Trong quá trình xây dựng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý phải coi trọng các yếu tố thị trường. Hoạt động đầu tư nên cải tiến theo hướng thu hẹp phạm vi đầu tư dựa trên những quy định hành chính của cơ quan nhà nước. Mở rộng phạm vi đầu tư do các tổ chức sản xuất kinh doanh lựa chọn trên cơ sở định hướng của nhà nước và thực tiễn vận động của thị trường. Các dự án nên tập trung làm tốt khâu nghiên cứu thị trường. Xác định khả năng cung ứng và nhu cầu tiềm năng nhằm tránh trường hợp mất cân đối cung cầu ảnh hưởng đến tình hình đầu tư và sản xuất như một số mặt hàng trong thời gian qua, dẫn đến các tác động tiêu cực làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động đầu tư cụ thể mà tập trung làm tốt việc dự báo, cung cấp thông tin kinh tế, định hướng đầu tư. Phải biết phân tích và đánh giá các dự án đầu tư, để biết được đầu tư có hiệu quả hay không. Nhà nước phải dự báo và phân tích các thông tin kịp thời, kịp lúc để các nhà đầu tư có thể nhận biết được sự thay đổi của thị trường. Đầu tư theo phong trào là một việc làm rất nguy hiểm có thể dẫn đến sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp. Chính điều đó sẽ làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế bị chậm lại. Vì vậy cần phải tránh đầu tư theo phong trào để có thể tránh những hậu quả xấu do nền kinh tế thị trường mang lại.
43 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1240 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của đầu tư tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác rừng vô tổ chức, vô kế hoạch, khai thác một cách hủy hoại tài nguyên rừng, trong khi công tác trồng và tu bổ rừng rất yếu kém.
Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp không gắn chặt với việc xây dựng nông thôn.
Các hoạt động phi nông nghiệp ( tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến, thương mại dịch vụ, giao thông vận tải....) kém phát triển. Chính sự mất cân đối này đã và đang trở thành nhân tố tiêu cực, cản trở và kìm hãm sự phát triển của bản thân nông nghiệpvà bảo đảm đời sống của nhân dân.
Thứ tư, giữa nông nghiệp và công nghiệp, dịch vụ chưa tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất.
Trên bình diện chung có thể thấy công nghiệp có những đóng góp nhất định cho sự chuyển biến vượt bậc của nông nghiệp ở mức độ nhất định đã tạo ra những điều kiện thuận lợi hơn cho phát triển công nghiệp. Nhưng đi vào khía cạnh cụ thể, có thể thấy sự chuyển biến của mối quan hệ giữa chúng để tạo lập cơ cấu kinh tế thống nhất còn chậm chạp và nhỏ bé.
Một số hạn chế trong phát triển ngành nông nghiệp:
Thứ nhất, Đất đai canh tác – tư liệu sản xuất chủ yếu không có gì thay thế được – là một đại lượng có hạn và đang có xu hướng giảm dần.
Hiện nay ở nước ta việc quản lý và sử dụng đất đai đang đứng trước một loạt mâu thuẫn. Những mâu thuẫn này không dễ gì có thể giải quyết được Dù đã có những mệnh lệnh cấm chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp ở những vùng trọng điểm, nhưng trên thực tế, bằng cách này cách khác, diện tích đất nông nghiệp vẫn đang bị thu hẹp mạnh.
Thứ hai, Tác động tích cực của những động lực tạo ra từ những năm đầu đổi mới cơ chế quản lý đang đi dần đến đỉnh điểm của sự tới hạn.
Sự giới hạn trong tác động của những động lực hiện tại còn biểu hiện trên nhiều mặt khác:
+ Sự cách biệt ngày càng lớn giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi.
+ Giá cánh kéo giữa hàng nông phẩm thô và hàng tư liệu sản xuất (vật tư nông nghiệp ), hàng tiêu dùng thiết yếu có xu hướng ngày càng mở rộng; hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô hoặc chế biến đơn giản.
Thực tiễn cho thấy, bên cạnh việc chú trọng áp dụng những thành tự khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học, vào sản xuất nông nghiệp, cần tìm trong những nhân tố kinh tế – xã hội những động lực trực tiếp, mạnh mẽ mới cho sự phát triển nông nghiệp và nông thôn.
+ Sự manh mún phân tán của kinh tế hộ hạn chế trực tiếp khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ và phát triển các vùng chuyên canh.
Kinh tế hộ nông nghiệp và nông thôn bộc lộ những nhược điểm nhất định, mà rõ nhất là ở hai phương diện:
* Khả năng ứng dụng các thành tựu mới của khoa học công nghệ.
* Khả năng hình thành và phát triển ổn định các vùng chuyên canh.
+ Tiềm năng thủy sản lớn nhưng chưa phát huy được thế mạnh, khả năng khai thác còn hạn chế.
Trong những năm qua, thủy sản được phát triển khá mạnh và toàn diện trên cả phương diện nuôi trồng, khai thác và chế biến. Nhưng kết quả đạt còn nhỏ bé so với tiềm năng kinh tế của đất nước. Tuy vậy, sự phát triển này hiện đang đương đầu với một loạt khó khăn:
* Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ đánh bắt còn thấp kém, việc đánh bắt hải sản chủ yếu mới thực hiện ở vùng biển gần, chưa đủ sức vươn ra khơi xa. Việc đầu tư tăng cường cưo sở vật chất lại gặp khó khăn về vốn liếng và cơ cấu tổ chức.
* Công nghệ chế biến thấp kém, công nghệ cjhế biến mới dừng ở mức sơ chế, giá trị kinh tế của xuất khẩu thấp.
* Việc phát triển nuôi trồng thủy sản vùng nước lợ ở nhiều vùng đã dẫn đến tình trạng tàn phá rừng tràm, rừng đước nguyên sinh, phá hoạt môi trường sinh thái.
* Nguy cơ tiềm tàng về bất ổn định do tranh chấp vùng biển đông cùng có tác động tiêu cực đến sự phát triển khai thác thủy sản.
Ngành dịch vụ phát triển chậm so với tiềm năng và khả năng có thể khai thác được. Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP có xu hướng giảm, trong đó thương nghiệp chỉ chiếm khoảng 14,5% GDP là quá thấp. Dịch vụ vận tải kho bãi, thông tin liên lạc mặc dù đã có những bước tiến khá nhanh, nhưng cũng chỉ mới chiếm gần 4% GDP. Ngành du lịch, một ngành đầy triển vọng mang lại giá trị cao với 5 di sản thiên nhiên thế giới và hàng nghìn thắng cảnh nổi tiếng có thể khai thác tốt, đặc biệt là khi Việt Nam được coi là điểm đến an toàn nhất Châu á. Vậy mà ngành công nghiệp không khói này cũng mới chỉ đóng góp khoảng 3,1% vào GDP. Nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng yếu kém về cả cơ sở vật chất lẫn phương thức hoạt động, sự quản lý lỏng lẻo và không có chiến lược phát triển rõ ràng . Các loại hình dịch vụ khác như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, vận tải hàng không, đường biểncũng vẫn còn chậm phát triển và đóng góp vào GDP không nhiều.
Bên cạnh những xu thế vận động tích cực đã nêu trên, sự phát triển thương mại dịch vụ ở nước ta cũng đã lộ rõ những tồn tại, yếu kém đó là:
Thứ nhất, sự phát triển thương mại dịch vụ chưa gắn bó chặt chẽ với sự phát triển các ngành kinh tế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành kinh tế quốc dân.
