Trong một số trường hợp do tình hình chính trị., việc nhà đầu tư nước ngoài không thiện chí đầu tư và làm ăn lâu dài ở Campuchia là nguyên nhân làm cho các dự án đầu tư không thể triển khai, hoặc triển khai không có kết quả.
3.5. Đồng vốn đầu tư nước ngoài cho Campuchia chủ yếu tập trung vào các thành phố và tỉnh lớn như Phnôm Pênh, tỉnh Kanđal, và dọc Quốc lộ số 4 (từ Phnôm Pênh đến Thành phố Cảng Sihanuk ville), tỉnh Kampongspư,.v.v. những thành phố, tỉnh này chiếm khoảng 80% về số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Campuchia.
Như vậy trong việc xây dựng lại đất nước và tiến triển nền kinh tế, Campuchia rất cần thiết phải có sự xem xét đầy đủ và toàn dân hơn nữa vai trò của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đồng thời cần áp dụng các giải pháp có hiệu quả để huy động tốt hơn nữa các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
78 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1348 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạm phát và góp phần tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Một bài học kinh nghiệm rút ra từ chiến lược mở cửa kinh tế của Chi Lê là luật đầu tư nước ngoài trực tiếp phải được tiến hành một cách đồng bộ, bên cạnh những điều luật cụ thể về đầu tư còn có những hoạt động khác đi cùng cùng như đánh giá việc buôn bán với các công ty xuyên quốc gia, hệ thống tiền tệ và kỹ thuật ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh. Chi Lê đã phát triển quan điểm kinh tế mở cửa hỗ trợ cho các chính sách đối ngoại của mình, cho phép các công ty xuyên quốc gia có những điều kiện thuận lợi để hoạt động và thúc đẩy chính sách tự do hoá thị trường, tăng cường các điều kiện cho kinh doanh cá thể, bù đắp các thâm hụt công cộng và hạn chế lạm phát. Đây là những yếu tố quan trọng để tạo ra môi trường đầu tư có sức thu hút mạnh đối với các công ty xuyên quốc gia.
6-/ Hungari
Cũng như các nền kinh tế chuyển đổi khác ở Trung và Đông Âu, Hungari hy vọng nhiều vào FDI và cố gắng đưa ra những chính sách khuyến khích để thu hút FDI cho phát triển kinh tế. Năm 1988, chính phủ Hungari đã ban hành luật về đầu tư nước ngoài, trong đó có điều khoản quy định cho phép người nước ngoài sở hữu toàn bộ các chi nhánh ở Hungari. Tuy nhiên trên thực tế, dòng đầu tư nước ngoài chảy vào nước này không lớn và các dự án đều có quy mô nhỏ. Có tới 85% số dự án đăng ký có số vốn nước ngoài đóng góp ít hơn 51%. Năm 1990, FDI ở nước này đạt 1,2 tỷ USD ứng với 36.000 công ty, nhưng chỉ có 10 dự án công nghiệp và 5 dự án phân phối bán lẻ với tổng vốn đầu tư của 15 dự án này là 15 triệu USD. Đến nửa đầu năm 1991, vốn đầu tư của nước ngoài vào các dự án có quy mô trung bình cũng giảm hẳn so với năm 1990. Một đặc điểm của FDI ở Hungari cũng như các nước Trung Đông Âu là quy mô đầu tư của các dự án chủ yếu là vừa và nhỏ và phần lớn tập trung vào thương mại và dịch vụ. Điều này có thể được giải thích vì sự không ổn định về kinh tế, chính trị và hệ thống pháp luật của nước này.
Sự sụp đổ của hệ thống kế hoạch tập trung ở Trung Âu và Đông Âu đã trở thành một sự kiện chính trị có tầm quan trọng. Quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường trong một phạm vi lớn từ Tây Âu sang Đông Âu đã làm xuất hiện nhiều vấn đề mới. Đối với các công ty phương Tây, những thay đổi này đã tạo nên một cơ hội to lớn để thâm nhập các thị trường của các nước khác - những thị trường mà họ chưa có cơ hội tiếp cận trong nhiều thập kỷ. Nói chung, các công ty xuyên quốc gia đều hy vọng đóng một vai trò quan trọng trong việc ổn định kinh tế vĩ mô và chuyển giao công nghệ, kỹ thuật và tài chính ở các nước này.
Cụ thể đối với Hungari, khi phân tích hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian 3 năm (1989 - 1991) cho thấy có những đặc điểm lớn cơ bản sau:
1) Phần đầu tư của các công ty xuyên quốc gia trong các công ty liên doanh ở Hungari đều rất nhỏ. Hơn 85% số các công ty nước ngoài đăng ký là số doanh nghiệp góp ít hơn 51%. Chi nhánh lớn do người nước ngoài sở hữu chỉ chiếm 13% trong toàn bộ các chi nhánh đã đăng ký. Những nhà đầu tư vào Hungari chủ yếu là đầu tư nhỏ, mặc dù từ năm 1988 các điều luật về đầu tư nước ngoài trực tiếp đã cho phép người nước ngoài sở hữu toàn bộ các chi nhánh.
2) Phần lớn các công ty đều có quy mô nhỏ. Rất nhiều công ty đã lợi dụng những khoảng trống thị trường và các cơ hội tự do nhập khẩu. Các công ty này thuộc những nước láng giềng của Hungari là áo, Đức và Thụy Sỹ. Họ chỉ coi Hungari là thị trường để bán sản phẩm và những hoạt động dịch vụ nhỏ.
