trò của công nghiệp hoá hiện đại hoá trong quá trình đổi mới và hội nhập rất lớn. Dưới sự dẫn dắt của Đảng và với những khả năng tiềm lực của một đất nước, một dân tộc với hơn 4 nghìn năm lịch sử hào hùng; nhân dân ta đã, đang và sẽ luôn vững bước đi tới trên con đường đã chọn. Là một người con của dân tộc “con rồng cháu tiên”, là một công dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hơn thế nữa là một người chủ tương lai của đát nước, em sẽ luôn cố gắng phấn đấu hết sức mình đóng góp một phần nhỏ bé vào quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay để phát triển đất nước như Bác Hồ mong đợi “đưa nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu thế giới”.
Danh mục tài liệu tham khảo.
Giáo trình triết học Mác- Lênin.
Nhà xuất bản chính trị quốc gia_ năm 2005.
Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin.
Nhà xuất bản chính trị quốc gia_ năm 2001.
Văn kiện hội nghị lần thứ IX Ban chấp hành Trung ương khoá IX.
Nhà xuất bản chính trị quốc gia_ năm 2004.
Giáo trình lịch sử kinh tế.
Nhà xuất bản thống kê_ năm 2005.
Niêm giám thống kê năm 2003.
Nhà xuất bản thống kê_ năm 2004.
6- Báo phát triển kinh tế- số 175- tháng 5/2005.
Kinh tế việt Nam: Những vấn đề đặt ra cho sự phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới _ PGS-TS Hồ Đức Hùng.
7- Thời báo kinh tế Việt Nam- số2- tháng1/2003.
Mục lục
A- Lời nói đầu. 1
B- Nội dung. 3
1. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. 3
1.1. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là gì? 3
1.2.Tính tất yếu của công nghiệp hoá hiện đại hoá . 4
1.3. Vai trò của công nghiệp hoá. 5
2. Thực tế quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta. 7
2.1. Mục tiêu và những quan điểm cần quán triệt trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. 7
2.2. Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá hiện đại hóa ở nước ta. 7
2.3. Một số kết quả thu được sau gần 20 năm đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá. 9
3. Một số biện pháp đốí với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. 12
C-Lời kết. 14
Danh mục tài liệu tham khảo. 15
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50402.DOC