Về nguyên tắc, sự phát triển tương mại – dịch vụ phải dựa trên cơ sở sự phát triển các ngành sản xuất và có tác động tích cực đến sự phát triển các ngành ấy. Trên thực tế, sự thiếu gắn bó trong phát triển thương mại dịch vụ với các ngành khác thể hiện trên những khía cạnh sau đây:
* Cơ cấu các mặt hàng kinh doanh chưa thật sự hợp lý so với cơ cấu sản xuất và cơ cấu tiêu dùng cuản toàn xã hội. Từ nhấn mạnh yêu cầu “phục vụ” trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, trong cơ chế mới, thiên hướng “Kinh doanh thuần tuý” chạy theo những mặt hàng có lợi nhuận cao, tập trung vào thị trường thành phố, đồng bằng...bộc lộ ngày càng rõ nét. Từ đó dẫn đến tình trạng mà người ta vẫn gọi là thương mại đã “bỏ trống nhiều trận địa”: Hàng tư liệu sản xuất thông thường, hàng tiêu dùng thiết yếu cho vùng cao, vùng sâu và vùng nông thôn.
* Tiềm năng xuất khẩu chưa được khai thác đầy đủ, thị trường xuất khẩu không ổn định đã hạn chế việc sử dụng các khả năng sản xuất hiện có và có thể, Hàng nhập khẩu là nguyên vật liệu để sản xuất tư liệu tiêu dùng chiếm tỷ trọng lớn. Nhiều hàng tiêu dùng nhập khẩu là những hàng hoá trong nước có khả năng sản xuất đã gây nên khó khăn cho sản xuất trong nước. Các tư liệu lao động ( thiết bị ) nhập khẩu có trình độ thấp, chưa thúc đẩy hiệu quả của qúa trình đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ của các ngành sản xuất.
* Hệ thống dịch vụ phát triển mạnh, nhưng chủ yếu hướng vào dịch vụ sinh hoạt. Đó là lĩnh vực có khả năng sinh lợi lớn mà rủi ro trong kinh doanh thấp.
Thứ hai, với tư cách là môi trường thực hiện sự giao lưu đổi đổi hàng hoá giữa các chủ thể kinh tế, hệ thống thị trường ở nước ta mới đang trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành, vì thế chúng chủ yếu còn ở dạng sơ khai, manh nha và thiếu đồng bộ.
Với một môi trường như vậy, việc phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá tất yếu gặp những khó khăn cản trở, lợi thế từng vùng không được phát huy đầy đủ. Tình trạng sơ khai manh nha và thiếu đồng bộ của các thị trường là bạn đồng hành của tình trạng thiếu hoàn thiện và đồng bộ của hệ thống chính sách và luật pháp về kinh tế. Chính trong bối cảnh đó mà những khuyết tật của thị trường đã phát sinh và phát triển tới mức không thể không nói là mạnh mẽ. chẳng hạn, tình trạng buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả... Thật ra, việc hình thành đồng bộ thị trường và hệ thống các chính sách, luật pháp là một quá trình. Tình trạng giao thoa, đan xen giữa cơ chế quản lý cũ và cơ chế quản lý mới trong những giai đoạn nhất định của quá trình chuyển đổi là không tránh khỏi. Nhưng tình trạng ấy đã bị lợi dụng và gây ra những nhiễu loạn nhất định trong sản xuất và lưu thông hàng hoá. Cũng chính trong bối cảnh này, những “ tín hiệu” phát ra từ thị trường không phải lúc nào cũng hoàn toàn xác thực và do vậy, người gặp khó khăn trước hết vẫn là các doanh nghiệp sản xuất.
Thứ ba, cơ cấu thị trường hàng hoá giữa các vùng, các khu vực phát triển không đều
Trên tổng thể toàn bộ lãnh thổ đất nước có thể thấy rằng thị trường thành phố, các trung tâm dân cư và các cửa khẩu biên giới phát triển nhanh, Nhịp độ hoạt động khẩn trương, hàng hoá phong phú và đa dạng. Trong khi đó thị trường nông thôn , đặc biệt là là thị trường miền núi, vùng sâu, vùng xa rất chậm phát triển, nếu không muốn nói là tụt lùi so với những năm dưới thời bao cấp. Đương nhiên, không thể nào có sự phát triển đồng đều trên tất cả các vùng, vì khả năng, điều kiện của các vùng rất khác nhau. Song sự phát triển phiếm diện của thị trường ở các vùng phản ánh sự phiến diện trong khai thác tiềm năng lợi thế của các vùng và trách nhiệm của thương mại dịch vụ trong việc đáp ứng nhu cầu hàng hóa của các vùng, qua đó thực hiện sự bình đẳng về kinh tế xã hội của dân cư các vùng. Trong thực tế đã xẩy ra nghịch lý tài nguyên sơ khai ở miền núi (lâm sản, sản phẩm cây công nghiệp dài ngày...) bị thu hút mạnh về các thành phố, trung tâm công nghiệp lớn, trong khi các nơi khai thác tài nguyên có trình độ kinh tế xã hội vẫn thấp kém, dân cư ở đó vẫn thiếu hàng hóa tiêu dùng thiết yếu (gạo, mắm muối, vải, kim, chỉ,,,). Nói cách khác rằng hàng đi – về không cân xứng đã đào sâu thêm hố ngăn cách và làm tăng thêm sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, miền núi và miền xuôi.
Việc chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế chịu tác động của nhiều yếu tố: thị trường, tiến bộ khoa học – công nghệ, các nguồm lực, định hướng phát triển của Chính Phủ, kinh tế đối ngoại, điều kiện, môi trường lịch sử xã hội của sự phát triển kinh tế .....ở đây xin nêu một số yếu tố ảnh hưởng sau đây:
Thị trường, đặc biệt là nhu cầu và tình hình cạnh tranh trên thị trường (trong và ngoài nước) là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đầu tiên tới cơ cấu ngành của nền tế. Chính nhu cầu, cơ cấu nhu cầu và xu thế vận động của chúng đặt ra những mục tiêu cần vươn lên để thỏa mãn, là cơ sở để đảm bảo tính thực thi và hiệu quả của phương án cơ cấu ngành của nền kinh tế.
Những định hướng chiến lược và vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước cũng có vai trò rất quan trọng đối với việc hình thành cơ cấu ngành. Trong trường hợp phó mặc cho sự tác động của thị trường thì sự hình thành cơ cấu ngành mong muốn sẽ quá chậm, nhất là những ngành bao gồm các doanh nghiệp hoạt động không vì mục đích lợi nhuận hoặc mức lãi thấp (sản xuất hàng hóa công cộng, nguyên liệu cho công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng .....). Ngược lại, những định hướng thiếu cơ sở khách quan. hoặc sự can thiệp quá sâu của Nhà nước trong quá trình thực hiện đều dẫn tới chỗ hình thành cơ cấu ngành kém hiệu quả.
Tác động của tiến bộ khoa học – công nghệ có ảnh hưởng nhiều mặt đến cơ cấu ngành của nền kinh tế. ở nước ta, yếu tố này đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển một số ngành như dầu khí, điện tử... làm thay đổi quy mô, tốc độ phát triển của các ngành chế biến, dịch vụ.
III. Thực trạng của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu vùng – lãnh thổ
1. Đầu tư tạo ra những chuyển biến tích cực trong kinh tế của vùng.
1.1 Đầu tư đã có những tác động tới chuyển dịch cơ cấu GDP tính theo vùng.
Trong những năm qua đầu tư đã có những tác động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu GDP tính theo vùng. Tỷ trọng GDP của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tăng 1,72%, trong khi đó tỷ trong dân số của vùng này chỉ tăng 0,4% nghĩa là tỷ trọng GDP tăng nhanh hơn tỷ trọng tăng dân số. Tỷ trọng GDp vùng Tây Nguyên tăng 0,16%trong khi tỷ trọng dân số tăng 0,87% làm cho GDP bình quân đầu người của Tây Nguyên so vơi cả nước giảm đi 0,2%, cùng giảm tỷ lệ GDP bình quân đầu người so với cả nước là vùng Trung du và miền núi Bắc bộ giảm đi 0,03%. Như vậy dưới tác động của cải cách đầu tư, GDP của các vùng đã thay đổi theo chiều hướng tăng tỷ trọng của vùng Tây Nguyên và vùng trọng điểm kinh tế phía Nam, giảm đi ở những vùng còn lại.
Bảng về chỉ tiêu GDP theo vùng
Đơn vị: %
GDP
GDP/người so với tỷ lệ này của cả nước.