Một điều đáng chú ý nữa là, ở Hungari có một loạt các yếu tố đang làm cản trở việc xây dựng một số cơ sở xuất khẩu của các công ty xuyên quốc gia tại Hungari. Tỷ lệ lạm phát cao ở Hungari; những chi phí sản xuất ngày càng tăng và việc giảm tỷ giá hối đoái liên tục đã gây nên những mối lo cho các nhà xuất khẩu và những chi nhánh muốn chuyển lợi nhuận về nước. Ngoài ra, chất lượng thấp của các sản phẩm do Hungari sản xuất cũng bị coi là một hạn chế.
Trong qúa trình tư nhân hoá các nhà máy do nhà nước độc quyền quản lý, các công ty xuyên quốc gia khi trở thành đối tác trong các liên doanh chắc chắn sẽ nắm vai trò chi phối liên doanh.
Kết luận phần 2
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã cho phép khẳng định được vai trò quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự tăng trưởng kinh tế. Có thể nói rằng ở đâu và ở nước nào thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và thực hiện hợp lý việc đầu tư thì ở nước đó nền kinh tế đạt tốc độ phát triển nhanh chóng vững chắc; vì vậy, mà trên thế giới đang diễn ra một cuộc cạnh tranh gay gắt nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Muốn đạt được mục đích thu hút nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, kinh nghiệm quý báu của nhiều nước cho thấy cần phải tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn, phải tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định chính trị và thực hiện cải cách nền kinh tế để từng bước hội nhập vào quỹ đạo phát triển kinh tế thế giơí. Khai thác và sử dụng có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài đang là một mục tiêu được ưu tiên hàng đầu ở nhiều nước trên thế giới, nhất là đối với các nước đang phát triển, nơi có nhu cầu rất lớn về vốn đầu tư phát triển kinh tế. Để thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nước đã thực hiện các biện pháp lớn là:
a/. Cải tổ cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại. Khi một quốc gia tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, thì quốc gia đó đã trở thành một bộ phận của cơ cấu kinh tế quốc tế. Theo sự phân công lao động quốc tế thì mỗi nước nên chuyên môn hoá sản xuất ở một hay một số ngành mà họ có lợi thế so sánh cao hơn. Ngành đó sẽ trở thành ngành mũi nhọn của họ. Sau đó, thông qua trao đổi và hợp tác với nhau, mỗi nước sẽ phát huy được thế mạnh của mình và đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Khi đã hình thành mối quan hệ liên kết, hợp tác và phụ thuộc vào nhau giữa các quốc gia trên thế giới, các nước có thể bố trí cơ cấu kinh tế “không cân đối”, tức là chỉ tập trung vào phát triển các ngành mũi nhọn, có nhiều tiềm năng và có thể đẩy nhanh nền kinh tế đi vào quỹ đạo phát triển. Một cơ cấu kinh tế được coi là có hiệu quả xét trên quan điểm của nền kinh tế mở là phải có khả năng chuyển dịch cơ cấu nhanh và thoả mãn các đòi hỏi của mô thức cạnh tranh hiện đại;
b). Ban hành các đạo luật đầu tư hấp dẫn, giành nhiều ưu đãi hợp lý đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, xây dựng một môi trường mặt pháp lý và môi trường cạnh tranh lành mạnh;
c). Phát triển nền kinh tế mở, khuyến khích phát triển mạnh các thành phần kinh tế, kể cả kinh tế tư nhân và cần được giúp đỡ phát triển, không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại;
d). Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô, thực hiện việc điều chỉnh nền kinh tế quốc dân thông qua các chương trình, kế hoạch có tính hướng dẫn và hệ thống chính sách kinh tế điều chỉnh gián tiếp theo các chương trình đó;
e). Đổi mới và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, đa dạng hoá nền sản xuất xã hội như phát triển và xây dựng mới các công trình giao thông, hệ thống thông tin liên lạc và hiện đại hoá các hoạt động tài chính ngân hàng, hoạt động dịch vụ...;
f). ổn định chính trị và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, kiềm chế lạm phát và nâng hiệu quả của sản xuất kinh doanh.
Bằng các biện pháp và chính sách thích hợp, nhiều nước đang phát triển đã thu được những thành công to lớn trong việc khai thác và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghiên cứu những kinh nghiệm thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trên thế giới thật sự có nghĩa đối với Vương Quốc Campuchia hiện nay.
Phần 3
đầu tư trực tiếp nước ngoài ở campuchia
Như đã phân tích, FDI ngày càng trở thành nguồn vốn quan trọng có ý nghĩa to lớn đối với hầu hết các nền kinh tế thế giới, kể cả những nền kinh tế phát triển cao. Các nước đang phát triển càng cần vốn cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cơ cấu lại nền kinh tế.
ở Campuchia, kể cả từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Campuchia (ngày 4/8/1994) đến nay đã 5 năm. Số thời gian chưa đủ dài để đánh giá cặn kẽ những thành công, chưa thành công trong lĩnh vực mới mẻ này. Tuy nhiên, việc thu hút và sử dụng FDI vào Campuchia cũng đã có những tác động khá sâu sắc đối với nền kinh tế.