1995
1999
99-95
1995
1999
99-95
Trung du và miền núi B.Bộ
9,13
8,43
- 0,7
0,5
0,47
- 0,03
Tây nguyên
3,36
3,52
0,16
0,54
0,52
- 0,02
ĐB Sông cửu Long
26,69
25,97
- 0,72
0,95
0,97
0,02
Vùng KTTĐ Bắc bộ
18,37
17,99
- 0,38
1,33
1,33
0
Vùng KTTĐ miền trung
5,24
5,16
- 0,08
0,71
0,72
0,01
Vùng KTTĐ phía nam
37,21
38,93
1,72
2,62
2,72
0,1
Tổng số sáu vùng
100,0
100,0
(Theo nguồn: Tạp chí quản lý nhà nước)
Thực tế trong những năm qua cho thấy trong khuôn khổ sự tăng trưởng, phát triển kinh tế chung của cả đất nước là khá cao thì tốc độ giữa các địa phương (vùng, tỉnh) là khá chênh lệch. Tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt được ở những Tỉnh, những vùng có các lợi thế và điều kiện phát triển sơ bộ (cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, vốn, thị trường và tài nguyên thiên nhiên), phù hợp hơn với những đòi hỏi của cơ chế thị trường. Đó là các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Ninh – là những địa phương có cơ sở hạ tầng tương đối tốt hơn, trình độ lao động và năng lực công nghiệp cao hơn, có lợi thế khả năng tạo vốn, về tiềm năng tự nhiên hơn xét trên quan điểm thị trường. Với những ưu thế thực tế có thể khai thác và sử dụng ngay và có hiệu quả hơn như vậy, dòng vốn đầu tư, cả trong nước lẫn ngoài nước cũng tập trung mạnh hơn vào những địa phương này. Trong khi đó, ở các địa phương – nông thôn hay địa phương – miền núi, ngoại trừ sự gia tăng nào đó ở nông thôn thì tốc độ tăng trưởng chung thấp xa hơn các đô thị đáng kể. Xét theo vùng lớn, có tình trạng là vùng nào không có những đầu tàu công nghiệp - đô thị thực sự mạnh hoặc tương đối thiếu hơn ccác điều kiện phát triển sơ bộ kể trên nói chung đạt một tốc độ phát triển chỉ bằng 1/2 đến 2/3 tốc độ của các vùng khác.
Sự so sánh giữa 2 vùng Bắc Trung Bộ và Đông Nam Bộ minh họa rõ hơn nhận xét đó. Vùng Đông Nam Bộ nói chung có những điều kiện thuận lợi hơn hẳn vùng Bắc Trung Bộ để đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn trong thời gian ngắn: có các trung tâm công nghiệp đô thị lớn và cực kỳ năng động như Thành Phố Hồ Chí Minh, Biên Hòa, Vũng Tàu, có cơ sở hạ tầng tốt hơn, điều kiện tự nhiên cho sự phát triển, từ đất đai, khí hậu cho đến khoáng sản đều thuận lợi hơn. Trong khi đó, vùng Bắc Trung Bộ, nếu xét toàn bộ, mặc dù có các thành phố Huế, Vinh và gần đây là Thanh Hóa với tư cách là những Trung tâm khu vực, rõ ràng vẫn thiếu những đô thị – công nghiệp đủ sức đóng vai trò là đầu tàu tăng trưởng của vùng. Điều kiện thiên nhiên không thuận lợi cho sự phát triển nông thôn dẫn tới chỗ dân nghèo, thiếu vốn phát triển, thiếu cơ sở hạ tầng.
Bảng: Cơ cấu ngành của cả nước và của các vùng (%GDP) năm 1999:
Tỷ phần của vùng trong GDP cả nước
Công nghiệp trong GDP
Nông, lâm nghiệp trong GDP vùng
Xây dựng trong GDP của vùng
Dịch vụ trong GDP của vùng
Cả nước
22,08
28,75
7,65
41,68
Miền núi Tây Bắc
2,09
40,08
36,02
8,12
17,13
Đ.Bắc – Việt Bắc
8,56
14,13
39,15
11,02
40,16
Đ.Bằng sông Hồng
20,86
15,51
25,88
10,56
50,12
Bắc Trung Bộ
9,21
12,38
38,68
9,18
46,02
DHải miền Trung
8,05
14,07
34,75
8,02
48,02
Tây Nguyên
2,68
11,54
46,47
12,54
33,45
Đông Nam bộ
33,88
39,89
9,12
6,87
40,58
Tây nam bộ
19,56
11,31
51,02
4,38
38,08
(Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư, viện chiến lược phát triển)
1.2 Hình thành các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế trọng điểm.
Các vùng kinh tế trọng điểm thường có sức thu hút vốn đầu tư lớn, do vậy vùng ngày càng phát huy được thế mạnh và tiềm năng của vùng, nền kinh tế có điều kiện phát triển mạnh hơn. Các vùng kinh tế trọng điểm đã phát huy được thế mạnh và tiềm năng của vùng. Hiện nay 3 vùng kinh tế trọng điểm đóng góp khoảng 50% GDP, trên 2/3 sản lượng công nghiệp, thu ngân sách và xuất khẩu.
Cơ cấu kinh tế các vùng kinh tế trọng điểm đóng góp vào phát triển kinh tế chung của đất nước:
Cơ cấu GDP của 3 vùng KTTĐ so với cả nước
1995
1999
Vùng KTTĐ phía Bắc
14,10%
13,8%
Vùng KTTĐ phía Trung
4,10%
4,2%
Vùng KTTĐ phía Nam
30,6%
31,1%
Tổng 3 vùng
48,8%
49,1%
Đầu tư giúp hình thành nên các khu công nghiệp, nhờ có đầu tư mà các khu vực có nguồn lực, có phương hướng phát triển kinh tế, các nhà máy được xây dựngNhư khu công nghiệp Dung Quất ở Quảng Ngãi, có nguồn tài nguyên dầu thô sẵn có, nhưng những năm trước, do không đủ điều kiện để xây dựng hệ thống, nhà máy khai thác nên vùng vẫn chỉ như là vùng đất bình thường, sau đó vào năm 1999 nhờ có sự đầu tư về công nghiệp, máy móc, cơ sở hạ tầngNhà máy lọc Dung Quất đã ra đời, hình thành nên khu công nghiệp Dung Quất phát triển, khai thác được tài nguyên của vùng.
Khu công nghiệp Đồng Văn ở Hà Nam, 4 khu công nghiệp ở Đà Nẵng, 2 khu công nghiệp ở Thừa thiên Huế, khu công nghiệp Đồng Nai – Biên Hoà.
Bảng: Tỷ trọng đầu tư theo vùng
2000
2001
2002
Tỷ trọng Đầu tư theo vùng giai đoạn 1991 – 2000(%)
Tỷ trọng Đầu tư theo vùng giai đoạn 2001 – 2003(%)
Cả nước
6,4
6,3
6,0
100
100
Tây Bắc
6,0
5,6
5,1
7,6
8,1
Bắc trung bộ
6,9
6,7
5,8
9,0
7,8
Tây Nguyên
5,2
5,6
4,9
2,6
5
ĐB Cửu Long
6,2
6,1
5,5
15,6
15,1
(Nguồn:Vụ quản lý các vùng, Bộ Kế hoạch đầu tư)
1.3 Thúc đẩy sự phát triển kinh tế các vùng, đặc biệt là vùng khó khăn.
Nhờ nguồn vốn đầu tư, các vùng đã phát huy đực thế mạnh của mình, có điều kiện để khai thác sử dụng tài nguyên, giúp tăng trưởng kinh tế khu vực, có thể xem xét một số khu vực sau:
Khu vực vực Đồng bằng Sông Hồng: Rộng khoảng 1,5 triệu ha, chiếm hơn 4,5% diện tích cả nước với một vùng biển bao quanh ở phía đông nam. Số dân của đồng bằng là 13,6 triệu người (1989), chiếm 21,1% dân số cả nước.
Hiện tại cùng như trong tương lai, Đồng bằng sông hồng là một trong những vùng có ý nghĩa then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Đồng bằng sông hồng Có lợi thế về vị trí địa lý nơi tiếp xúc với bên ngoài của các tỉnh phía Bắc, nơi tiếp giáp với Đông Nam á và Bắc á, là trung tâm hàng đầu của đất nước. Đã thu hút được nguồn vốn đầu tư lớn thứ 2 trong cả nước.
Vốn đầu tư phát triển cho vùng vào năm 1991 – 1995 là 26,9%; năm 1996 – 2000 là 25,5% tổng số vốn đầu tư phát triển của cả nước. Nguồn vốn đó đã được đầu tư vào các dự án: Phát triển dịch vụ, khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, công nghiệp thúc đẩy sự phát triển của khu vực .
Khu vực miền núi phía Bắc: Có nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú là mái nhà xanh của Đồng Bằng Bắc Bộ, có nhiều đồi núi, sông ngòi. Tuy nhiên kinh tế Tây Bắc vẫn phát triển chậm so với nhiều vùng trong cả nước đang đứng trước nhiều khó khăn gay gắt, đời sống còn lạc hậu. Hiện nay nhà nước khuyến khích đầu tư vào khu vực này, nguồn đầu tư vào khu vực ngày càng nhiều hơn. Giai đoạn 1991 – 1995 vồn đầu tư phát triển cho vùng là 7,3%, giai đoạn 1996 – 2000 là 7,6% tổng vốn đầu tư phát triển của cả nước.
Nhờ vậy, nhiều nhà máy, khu du lịch được xây dựng, phát triển dần nâng cao đời sống nhân dân, phát triển kinh tế, thu hút nhiều hơn nguồn vốn đầu tư (tốc dộ tăng vốn đầu tư bình quân hàng năm nhanh nhát là ở miền núi phía Bắc 19% năm, các vùng khác khoảng từ 15 – 17%).
Khu vực Duyên Hải Miền Trung: Có nguồn đầu tư phát triển giai đoạn 1996 – 2000 là 11,6% tổng số vốn đầu tư phát triển của cả nước, đầu tư đảm bảo cho việc khai thác thiên nhiên,.và khu công nghiệp được hình thành và hoạt động có hiệu quả, nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Vùng Tây Nguyên: Tuy nguồn đầu tư vào vùng còn ít so với các khu vực khác, nhưng vẫn có xu hướng gia tăng vốn đầu tư. Từ 4,4% giai đoạn 1991 – 1995 đến 4,9% giai đoạn 1996 – 2000, đầu tư của Trung ương trên địa bàn vùng có tốc độ tăng rất lớn trong thời kỳ 1992 – 1994, đầu tư nước ngoài cũng đã tập trung ở Tây Nguyên ( 1995 có 23 dự án đầu tư nước ngoài). Nhờ những nguồn đầu tư này đã giúp cho vùng có điều kiện phát triển kinh tế, giao thông, thông tin, nhiều khu vực dân cư đã có điện, có ti vi,thu ngân sách của vùng năm 1995 tăng 3,7 lần so với năm 1991.Thu nhập GDP/người thời kỳ 1990 – 1994 đã tăng từ 51 USD/người năm 1990 lên 166 USD/ người năm 1994. Tuy nhiên, nguồn đầu tư vào vùng còn là quy mô nhỏ, cơ sở hạ tầng vẫn còn yếu kém, chi nhiều hơn thu, cơ cấu kinh tế còn chậm đổi mới.
Vùng còn khó khăn cũng có những tiến bộ khích lệ, mức sống của bộ phận đáng kể nông dân được nâng lên. Các chương trình hỗ trợ đầu tư của Chính phủ đã có tác động tích cực, theo con số tổng hợp sơ bộ, từ năm 1992 – 1998 tổng vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho nhiệm vụ phát triển miền núi khoảng 3000 – 3200 tỷ đồng. Trong đó, vốn đầu tư cho chương trình quốc gia khoảng trên 500 tỷ đồng ( Cả thời kỳ 1986 – 1997 khoảng trên 800 tỷ đồng). Nhiều mặt kinh tế xã hội của miền núi đã có sự chuyển biến tốt, dân trí được nâng cao, hầu hết các xã miền núi có cơ sở y tế, trường học
Mức đóng góp vào GDP của cả nước của các vùng như sau:
Đơn vị tính: %
Cơ cấu vùng lãnh thổ GDP (%)
1990
1995
1999
Chuyển dịch cơ cấu vùng
10 năm
1991 – 2000
Chuyển dịch cơ cấu vùng 5 năm
1991 – 1995
Chuyển dịch cơ cấu vùng
5 năm
1996 - 2000
Tây Bắc
2,0%
1,5%
1,2%
- 0,8
- 0,5
- 0,3
Đông Bắc
10,2%
7,4%
6,3%
- 3,9
- 2,8
- 1,1
ĐB Sông Hồng
18,6%
20,5%
20,3%
+ 1,7
+ 1,9
- 0,2
Khu 4
9,1%
9,1%
7,8%
- 1,3
0,0
- 1,3
DH miền Trung
8,4%
9,0%
8,2%
- 0,2
- 0,4
+ 0,2
Tây Nguyên
3,2%
2,8%
3,6%
+ 0,4
- 0,4
+ 0,8
Đông Nam Bộ
24,6%
31,5%
32,3%
+ 7,7
+ 6,9
+ 0,8
ĐBS Cửu Long
23,8%
19,2%
20,2%
- 3,6
- 4,9
+ 0,1
Như vậy, trong các năm qua chúng ta đã cố gắng tập trung đầu tư để phát triển các vùng, đặc biệt là khu vực khó khăn.
Một số Định hướng phát triển vùng – lãnh thổ:
Thứ nhất, Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng dự kiến của toàn bộ nền kinh tế- một tốc độ thực sự là rất cao, trong điều kiện sức tăng trưởng không đều giữa các địa phương nên cần tập trung đầu tư để nâng tốc độ tăng trưởng của những vùng, địa phương có điều kiện thuận lợi hơn lên cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của cả nước, thậm chí, có thể đến 2 lần, để bù lại cho những vùng khó có khả năng đạt tốc độ tăng trưởng cao. Hiện nay, những địa chỉ tăng trưởng cao này cũng đã được xác định và nói chung là hợp lý. Đó là các tam giác tăng trưởng như Hà nội- Hải phòng- Quảng ninh; Thành phố Hồ Chí Minh- Biên hòa- Vũng tàu và tuyến tăng trưởng miền trung Liên chiểu- Đà nẵng- Dung quất. Có ý nghĩa là trong giai đoạn tới, về mặt khách quan, phải chấp nhận tình huống phát triển không cân bằng giữa các vùng, các địa phương. Đây là điều kiện bắt buộc để đạt mục tiêu tăng trưởng cao chung của toàn bộ nền kinh tế. Vả lại, về mặt khách quan, sự khác nhau về trình độ xuất phát giữa các vùng qui định rằng trong tương lai gần, mức độ tích lũy và thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài, giữa các vùng. Đây là luận cứ chủ yếu xác định tính hợp lý của sự lựa chọn phương án phát triển không cân bằng giữa các vùng dể đạt mục tiêu tăng trưởng dặt ra cho giai đoạn tới.
Thứ hai, Việc tập trung đầu tư quá mức vào một số vùng , địa phương luôn luôn dẫn đến tình trạng phát triển mất cân đối giữa chúng. Hiện nay, chưa ai đo lường được chính xác mức độ tác động của tình trạng này đến mục tiêu tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế. Song, điều rõ ràng là nó chứa đựng khả năng làm giảm hiệu quả phát triển kinh tế- xã hội nói chung, song song với việc tập trung đầu tư theo địa bàn như trên để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng cao mang tính ngắn và trung hạn, cần có chiến lược đầu tư để tận dụng tối đa lợi thế phát triển của từng vùng. Trong quan điểm dài hạn, không nên kéo dài tình trạng chênh lệch phát triển quá mức giữa các vùng, địa phương. Gẩi quyết vấn đề này đòi hỏi phải tạo ra các điều kiện cơ bản để giảm dần sự chênh lệch về khả năng và cơ hội hấp dẫn đầu tư giữa các địa phương.