* FDI đã bước đầu đáp ứng một phần nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Hiện tại và cả trong tương lai nhu cầu về vốn ngày càng trở nên cần thiết, mặc dù về cơ bản và lâu dài, vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, nhưng nguồn FDI ở thời điểm này vẫn đóng một vai trò “tối quan trọng” đối với sự nghiệp tái tạo và phát triển đất nước Campuchia. Trong 5 năm qua, nguồn FDI vào Vương Quốc Campuchia đã thực sự trở thành một trong những nhân tố nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội. Trong tổng số vốn đầu tư, xây dựng cơ bản cả nước, nguồn vốn nước ngoài chiếm khoảng 73 %; riêng nguồn FDI chiếm gần 1/2 tổng số vốn đầu tư cả nước. Mặc dù còn những khiếm khuyết nhất định, song do tính hiệu quả của nó nên FDI sẽ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng số vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) nói chung vào Campuchia.
Tiềm lực về công nghệ đầu tư FDI
Mặc dù việc chuyển giao công nghệ vào Vương Quốc Campuchia qua các dự án FDI chưa đạt như mong muốn, song nhìn chung đều là những công nghệ ở mức tiên tiến hơn đã có ở trong nước, trong đó hơn 40% là đầu tư chiều sâu. Không kể những hành vi lừa đảo trong chuyển giao công nghệ của một số đối tác nước ngoài thì công nghệ đưa vào Campuchia thời gian qua cũng đã giúp cho việc nâng cao năng lực sản xuất trong nước để tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm chất lượng cao hơn; đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và còn dành một phần để xuất khẩu thu ngoại tệ (nhất là ở các đơn vị có dạng đầu tư 100% vốn nước ngoài). Điều quan trọng hơn là thông qua quá trình chuyển giao công nghệ từ các dự án FDI đã kích thích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khác buộc phải vươn lên để tồn tại trong cạnh tranh, kể cả cạnh tranh giữa các nhà ĐTNN nhằm tìm kiếm cơ hội đầu tư ở Campuchia. Cũng nhờ thu hút FDI, ở Campuchia đã xuất hiện những lĩnh vực cao như Bưu chính viễn thông, sản xuất máy móc...
Ngoài ra những dự án đầu tư vào kết cấu hạ tầng quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội bảo vệ tổ quốc cũng được triển khai.
1-/ Tình hình cấp giấy phép đầu tư
1.1-/ Quy mô và nhịp độ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh
Sau khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Campuchia, năm đầu tiên thực hiện (từ 4/8/1994 đến 31/12/1994) đã có 39 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Campuchia với tổng số vốn đầu tư là 263.461.950USD. Đây là kết quả bước đầu có ý nghĩa hết sức to lớn, vượt lên trên cả những lợi ích về mặt kinh tế. Mặc dù còn chưa quen với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, vừa làm vừa học hỏi nhưng kết quả bước đầu đã động viên khích lệ Campuchia rất nhiều. Nó tạo được niềm tin tưởng và giải tỏa tâm lý tự ti lo lắng. Trong điều kiện vừa mới tái tạo đất nước, bị bao vay cấm vận, môi trường đầu tư chưa thuận lợi, Campuchia liệu có thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không?. Thực tế đã trả lời rằng Campuchia có điều kiện và khả năng để thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Sau bước đi đầu tiên thắng lợi, những năm tiếp theo Campuchia đã mạnh dạn và tự tin hơn trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, kết quả là số vốn đầu tư tăng lên mạnh qua các năm.
Bảng 7 - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 1994- 1999
Đơn vị tính: triệu USD
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Số dự án đầu tư
39
174
194
172
142
117
Số vốn đầu tư (Triệu USD)
230,79
2.550
880
759
417
1208
Nguồn: Báo cáo hàng năm của ủy ban Đầu tư Campuchia (Cambodian Investment Board - CIB).
Tính hết năm 1999, đã có 838 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 5814 triệu USD. Trong quá trình thực hiện đã có một số dự án được bổ sung thêm, nâng tổng số vốn đầu tư đã được cấp giấy phép. Như vậy tính trung bình mỗi năm Campuchia đã thu hút được 693 triệu USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu so sánh với một số nước có các điều kiện tương tự như Malaysia thời kỳ 1970 - 1980, trung bình mỗi năm chỉ thu hút được khoảng 400 triệu USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và thời kỳ 1981 - 1987 là 840 triệu USD mỗi năm. Nếu phân tích tình hình ở nước có dân số và diện tích lớn như Indonesia, từ năm 1967 (năm đầu tiên thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) đến năm 1990, tổng số vốn đầu tư nước ngoài đạt được là 29,5 tỷ USD, tính trung bình mỗi năm Indonesia thu hút được 1.229 triệu USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thì mức độ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Campuchia trong thời kỳ đầu như vậy là rất khả quan. Có thể nói Campuchia đang gặp cơ hội thuận lợi và có những ưu thế của riêng mình là nước đi sau trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhưng nếu so sánh dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Campuchia và vào các nước khác trong khu vực trong hai, ba năm gần đây thì thấy rằng, số vốn mà Campuchia thu hút được còn quá nhỏ bé so với nhu cầu phát triển của một nước đi sau nhất là khi cần tăng trưởng nhanh để rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước đi trước.
Nhịp độ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn chưa ổn định. Năm 1994, (năm đầu tiên thực hiện luật đầu tư nước ngoài) ở Campuchia số lượng vốn đầu tư đã đạt được 230,7 triệu USD, năm 1995 tăng lên 2.550 triệu USD, mức tăng gấp 11 lần. Tuy nhiên từ năm 1996 - 1998 tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư giảm xuống. Tình hình đó vẫn khẳng định mức độ “mở cửa” với bên ngoài của Campuchia tương đối rộng rãi. Hiện đã có 30 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Campuchia.(Xem bảng số 2 phụ lục: vốn đầu tư các quốc gia vào Campuchia từ năm 1994-1999)
Quy mô trung bình của một dự án đầu tư tăng dần qua các năm từ 5,9 triệu USD năm 1994 tăng lên 14,67 triệu USD năm 1995. Nhưng năm 1998 do biến động chính trị trong nước, nên quy mô bình quân chỉ còn là 2,9 triệu USD, số dự án có quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD) chiếm tỷ lệ lớn (68%); nhưng lại chiếm tỷ lệ nhỏ về vốn đầu tư (14%). Việc phát triển hàng loạt doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian qua là hướng đi thích hợp với điều kiện của Campuchia về cơ sở vật chất kỹ thuật, về năng lực tổ chức quản lý đã cho phép sử dụng có hiệu quả các cơ sở sản xuất hiện có và tận dụng được nguồn lao động dồi dào của Campuchia. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có ưu thế là năng động, dễ đổi mới thiết bị và phương án sản phẩm, dễ thích nghi với những thay đổi của thị trường. Bên cạnh việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Campuchia cũng đang tập trung vào việc xây dựng các công trình quy mô lớn thuộc các lĩnh vực xây dựng cở hạ tầng, bảo vệ môi trường, khách sạn du lịch và bưu chính viễn thông... nhằm tạo ra sức bật mạnh mẽ cho một số lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Tuy nhiên trong thời gian qua số lượng các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có quy mô lớn chưa phát triển nhiều nên chưa đáp ứng được các nhu cầu phát triển của một số ngành kinh tế quan trọng. Nguyên nhân của tình trạng này có thể do môi trường đầu tư của Campuchia còn mới mẻ, các nhà đầu tư nước ngoài còn phải thăm dò từng bước, tìm kiếm những dự án đầu tư ít rủi ro, nhanh thu hồi vốn. Thời gian gần đây, tình hình chính trị đã ổn định, các nhà đầu tư nước ngoài đã hiểu rõ hơn môi trường đầu tư và chính sách của Campuchia, khi họ đã có ít nhiều kinh nghiệm làm ăn ở Campuchia, các nhà đầu tư nước ngoài đã bắt đầu đầu tư nhiều hơn vào những dự án có quy mô lớn và có thời hạn hoạt động lâu dài. Mặt khác cũng do sức ép cạnh tranh buộc các nhà đầu tư lớn trên thế giới phải nhanh chóng xây dựng các dự án đầu tư quy mô lớn để xâm nhập vào Campuchia, nếu như họ không muốn bị chậm chân và đến sau.
1.2-/ Cơ cấu đầu tư
Vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là cơ cấu đầu tư, bởi vì nó tác động to lớn đến quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế của Campuchia.
Về cơ cấu ngành nghề, thời kỳ đầu, để tận thu được nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nên Campuchia chưa chú ý đến việc phải lựa chọn các dự án đầu tư sao cho phù hợp với yêu cầu xây dựng cơ cấu kinh tế của Campuchia. Càng về sau yêu cầu này được đặt ra ngày càng nghiêm ngặt hơn. Theo quy định của luật đầu tư tại Campuchia, các tổ chức, cá nhân nước ngoài được đầu tư vào các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Các lĩnh vực được chính phủ Campuchia khuyến khích đầu tư là: thực hiện các chương trình kinh tế lớn, sản xuất hàng xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu; sử dụng kỹ thuật cao, công nhân lành nghề, đầu tư theo chiều sâu để khai thác và tận dụng các khả năng và nâng cao công suất của các cơ sở kinh tế hiện có; sử dụng nhiều lao động, tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở Campuchia; xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, dịch vụ thu ngoại tệ như du lịch, sửa chữa tầu, dịch vụ sân bay, cảng khẩu....
Qua một số năm vừa làm vừa điều chỉnh, cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có bước chuyển biến quan trọng, bước đầu phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia.
Trong năm đầu 1994, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung chủ yếu vào các ngành: chế biến lương thực (22,8%), năng lượng (15,2%), dệt may (19%), thuốc lá (25,2%), công nghiệp khác (2%). Đến năm 1995 đầu tư vào các ngành du lịch rất lớn (chiếm 59%), công nghiệp khác tăng lên đáng kể chiếm (9,3%).
Tính đến hết năm 1996, các dự án đầu tư vào ngành công nghiệp chiếm (14%); nông nghiệp (3%); du lịch (13%); cơ sở hạ tầng (68%); các ngành khác (2%). Như vậy có thể nói việc đầu tư vào ngành nông nghiệp đạt rất thấp, chưa phù hợp với phương hướng gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Campuchia.
Vốn đầu tư một số quốc gia vào Campuchia năm 1996
Dự án đầu tư theo ngành năm 1996 của Campuchia
Triệu USD
Nguồn: Conclusions paper of the first Roundtable with the Goverment of Cambodian - Phnom Penh - June, 1996 - Appendix III.