Thứ ba, Đây là điểm tổ hợp cả hai điểm trên và liên quan trực tiếp đến sự lựa chọn cơ cấu ngành đã nêu ở trên, lựa chọn cơ cấu ngành phát triển cho từng vùng. Trước hết, cần thấy rõ quan điểm tăng trưởng với tốc độ chênh lệch giữa các vùng trong giai đoạn tới có liên quan về lôgic với định dạng cơ cấu ngành tổng quát. Các vùng- địa phương mà nông nghiệp- nông thôn chiếm tỷ trọng áp đảo trong cơ cấu, thiếu các đầu tàu tăng trưởng mạnh là các đô thị- công nghiệp cần và buộc phải chấp nhận một tốc độ tăng trưởng tương đối thấp hơn. Còn các địa phương- vùng công nghiệp- đô thị có thể và cần được quan tâm đầu tư đẻ dạt tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn. Mặt khác, xuất phát từ cách nhìn dài hạn, việc nâng dần tốc độ tăng trưởng của những đại phương- vùng hiện đang ở điểm xuất phát thấp và tốc độ tăng trưởng chậm hơn cần dựa trên cơ sở một chiến lược cơ cầu ngành hợp lý của riêng mình và trên cơ sở hình tàhnh những trung tâm tăng trưởng mạnh là các đô thị – Công nghiệp để đóng vai trò xung lực của tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành của đại phương – vùng. Nếu không làm được điều đó, khó tránh khỏi sự chênh lệch phát triển quá đáng giữa các vùng địa phương. Hậu quả tất yếu là nền kinh tế nói chung không thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao lâu bền, mục tiêu công bằng trong mô hình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xẫ hội chủ nghĩa.
IV. Thực trạng đầu tư theo thành phần kinh tế
Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế đã thay đổi đáng kể.
Khu vực kinh tế nông nghiệp trong những năm gần đây đã có sự giảm liên tục, năm 1995 khu vực này chiếm tỷ trọng là40,18%, đến năm 2000 là 38,53%, năm 2001 là 38,4% và đến ,,,,, còn 38,31%. Cũng như vậy, khu vực kinh tế tập thể tiếp tục có sự suy giảm từ 10,6% năm 1995 xuống 8,5% năm 2000, năm 2001 là 8,06% và vào năm 2002 còn 7,98%. Khu vực kinh tế tư nhân lại có chiều hướng tăng lên từ 3,12% năm 1995 lên 3,38% năm 2000 và vào 2 năm 2001, 2002 là 3,73%và 3,93%. Con số này trong 4 năm 1995, 2000, 2001, 2002 của khu vực kinh tế cá thể là: 36,02%, 32,31%, 31,84%, 31,42%. Cũng qua 4 năm này, khu vực kinh tế hỗn hợp giàm từ 4,32% năm 1995 xuống còn 3,92% năm 2000, tuy nhiên 2 năm 2001, 2002 lại tăng từ 4,22% lên 4,45%. Trong khi đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại có sự gia tăng nhanh chóng từ 6,3% năm 1995 lên tới 13,3% năm 2000, 2 năm tiếp sau đó, tỷ trọng của khu vực này vẫn tăng lên nhưng mức độ tăng không còn nhiều như trước, chỉ từ 13,75% lên 13,9%.
Chúng ta có tốc độ tăng trưởng kinh tế các năm từ 1990 – 2003 như sau:
1990
1995
2000
2003
Tốc độ tăng GDP bình quân các năm ( 1990 – 1995); (1996 – 2000); (2001 – 2003)%
4,4
8,2
6,9
7,1
Tốc độ tăng GDP bình quân các năm 1990 – 2003%
6,12
( Nguồn: Viện kế hoạch và phát triển, Bộ kế hoach đầu tư)
Như vậy, quá trình đổi mới đã chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ giữa các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế nhưng tỷ trọng của thành phần này trong GDP đang có xu hướng giảm dần. Thời kì này đánh dấu sự phát triển nhanh chóng của khu vực kinh tế có vốn đàu tư nước ngoài và kinh tế tư nhân. 2 khu vực này có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Thể hiện ngày càng rõ vai trò quan trọng của mình. Điều này thể hiện chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước trong việc mở cửa nền kinh tế, khuyến khích mọi cá nhân tham gia hoạt động kinh tế. Ngược lại, thành phần kinh tế hợp tác xã, lại có xu hướng giảm dần, phản ánh sự đầu tư chưa đúng mức và tổ chức chưa phù hợp với điều kiện biến đổi của nền kinh tế. Tuy nhiên, khu vực này cũng đã có sự đóng góp không nhỏ vào GDP chung và góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Kinh tế nhà nước chuyển dịch theo hướng sắp xếp lại và đổi mới.
Khu vực kinh tế nhà nước sau thời gian bị chao đảo khi chuyển sang cơ chế thị trường đã sớm được phục hồi và phát triển có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp nhà nước đảm nhiệm những sản phẩm và dịch vụ quan trọng có tác động trực tiếp đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của nềm kinh tế quốc dân, nhất là trong công nghiệp, cơ sở hạ tầng và tài chính tín dụng. Đã củng cố tổ chức và sắp xếp lại các tổng công ty theo quyết định 91 TTg và các Tổng công ty theo quyết định 90 TTg với hàng nghìn các đơn vị thành viên, chiếm phần lớn tài sản, vốn liếng trong khối doanh nghiệp nhà nước. Hoạt động của các tổng công ty có tác dụng hỗ trợ và giúp cho các doanh nghiệp thành viên về vốn, công nghệ, thiết bị, thị trường để duy trì và phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng sức mạnh trong cạnh tranh, trong đấu thầu,.Các tổng công ty đã thựuc hiện việc liên kết về hành chính, nghiệp vụ quản lý, mở rộng thị trường và hỗ trợ kỹ thuật cho các đơn vị thành viên. Một số tổng công ty thống nhất cả về điều hành xuất, nhập khẩu, quản lý thống nhất vốn đầu tư, đổi mới công nghệ như tổng công ty than, tổng công ty xi măng, tổng công ty tàu biển
Đến cuối năm 1999 toàn quốc có 370 DNNN được chuyển thành công ty cổ phần, trong đó các bộ phận quản lý 69 doanh nghiệp, các tổng công ty quản lý 28 doanh nghiệp và các địa phương quản lý 273 doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cổ phần hoá đang hoạt động tốt, nhiều chỉ tiêu kinh tế cơ bản đều tăng: 1998 so với năm 1997 vốn tăng 3,1%, doanh thu tăng 133,5%, lợi nhuận sau thuế tăng 131%, các khoản nộp ngân sách tăng 153%, lao động tăng 9%, thu nhập bình quân tăng 29% và giá trị cổ tức dặt bình quân 2,6%/tháng, cao gần gấp 3 lần lãi suất tiền gửi ngân hàng.
Tỷ trọng đóng góp của thành phần kinh tế nhà nước giảm từ năm 1994 đến nay tăng lên và ổn định ở mức trên dưới 40% GDP cụ thể là:
Năm
%GDP
1994
40,12
1995
40,20
1996
39,90
1997
40,50
1998
40,20
2000
40,20
Kinh tế dân doanh, kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác ngày càng có sự đóng góp đáng kể vào GDP.
Kinh tế hợp tác sau thời kì dài bị suy giảm, bước đầu được tổ chức lại theo luật hợp tác xã mới, có tác dụng tích cực. Nhiều hợp tác xã hoạt động có hiệu quả trên cơ sở góp cổ phần và lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần thực hiện nguyên tắc tự nguyện và cơ chế quản lý dân chủ, công khai về tài chính và kinh doanh. Một số mô hình liên kết giữa hợp tác xã nông nghiệp và các cơ sở chế biến đã ra đời.
Do trong nền kinh tế hiện nay thành phần kinh tế hợp tác xã không còn hấp dẫn, nên số người tham gia hợp tác xã giảm dần, do đó tỷ trọng đóng góp của thành phần kinh tế hợp tác xã bị liên tục suy giảm trên phạm vị toàn quốc từ 10,06% năm 1995 xuống còn 7,98% năm 2002. Mặc dù vậy thành phần kinh tế hợp tác xã vẫn đóng góp 1 phần đáng kể vào GDP.
Kinh tế cá thể tiểu chủ trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu chủ công nghiệp và dịch vụ thương mại phát triển nhanh, đã góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế xã hội. Nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích phát triển thành phần kinh tế này, nhiều ngành và địa phương đã giải quyết các khó khăn về vốn, công nghệ, thị trường và kinh nghiệm quản lý nhằm tạo môi trường thuận lợi để mở rộng sản xuất, kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Cũng như kinh tế hợp tác tỷ trọng thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ trong GDP cũng có chiều hướng suy giảm từ 1995 đến nay cụ thể là:
Năm
GDP
1995
36,02%
2000
32,3%
2001
31,84%
2002
31,42%
Khu vực kinh tế tư nhân trong nước được hình thành và ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, hiện nay khu vực này đang được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Hàng vạn doanh nghiệp tư nhân, công ty THHH ra đời với quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, nhưng cũng có Một số doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn, sử dụng nhiều lao động. Hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng được mở rộng nên tỷ trọng đóng góp của thành phần kinh tế tư nhân trong GDP phát triển liên tục nhưng vẫn ở mức độ thấp.
Cụ thể là:
Năm
GDP
1995
3,12%
2000
3,38%
2001
3,73%
2002
3,93%
Trong đó không chỉ tăng đối với tư nhân nước ngoài mà phát triển cả đối với tư nhân trong nước.
Kinh tế hỗn hợp bao gồm các hình thức hợp tác, liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư nhân trong nước và tư nhân nước ngoài đang phát triển mạnh nhờ công nghệ mới, kỹ thuật sản xuất tiên tiến, đã và đang sản xuất ra nhiều loại sản phẩm có sức cạnh tranh, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH. Tỷ trọng khu vực kinh tế này trong GDP đã tăng khá nhanh từ 10,78% năm 1995 tăng lên 13,4% năm 2000; Trong đó khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần trên 10% vào tăng trưởng kinh tế, tạo thêm 1 số mặt hàng mới, công nghệ mới, tăng thêm sức cạnh tranh của sản phẩm, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH.
Khu vực kinh tế nhà nước chiếm đại bộ phận trong các ngành quan trọng
Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt.
Thứ nhất: Doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm những ngành công nghiệp then chốt của nền kinh tế quốc dân như sản xuất giấy, hoá chất, cơ khí chế tạo, chế biến, dệt may.
Thứ hai: Trong các doanh nghiệp nhà nước, máy móc trang thiết bị được đổi mới theo hướng HĐH bằng đầu tư chiều sâu dựa vào nguồn vốn đầu tư của nhà nước và vốn tự có của doanh nghiệp là chính.
Thứ ba: Có đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề đông về số lượng, đồng bộ về ngành nghề và khá về chất lượng.
Thứ tư: Doanh nghiệp nhà nước có vị trí hàng đầu trong đóng góp vào nguồn thu của ngân sách nhà nước hàng năm (trên 40%).
Theo kết quả điều tra doanh nghiệp nhà nước 1/1/2003 thì trong năm 2002 doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm 8% về số doanh nghiệp nhưng chiếm 41,6% về số lao động; 55,9% về số vốn; 49,4% về doanh thu và chiếm 46,1% về tổng số nộp ngân sách của tất cả các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế.
Qua những số liệu trên mặc dù số lượng DNNN giảm nhưng DNNN vẫn giữ được vị trí theo chốt của mình và vẫn khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong sự đóng góp vào GDP.
Khả năng cạnh tranh thấp.
Khu vực kinh tế nhà nước chiếm đại bộ phận trong các ngành quan trọng, giành vị trí có lợi nhất trong kinh doanh và được hưởng nhiều ưu đãi của nhà nước nhưng hiệu quả kinh doanh kém, chưa thể hiện vai trò làm chủ trong nền kinh tế quốc dân, số doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ còn quá lớn, đó là điều đáng lo ngại. Các chính sách ưu đãi cho khu vực kinh tế nhà nước, thực chất là “ Tại bao cấp”, làm cho khả năng vươn lên của khu vực này bị hạn chế, tính năng động kém. Tiến dộ thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp còn chậm, chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về cơ chế huy động vốn và phát huy đúng lúc trong công cuộc đổi mới DNNN. Chủ yếu là do lãnh đạo các ngành và các doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ có ý nghĩa của chủ trương cổ phần hoá, lo ngại bị ảnh hưởng đến quyền lợi, chưa yên tâm về hiệu quả nên chần chừ do dự, né tránh, sợ trách nhiệm, e ngại chệch hướngMặt khác, phương pháp đánh giá tài sản doanh nghiệp trong điều kiện chưa có thị trường vốn còn nhiều bất cập. Việc thí điểm bán cổ phần cho người nước ngoài chưa đợc hướng dẫn cụ thể. Những điều này đã làm cản trở khả năng hoạt động của khu vực này.
Khu vực kinh tế hợp tác chậm được củng cố và phát triển,
Các chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế chỉ dừng lại ở những Chỉ thị, Nghị quyết chưa thực hiện sự đi vào cuộc sống, còn có nhiều phân biệt đối xử đối với các thành phần kinh tế ngoài khu vực nhà nước làm cho các thành phần kinh tế chưa phát huy nội lực, chưa thực sự khuyến khích mọi thành phần kinh tế và hạn chế kết quả thu hút đầu tư nước ngoài. Việc phát huy và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển còn chậm, hiệu quả thấp. Các chính sách vĩ mô một mặt chưa triển khai đồng bộ, mặt khác chưa đủ sức hấp dẫn để các tầng lớp dân cư bỏ vốn vào đầu tư.
Chương III. Các Giải pháp
Qua những phân tích, đánh giá ở trên chúng ta nhận thấy rằng hoạt động đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu ở Việt Nam đã và đang có những thành tựu đáng kể, góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển và thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Tuy nhiên cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng đầu tư không phải lúc nào cũng đem lại hiệu quả. Sự đầu tư dàn trải, manh mún, không đúng nơi, đúng chỗ sẽ kéo theo sự phát triển chậm chạp, dậm chân tại chỗ của các ngành, vùng, thành phần kinh tế hay thậm chí còn gây ra sự phản tác dụng. Điều này sẽ làm tổn hại đến nền kinh tế, gây thất thoát vốn đầu tư và làm giảm lòng tin của nhân dân vào các chính sách của Đảng. Từ thực trạng đó đòi hỏi phải có các giải pháp nhằm khắc phục những mặt hạn chế của đầu tư. Vì vậy chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp sau:
Cải thiện môi trường đầu tư.
Đây là 1 điều kiện rất quan trọng nhằm thúc đẩy các cá nhân, doanh nghiệp tham gia vào hoạt động đầu tư. Trong tình hình điều kiện ngân sách nhà nước eo hẹp, không thể đủ trang trải cho mọi lĩnh vực đầu tư thì nguồn vốn ngoài ngân sách đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Chính vì vậy việc làm thế nào để thu hút được nhiều vốn đầu tư không thể không cần đến sự hỗ trợ của nhà nước về các mặt sau:
Hoàn thiện môi trường pháp lý.
+ Cần nghiên cứu xây dựng văn bản pháp quy có tính pháp lý cao hơn các văn bản pháp lý hiện hành (luật hay pháp lệnh về quản lý vay nợ và viện trợ nước ngoài), đồng thời sớm sửa đổi các quy chế, quy định của chính phủ liên quan đến việc thực hiện các chương trình, dự án đầu tư ( các nghị định về quản lý đầu tư và xây dựng quy chế đấu thầu, đền bù, giải phóng mặt bằng ) để làm giảm bớt bất cập nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện và hiệu quả sử dụng vốn của các chương trình, các dự án đầu tư.