Sau 6 năm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tính tất cả có 64,6% số vốn đầu tư thuộc ngành sản xuất vật chất; hơn 60% dự án thuộc loại đầu tư chiều sâu, nhằm khai thác và nâng cấp những năng lực sản xuất hiện có, tạo điều kiện cho Campuchia khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế của mình. Đây là hướng được chú ý quan tâm trong quá trình thực hiện thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Campuchia thời gian qua. Phương hướng tới cần tập trung đầu tư phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn, có hàm lượng kỹ thuật cao như công nghiệp điện tử, thông tin, du lịch.... Hiện nay, Campuchia đang có cơ hội và điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài một cách đa dạng, phong phú, tăng lượng vốn đầu tư, đồng thời cũng cần phải quan tâm đến chất lượng của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, xem xét ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế đất nước trước mắt và lâu dài.
Về cơ cấu lãnh thổ
Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Campuchia chủ yếu tập trung vào các tỉnh thành phố lớn như Phnôm Pênh, tỉnh Kan Đal, theo dọc quốc lộ số 4 từ Phnôm Pênh đến thành phố cảng Sihanouk ville, tỉnh Kampông Spư.... những tỉnh, thành phố này chiếm khoảng 80% về số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký và thực hiện tại Campuchia. Nguyên nhân là do diễn biến tình hình chính trị các vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, cơ sở hạ tầng lạc hậu, thị trường chưa phát triển. Mặt khác do chưa phân tuyến, phân luồng giữa khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế khác của chính phủ, khu vực tư nhân dẫn đến sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế. Tình trạng phổ biến hiện nay là trong cùng một thời gian có quá nhiều đối thủ cạnh tranh trên một thị trường chật hẹp. Chẳng hạn như ngành bưu chính viễn thông, khách sạn, du lịch hầu hết các thành phần kinh tế đều tham gia. Sự chen lấn quá lớn này đã làm giảm mức hấp dẫn của các thị trường nói trên.
Tóm lại, cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua ở Campuchia đã từng bước phù hợp với cơ cấu đầu tư nói chung, phù hợp với nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế trong những năm trước mắt và trong thời gian tới. Nhưng việc tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn mang tính chất tự nhiên, xuất phát chủ yếu từ sự quan tâm hay gợi ý của các nhà đầu tư nước ngoài và từ công tác điều hành cụ thể chủ quan của cơ quan quản lý về đầu tư trực tiếp nước ngoài và các ngành, các địa phương có liên quan. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong nhiều trường hợp, chưa theo đúng định hướng về quy hoạch ngành với lãnh thổ. Đầu tư vào nông nghiệp, vào các tỉnh miền núi hoặc vùng xa còn quá ít. Tình hình này đã làm hạn chế tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế của Campuchia. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do chưa có quy hoạch chi tiết về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và do định hướng còn chung chung, nhiều điểm không phù hợp với tình hình thực tế đã có nhiều thay đổi. Mặt khác, các chính sách ưu đãi có phân biệt chưa đủ hấp dẫn, lôi kéo được đầu tư trực tiếp nước ngoài theo sự sắp xếp của nước chủ nhà.
Về phía các đối tác nước ngoài, họ cũng muốn Campuchia có một quy hoạch chi tiết về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để họ khỏi bị mất nhiều thời gian và hao phí vật chất khi đã xác định được cơ hội đầu tư, chuẩn bị hồ sơ dự án đầu tư đầy đủ nhưng vẫn bị từ chối do không phù hợp với chủ trương chính trị của Campuchia. Nhiều trường hợp, bản thân cơ quan quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài và các bộ ngành có liên quan không thống nhất được chủ trương dự án.
1.3-/ Hình thức và các đối tác đầu tư
Về hình thức đầu tư
Luật đầu tư tại Campuchia quy định đầu tư nước ngoài có 3 hình thức đầu tư chủ yếu là: xí nghiệp liên doanh; xí nghiệp 100% vốn nuớc ngoài; hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng và hình thức ký hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (Build - Operate - Tranfer- BOT) với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc xí nghiệp đầu tư nào đó của Campuchia. Tính đến năm 1999, hình thức xí nghiệp liên doanh chiếm 55,4% số dự án và 67,3% số vốn đầu tư; xí nghiệp vốn 100% nước ngoài chiếm 25,1% số dự án và 15,3% số vốn đầu tư hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng chiếm 19,5% số dự án và 17,4% số vốn đầu tư. Trong số các dự án đã được cấp giấy phép mới chỉ có 3 dự án được thực hiện theo hình thức BOT.
Các hình thức đầu tư tại Campuchia
Nguồn: Conclusions paper of the first Roundtable with the Goverment of Cambodian - Phnom Penh - June, 1996 - Appendix III.
Hình thức xí nghiệp liên doanh: tổng số các xí nghiệp liên doanh đã được cấp giấy phép đầu tư tư tính đến năm 1999 là 464 dự án với tổng số vốn đăng ký là 3912.8 triệu USD. Đây là hình thức đầu tư được các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng nhiều nhất trong thời gian qua, bởi các lý do sau:
- Thông qua hợp tác liên doanh với đối tác Campuchia, các nhà đầu tư nước ngoài tranh thủ được sự hỗ trợ và những kinh nghiệm của các đối tác Campuchia trên thị trường mà họ chưa quen biết trong quá trình làm ăn của họ tại Campuchia.
- Môi trường đầu tư của Campuchia còn nhiều bất trắc, các nhà đầu tư nước ngoài không muốn gánh chịu mọi rủi ro mà muốn các đối tác Campuchia cùng chia sẻ rủi ro với họ nếu có. Liên doanh với một đối tác ở bản địa, các nhà đầu tư sẽ yên tâm và mạnh dạn hơn trong kinh doanh vì họ đã có một người bạn đồng hàng.