+ Xây dựng cơ chế tạo nguồn vốn dự phòng cho ngân sách nhà nước dành riêng cho dự án đầu tư nhằm đáp ứng kịp thời nguồn vốn cho chuẩn bị dự án, giảm bớt tính bị động trong điều hành vốn.
+ Ban hành bổ sung một số văn bản quản lý về cơ chế thẩm định giá, định mức chi tiêu, phí tư vấn đối với cơ quan tư vấn trong và ngoài nước, quy chế kiểm tra, kiểm toán đối với các dự án đầu tư.
+ Có cơ chế thực thi để tăng cường quản lý các công trình, dự án sử dụng vốn vay nước ngoài, quy định bắt buộc việc đánh giá công trình dự án đầu tư hiệu quả mang lại sau khi đã hoàn thành.
Nâng cao chất lượng quy hoạch và sử dụng đồng vốn để tạo môi trường ổn định cho đầu tư.
+ Quy hoạch cần hướng việc huy động vốn theo từng nhà tài trợ trên cơ sở dự báo hạn mức, cơ cấu, điều kiện của mỗi nhà tài trợ. Bên cạnh đó cũng phải cân đối với các nguồn lực khác và khả năng hấp thụ của nền kinh tế.
+ Quy hoạch sử dụng đồng vốn theo định hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo và đạt được các chỉ tiêu xã hội khác, việc xây dựng quy hoạch và sử dụng đồng vốn còn phải dựa trên cơ sở xác định phát triển ngành, vùng, lãnh thổ và thành phần kinh tế trong từng giai đoạn. Tổ chức thực hiện và theo dõi quy hoạch một cách có hiệu qủa, lựa chọn các chương trình, dự án đầu tư sử dụng đồng vốn không chỉ có hiệu quả về mặt tài chính, mà còn phải xét tới tác động đối với nghĩa vụ nợ phải trả trong tương lai và ngân sách, danh mục trả nợ của nhà nước.
Tăng cường hiệu lực trong tổ chức quản lý và điều hành.
Tổ chức quản lý và điều hành trong đầu tư rất quan trọng, nếu để cho đầu tư ồ ạt mà không quản lý thì sẽ dẫn đến việc nợ trong nước và nước ngoài ngày càng cao và đầu tư không đúng hướng vào các lĩnh vực, ngành, thành phần kinh tế làm cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ chậm hoặc là có xu hướng giảm xuống. Vì vậy phải có các tổ chức quản lý và điều hành trong các dự án đầu tư.
+ Công tác quản lý nợ nước ngoài nói chung và quản lý dự án đầu tư nói riêng cần được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng chính phủ. Đồng thời cần thống nhất trong công tác quản lý tài chính, nguồn vốn của chính phủ vào một đầu mối nhằm theo dõi quản lý, tổng hợp tình hình và hiệu quả sử dụng đồng vốn theo đúng quy định của luật ngân sách nhà nước. Nhà nước có thể giám sát và quản lý trên phương diện vĩ mô các hoạt động của chủ đầu tư.
+ Nâng cao tính tự chủ và vai trò trách nhiệm của chủ đầu tư. Chủ đầu tư có quyền quyết định lĩnh vực đầu tư phù hợp với quy hoạch phát triển của ngành hay của địa phương, đồng thời chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm về hiệu quả của dự án.
+ Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án đầu tư là căn cứ để đàm phán, ký kết hợp đồng dự án đầu tư. Do vậy chỉ ký kết hợp đồng dự án đầu tư sau khi báo cáo nghiên cứu khả thi dự án được duyệt, vừa đảm bảo việc triển khai dự án. Tuân thủ quyết định đầu tư, vừa tránh được dự án phải trả phí cam kết khống.
+ Thành lập các công ty tư vấn cấp quốc gia về đánh giá các chương trình, dự án và mua sắm quốc tế nhằm tăng cường hiệu quả quản lý của nhà nước về đầu tư, tiếp tục đơn giản hoá thủ tục hành chính. Cần rà soát và loại bỏ các thủ tục rườm rà và tổn phí thời gian trong các khâu phê duyệt dự án, ký kết hợp đồng theo hướng đơn giản hoá các giấy tờ và cấp trung gian xử lý. Ban hành quy chế theo dõi, kiểm tra và đánh giá dự án ( trước, trong và sau khi kết thúc dự án đầu tư ).
Nâng cao nhận thức và mở rộng quan hệ đối tác tài trợ
+ Việt Nam cần khẳng định và thể hiện sự quan tâm đổi mới và cải cách để tranh thủ sự đồng tình của các tổ chức tài chính Quốc tế và Chính phủ bạn. Tăng cường các hình thức vận động tài trợ khác nhau như: Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ (Hội nghị C.G), hội nghị tư vấn tài trợ ngành, hội nghị đối tác, uỷ ban liên chính phủ.
+ Cần tiếp tục phát triển quan hệ đối tác giữa các bên và nâng cao quan hệ này lên một bước phát triển mới cao hơn, trên cơ sở quan tâm và lợi ích chung của tất cả các bên tham gia với việc đề cao vai trò làm chủ của bên hưởng thụ.
+ Tăng cường trao đổi thông tin và đối thoại giữa các nhà tài trợ với cơ quan Việt Nam để cùng phân tích đánh giá tình hình phát triển của Việt Nam nói chung cũng như trên một số lĩnh vực cụ thể. Đồng thời quan tâm đến công khai hoá và minh bạch chính sách, chế độ tiến tới hài hoà các thủ tục, giảm bớt các cản trở đối với các luồng vốn đầu tư nước ngoài.
Đầu tư thích đánh và có các chính sách ưu đãi đối với các vùng, lĩnh vực, thành phần kinh tế có nhiều khó khăn.
Trong điều kiện hiện tại, khu vực các thành phố lớn vẫn là trung tâm phát triển công nghiệp. Vùng này dân số chỉ chiếm khoảng 14% nhưng đã thu hút hơn 70% vốn đầu tư tư nhân. Do vậy trong thời gian tới việc huy động vốn đầu tư cần thực hiện theo hướng mở rộng liên kết với các tỉnh lân cận, hình thành các vùng kinh tế trọng điểm có khả năng phát triển và có lợi thế so sánh trên thị trường quốc tế.
Bên cạnh phát triển các vùng kinh tế trọng điểm đó cần phải chú trọng và đầu tư đối với các vùng, lĩnh vực, thành phần kinh tế có nhiều khó khăn, tạo điều kiện cho các vùng nghèo khó có cơ hội phát triển.
Đối với những ngành, lĩnh vực có khó khăn, vùng sâu xa: Như vùng núi phía bắc, Tây nguyên, miền Trung nên có chính sách ưu đãi cởi mở hơn thu hút đầu tư của tư nhân vào những vùng đó hiệu quả hơn, huy động vốn dân doanh.
Những vùng này có điều kiện cơ sở hạ tầng rất yếu kém, thêm vào đó là sự đầu tư vào những vùng này rất hạn chế. Chính sự đầu tư hời hợt này càng làm hạn chế sự phát triển kinh tế của các vùng này. Điều này đòi hỏi nhà nước và từng vùng phải có các chính sách cởi mở hơn, ủng hộ để khuyến khích đầu tư.
Trong khu vực nông nghiệp, do đặc thù của ngành là có nhiều rủi ro vì phụ thuộc vào thời tiết thời gian thu hồi vốn lâu nên không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Do đó phải có chính sách ưu đãi, ưu tiên cho khu vực này như giảm thuế, hỗ trợ bằng chính sách hỗ trợ giá
Tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng trong việc huy động vốn giữa các thành phần kinh tế, có các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế, đa dạng hoá đầu tư.