- Bước đầu kinh doanh ở Campuchia, khi chưa hiểu biết nhiều về thị trường, hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài còn hạn chế số vốn đầu tư để còn thăm dò thị trường, nhưng khi kinh doanh có kết quả họ đều muốn mở rộng hoạt động kinh doanh của mình.
Hình thức xí nhiệp liên doanh có khả năng thuận lợi để mở rộng phạm vi và lĩnh vực hoạt động kinh doanh hơn so với hình thức 100% vốn nước ngoài.
Đối với các doanh nghiệp trong nước, chính phủ Campuchia cũng khuyến khích và hỗ trợ họ đầu tư phát triển theo chiều sâu. Chính phủ tạo điều kiện và giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước liên doanh với nước ngoài nhằm sử dụng có hiệu quả mặt bằng, nhà xưởng và máy móc thiết bị hiện có. Gần đây các nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng giảm dần sự quan tâm đến hình thức xí nghiệp liên doanh và số dự án 100% vốn nước ngoài tăng lên. Điều này thể hiện qua việc gia tăng tỷ trọng số dự án của các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài trong tổng số các dự án đã được cấp giấy phép. Ví dụ: năm 1995 tỷ trọng này là: 246.818 triệu USD (trong tổng số vốn đăng ký là 1.949 triệu USD chiếm 12.66%. Năm 1998 là 162.3 triệu USD (trong tổng số vốn đăng ký là 417.5 triệu USD) chiếm 38.87%. Xu hướng này hình thành do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Sau một thời gian tiếp xúc với thị trường Campuchia, các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các nhà đầu tư Châu á đã hiểu rõ hơn về luật pháp, chính sách và các quy định khác của Campuchia. Thậm chí họ còn hiểu rõ về phong tục tập quán và thói quen tiêu dùng của người Campuchia cũng như cách thức kinh doanh của các doanh nghiệp Campuchia.
Các nhà đầu tư nước ngoài muốn được tự chủ trong điều hành quản lý doanh nghiệp, họ không muốn bị lệ thuộc vào ý kiến của các đối tác nước chủ nhà nữa. Vì trên thực tế đã xuất hiện nhiều tranh chấp trong việc quản lý điều hành xí nghiệp liên doanh mà một phần do sự yếu kém về trình độ của bên Campuchia.
Khả năng tham gia liên doanh của các đối tác Campuchia ngày càng bị hạn chế vì thiếu cán bộ, thiếu vốn đóng góp. Từ năm 1994-1999, trong số 464 xí nghiệp liên doanh đã được cấp giấy phép, bên Campuchia chỉ đóng góp được 34,2% vốn pháp định (1338.17 triệu USD trên tổng số 3912.8 triệu USD) trong đó có tới 90% là giá trị quyền sử dụng đất, 8 - 9% là giá trị nhà xưởng, tài sản hiện có, chỉ có 1 - 2% được đóng góp bằng tiền, nhưng ngay khoản đóng góp này cũng thường rất khó khăn trong việc thực hiện.
Hình thức xí nghiệp 100% vốn nước ngoài: các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được thành lập theo hình thức 100% vốn nước ngoài, ngay từ năm 1995 đã nhiều (khoảng 73 dự án trong tổng174 dự án), đến năm 1998 con số này là 87 dự án trong tổng số 142 dự án. Nhưng xu hướng gia tăng các dự án đầu tư theo hình thức này ngày càng mạnh mẽ; hình thức 100% vốn nước ngoài được các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lựa chọn ngày càng nhiều vì nó có phần dễ thực hiện và thuận lợi hơn cho họ. Nhưng về hình thức này, phía nước nhận đầu tư thường chỉ nhận được các lợi ích trước mắt, về lâu dài hình thức đầu tư này không hứa hẹn những lợi ích tốt đẹp, mà thậm chí nước nhận đầu tư còn phải gánh chịu nhiều hậu quả khó lường.
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (Business Cooperation Contract - BCC): đây là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, theo đó bên nước ngoài và bên Campuchia cùng nhau thực hiện một hợp đồng được ký giữa hai bên, quy định rõ trách nhiệm, quyền lợi và nghiã vụ của mỗi bên trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mà không thành lập một pháp nhân mới; trong quá trình hợp tác kinh doanh, mỗi bên giữ nguyên tư cách pháp nhân của mình. Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài này đã xuất hiện từ sớm ở Campuchia, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa hoàn thiện được các quy định pháp lý cho hình thức này. Điều đó đã gây không ít khó khăn cho việc giải thích, hướng dẫn và vận dụng vào thực tế tình hình ở Campuchia. Ví dụ như có sự nhầm lẫn giữa hợp đồng hợp tác kinh doanh với các dạng hợp đồng khác không thuộc phạm vị điều chỉnh của luật đầu tư tại Campuchia (như hợp đồng gia công sản phẩm, hợp đồng mua thiết bị trả chậm, hợp đồng thuê mua thiết bị, thuê người nước ngoài quản lý kinh doanh.....). Lợi dụng sở hở này, một số nhà đầu tư nước ngoài đã trốn tránh sự quản lý của chính phủ, đầu tư chui vào Campuchia. Hoặc khi thực hiện dự án lớn, các bên hợp doanh thường gặp khó khăn trong việc phối hợp điều hành dự án. Một số hợp doanh đã đề xuất thành lập ban điều hành chung và đề nghị tổ chức ban điều hành đó như là một pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài dễ thực hiện và có ưu thế lớn trong việc phối hợp sản xuất các sản phẩm kỹ thuật cao đòi hỏi có sự kết hợp thế mạnh của nhiều công ty ở nhiều quốc gia khác nhau. Đây cũng sẽ là xu hướng hợp tác sản xuất kinh doanh trong một tương lai gần, xu hướng của sự phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất trên phạm vi quốc tế.
ã Về đối tác đầu tư trong và ngoài nước
Đối tác Campuchia: theo quy định của luật đầu tư thì mọi tổ chức kinh tế Campuchia được hợp tác trực tiếp với nước ngoài. Nhưng trên thực tế thì trong thời gian qua hầu như chỉ có một số doanh nghiệp có quy mô lớn tham gia hợp tác kinh doanh với nước ngoài, trong các hợp đồng hợp tác kinh doanh và trong các xí nghiệp liên doanh đang hoạt động, các doanh nghiệp có quy mô lớn tham gia 89% số dự án và 96% tổng vốn đầu tư, các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ không đáng kể so với tổng vốn đầu tư. Tình hình này phản ánh tình trạng thực tế của các doanh nghiệp tư nhân của Campuchia còn nhỏ bé, trình độ sản xuất và năng lực quản lý kinh doanh còn yếu kém chưa đủ khả năng tham gia hợp tác kinh doanh với nước ngoài. Vấn đề đặt ra là phải có chính sách thích hợp để khuyến khích phát triển doanh nghiệp tư nhân và đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của chính phủ đối với các doanh nghiệp tư nhân. Vì các doanh nghiệp này là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, ngày càng đóng góp vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Campuchia và chính họ cũng sẽ là đối tượng được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm nhiều trong những năm tới.
Đối tác nước ngoài: thời kỳ đầu khi mới thực hiện luật đầu tư nước ngoài, chủ yếu là các công ty nhỏ, thậm chí cả công ty môi giới đầu tư vào Campuchia. Phần lớn các dự án do các công ty thuộc khu vực Đông á - Thái Bình Dương và Tây Bắc Âu thực hiện. Sau 6 năm (1994 - 1999) thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài các đối tác đầu tư nhiều nhất vào Campuchia đó là:
Bảng 8 - Các đối tác nước ngoài có số vốn đầu tư lớn nhất (1994 - 1999)
Đơn vị tính: triệu USD
TT
Tên đối tác
Số dự án (%)
Tổng số vốn đầu tư
1
Malaysia
31.83
1.850
2
Đài Loan
7.23
420
3
Mỹ
7.15
415
4
Trung Quốc
4.43
257
5
Hồng Kông
4.00
232
6
Singapore
3.86
224
7
Hàn Quốc
3.45
200
8
Pháp
3.43
199
9
Thái Lan
3.06
177
10
Anh
1.36
79
Tổng số
69.8
4.053
Nguồn: Analysis of Capital by Country (Projects Approved from 1994 to 1999) - Cambodian Investment Board (CIB).
Như vậy, từ năm 1994 đến tháng 11/1999, đã có 10 nước và lãnh thổ ở bảng trên, đã đầu tư vào Cam pu chia với tổng số vốn là 4.053 triệu USD chiếm 69.8% tổng số vốn đầu tư của tất cả các dự án đang thực hiện ở Campuchia. Khoảng 20 nước còn lại với số vốn 1760 triệuUSD chiếm 31.2% các dự án này chủ yếu do các công ty loại nhỏ thực hiện. Từ đầu năm 1999 bắt đầu xuất hiện các công ty lớn, thậm chí đã có một vài tập đoàn tầm cỡ quốc tế vào làm ăn ở Campuchia.
Như vậy từ năm 1994 tính đến hết năm 1999 đã có hơn 838 công ty thuộc 30 nước và vùng lãnh thổ tham gia hợp tác đầu tư, trong đó có nhiều tập đoàn lớn, có năng lực về vốn và công nghệ như: Siemen, Sanyo, National của Nhật Bản, Thysen của Đức, Samsung, Goldtar, Daewoo của Hàn Quốc...
Tính đến đầu năm 1999 các công ty và cá nhân của Malaysia, Đài Loan, Mỹ, Trung Quốc, Hồng Kông đang đứng đầu về số vốn đầu tư đăng ký đã được cấp giấy phép và cùng với Hàn Quốc, Anh, Thái lan chiếm tới 69.8% trong tổng số vốn đầu tư trực tiếp vào Campuchia. Tình hình này phản ánh mức độ hội nhập của nền kinh tế Campuchia vào khu vực. Nó cho thấy triển vọng của Campuchia trong việc nhập vào đội hình tăng trưởng theo kiểu “làn sóng” đang diễn ra mạnh mẽ tại khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Thời gian qua cũng đã có một số công ty của Mỹ đầu tư vào Campuchia, nhịp độ đầu tư của các công ty Mỹ tăng nhanh, với nhiều dự án quy mô lớn. Tính đến hết năm 1999 các công ty của Mỹ đã đầu tư vào Campuchia với tổng vốn là hơn 415 triệu USD và được xếp vào hàng thứ 3 trong bảng xếp hạng các nước có vốn đầu tư vào Campuchia. Nhưng vị trí này chưa tương xứng với khả năng về vốn và công nghệ của một nước công nghiệp phát triển như nước Mỹ. Trong thời gian tới, để thực hiện chủ trương đa dạng hoá hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chính phủ Campuchia cần phải có những điều chỉnh thích hợp nhằm thu hút được vốn và công nghệ tiên tiến của các công ty, tập đoàn có tiềm lực tài chính và khả năng kỹ thuật ở các quốc gia công nghiệp lớn như Mỹ, Nhật và các nước ở Tây âu.