Cần có các chính sách phù hợp để tạo vốn trong vùng, đây là nguồn vốn có ý nghĩa quyết định về lâu dài, đảo bảo đủ năng lực nội tại để đón nhận, lựa chọn và tham gia bình đẳng trong quan hệ hợp tác, đầu tư với nước ngoài.
Để tạo ra nguồn vốn cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần phải huy động tổng lực các nguồn: Vốn từ ngân sách, vốn từ quỹ đất đai, vốn từ dân và các doanh nghiệp, vốn vay và nơi khác đầu tư, thuê mua tài chính, thu hút đầu tư nước ngoài, nguồn vốn ODA, vay nước ngoài.
Để tranh thủ các nguồn vốn này, cần phải có những chính sách phù hợp. Đó là tăng ngân sách đầu tư trên cơ sở tăng nguồn thu thuế và lệ phí bằng cách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh, nuôi dưỡng nguồn thu. Tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng trong việc huy động vốn giữa các thành phần kinh tế để từ đó khuyến khích các thành phần đó phát triển.
Đổi mới cơ cấu gắn với nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
- Tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách để huy động tối đa mọi nguồn lực
Cần tạo lòng tin cho người dân yên tâm bỏ vốn ra đầu tư sản xuất kinh doanh bằng cách nhà nước tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi và hỗ trợ thuế và lãi suất tín dụng cho đầu tư phát triển, thủ tục đơn giản.
Hiện nay, việc huy động vốn của nước ta rất phức tạp, không tạo sự yên tâm cho cá nhân và tổ chức. Chính điều đó đã làm cho việc thiếu vốn trầm trọng của các doanh nghiệp trong nước, có đến 55% doanh nghiệp là thiếu vốn.
- Đổi mới và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Cần có các chính sách sử dụng vốn của toàn xã hội có hiệu quả, nâng cao cơ sở vật chất và trình độ công nghệ nhằm thực hiện có kết quả các mục tiêu kinh tế – xã hội, coi trọng việc huy động mọi khả năng nguồn vốn để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời đẩy nhanh hơn việc tích tụ tập trung các nguồn vốn trong và ngoài nước vào những ngành mũi nhọn và các khu vực trọng điểm, tạo ra sức bật nhanh cho toàn bộ nền kinh tế. Dành đầu tư thích đáng cho xây dựng kết cấu hạ tầng để khôi phục tình trạng thiếu thốn và lạc hậu về cơ sở hạ tầng. Tăng nhanh vốn đầu tư cho đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. mở rộng đầu tư đổi mới công nghệ để thu hẹp dần sự chênh lệch so với các trung tâm kinh tế lớn và giữa các tỉnh
5. Tăng cường công tác quy hoạch và dự báo.
Các cơ quan quản lý phải làm tốt chức năng quản lý của mình. Biết dự báo các khả năng có thể xẩy ra trong tương lai, các thông tin phải luôn được cập nhật để có thể ngăn ngừa và giảm thiểu những hậu quả xấu đối với nền kinh tế. Dự báo để nhằm giảm dần sự can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế vi mô.
Nắm vững đặc điểm của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế để quy hoạch cho hợp lý, thể hiện ở 3 khía cạnh:
Một là: Chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường.
Hai là: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, thực hiện tiến trình công nghiệp hoá, mục tiêu 2020 cơ bản trở thành một nước có nền công nghiệp tiên tiến.
Ba là: Chuyển từ nền kinh tế sản xuất ở mức độ thấp, lạc hậu, từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.Trong điều kiện của chúng ta hiện nay phải thực hiện đồng thời cả 3 quá trình này.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý trước hết phải được xây dựng trên cơ sở lợi thế so sánh của đất nước, của địa phương và phải gắn với quy hoạch vùng, lãnh thổ, các thành phần kinh tế đặc biệt là quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội thống nhất 0giữa các khu vực và các ngành trên đại bàn. Phải tính đến yêu cầu hội nhập khu vực và thế giới.
Trong dài hạn, nên xây dựng những công trình quy hoạch, đầu tư có quy mô lớn, tập trung vào những ngành, những vùng, những khu vực có tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hiện đại hoá sản xuất và tạo công ăn việc làm.
Kết hợp vốn đầu tư trong nước và nước ngoài.
Tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 62% năm 95 lên 85% năm 2000. Vốn đầu tư từ bên ngoài có vị trí rất quan trọng nhất là khi nguồn tích luỹ trong nước còn thấp. Thu hút đầu tư từ bên ngoài không chỉ để tạo vốn mà còn là cơ hội để đổi mới công nghệ, đào tạo cán bộ kỹ thuật, lao động, quản lý hiện đại và mở rộng thị trường. Vì vậy cần phải có các chính sách ưu đãi để tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Mục tiêu phát triển giai đoạn tới Việt Nam phải sẵn sàng bước vào nền kinh tế toàn cầu với tư thế chủ động, giữ vững ổn định và bảo vệ chủ quyền độc lập. Vì vậy, ngoài chính sách thu hút vốn đầu tư của nước ngoài thoả đáng thì cần tập trung vào khai thác nguồn nội lực.
Dự kiến trong 5 năm từ 2001 – 2005, nguồn vốn trong nước sẽ chiếm khoảng từ 60 – 70% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Vồn đầu tư nước ngoài sẽ chỉ chiếm từ 30 – 40%. Với quan điểm như vậy, đầu tư trong giai đoạn tới sẽ có điểm tựa vững vàng để khai thác tối đa mọi nguồn lực, hấp thụ có hiệu quả nguồn ngoại lực và tạo sự kết dính giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Coi trọng quan hệ cung cầu của nền kinh tế thị trường, có tính đến yếu tố hiệu quả của nền kinh tế, nhận biết các tín hiệu do cung cầu thị trường, tránh đầu tư theo phong trào.
Trong quá trình xây dựng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý phải coi trọng các yếu tố thị trường. Hoạt động đầu tư nên cải tiến theo hướng thu hẹp phạm vi đầu tư dựa trên những quy định hành chính của cơ quan nhà nước. Mở rộng phạm vi đầu tư do các tổ chức sản xuất kinh doanh lựa chọn trên cơ sở định hướng của nhà nước và thực tiễn vận động của thị trường. Các dự án nên tập trung làm tốt khâu nghiên cứu thị trường. Xác định khả năng cung ứng và nhu cầu tiềm năng nhằm tránh trường hợp mất cân đối cung cầu ảnh hưởng đến tình hình đầu tư và sản xuất như một số mặt hàng trong thời gian qua, dẫn đến các tác động tiêu cực làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động đầu tư cụ thể mà tập trung làm tốt việc dự báo, cung cấp thông tin kinh tế, định hướng đầu tư. Phải biết phân tích và đánh giá các dự án đầu tư, để biết được đầu tư có hiệu quả hay không. Nhà nước phải dự báo và phân tích các thông tin kịp thời, kịp lúc để các nhà đầu tư có thể nhận biết được sự thay đổi của thị trường. Đầu tư theo phong trào là một việc làm rất nguy hiểm có thể dẫn đến sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp. Chính điều đó sẽ làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế bị chậm lại. Vì vậy cần phải tránh đầu tư theo phong trào để có thể tránh những hậu quả xấu do nền kinh tế thị trường mang lại.
Đảm bảo sự phát triển hợp lý giữa các vùng, có mối liên kết giữa các vùng.
Giữa các vùng, khi xây dựng, chuyển dịch kinh tế phải đảm bảo sự chuyển dịch giữa chúng có sự đồng bộ, cân đối và phát huy được lợi thế so sánh của từng vùng, tạo điều kiện cho các vùng nghèo khó có cơ hội phát triển.
Tuy nhiên, để tạo thế và lực trong phát triển, cần xây dựng một số vùng kinh tế trọng điểm (Không nên dàn trải làm phân tán nguồn lực). Giữa các vùng vừa liên kết, thúc đẩy hỗ trợ nhau cùng phát triển. Thực hiện tốt chính sách dân số phát triển, giải quyết việc làm cho người lao động là biện pháp quan trọng để nâng khả năng tích luỹ nhằm phát triển kinh tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8720.doc