Trong hoàn cảnh hiện nay, khi mà trên thế giới đang diễn ra cuộc cạnh tranh giữa các nước đi đầu nhằm giành và giữ thị trường, thì Campuchia có nhiều cơ hội để thực hiện mục tiêu của mình thông qua việc chủ động tìm đối tác đầu tư sao cho vừa tranh thủ được tiềm năng về vốn, vừa khai thác những khả năng về công nghệ - kỹ thuật tiên tiến trên thế giới.
2-/ Kết quả thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
Những kết quả của đầu tư nước ngoài vào Campuchia được thể hiện:
ã Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Campuchia tăng khá đều đặn qua các năm (kể từ 1994 đến 1999). Tính đến năm 1999 Vương Quốc Campuchia đã có 838 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với gần 5.814 triệu USD tổng số vốn đầu tư. Trong đó có trên 419 dự án đầu tư đối với lĩnh vực công nghiệp nặng, khai thác dầu khí, xây dựng cơ sở hạ tầng, du lịch,công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm với tổng số vốn đăng ký hơn 2.907 triệu USD. Nghĩa là gần 50% số dự án và gần 50% số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp. Điều này cho thấy thị trường công nghiệp nhẹ và dịch vụ- du lịch Campuchia là một thị trường đầu tư có triển vọng hơn so với thị trường các ngành khác. Đồng thời, bước đầu cũng đã có một số khu công nghiệp và khu chế xuất được cấp giấy phép hoạt động.
ã Quy mô trung bình của các dự án tăng lên. Từ những dự án có số vốn hàng chục triệu đô la, đã xuất hiện những dự án có số vốn hàng trăm triệu đô la. Những dự án này là những dự án có sức hút mạnh đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực có khả năng sinh lời cao như lĩnh vực thông tin liên lạc viễn thông, khu đô thị mới.... Quy mô các dự án đầu tư lớn tạo điều kiện khai thác tốt hơn các nguồn lực trong nước. Nhiều dự án đầu tư định hướng vào lĩnh vực xây dựng và lĩnh vực kinh doanh bất động sản là những lĩnh vực ít được chú ý trước đây.
Bảng 9 - Việc thu hút vốn đầu tư vào ngành công nghiệp ở Campuchia kể từ 1994 đến 4 / 1998
Ngành
Tổng số vốn triệu USD
Số dự án
Sản xuất xi măng
403
6
Sản xuất thực phẩm
255
25
Dệt may
259
219
Điện lực
122
7
Chế biến thực phẩm
113
40
ã Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo điều kiện chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Vương Quốc Campuchia. Đây là một trong những mục tiêu quan trọng của việc đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Những dự án quan trọng trong lĩnh vực chế tạo máy nông nghiệp, bao bì, chế tạo vật liệu trong ngành dệt may và trong ngành xây dựng.... là những khâu trung gian chuyển giao công nghệ tiến bộ vào Campuchia có hiệu quả.
ã Đầu tư trực tiếp nước ngoài để góp phần khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Campuchia, tạo thêm công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động. Hiện nay, trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài tại Campuchia thu hút 469.982 lao động (từ năm 1994 đến năm 1999) và hàng chục vạn người làm các công việc phục vụ khác. Mục tiêu giải quyết công ăn việc làm và cải thiện thu nhập cho người lao động mà Chính phủ Hoàng Gia Campuchia đưa ra đã được thực hiện được phần nào.
ã Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu do dòng vốn đầu tư trực tiếp di chuyển vào Campuchia và hoạt động xuất khẩu được mở rộng. Năm 1995, tổng kim ngạch ngoại thương của Campuchia đạt 1.458,2 triệu USD; năm 1996 là 1.353,3 triệu USD; năm 1998 là 794,9 triệu USD.
ã Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần hoàn thiện môi trường thể chế ở Campuchia, đặc biệt là hệ thống luật pháp. Việc ban hành các văn bản dưới luật, cơ chế quản lý kinh tế theo hướng chuyển đổi thủ tục hành chính được cải tổ từng bước và đang có triển vọng để tạo ra tác phong giải quyết các loại thủ tục theo hướng nhanh chóng, trung gian gọn nhẹ và tương ứng với cơ chế mới của Vương Quốc Campuchia trong điều kiện hội nhập vào nền kinh tế thế giới và phân công lao động quốc tế.
ã Đẩy mạnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là cơ sở để đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ kỹ thuật, công nhân... giúp họ nắm được những hiệp ước, hiệp định của ASEAN bao gồm cả việc tham gia khu vực mậu dịch tự do của ASEAN (AFTA) để thực hiện hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) khi mà Campuchia tham gia là thành viên chính thức của các nước Đông Nam á (ASEAN).
ã Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo điều kiện cho nền kinh tế và các doanh nghiệp tại Vương Quốc Campuchia, các nhà hoạch định chính sách quản lý, cũng như đội ngũ doanh nhân Campuchia có dịp thử nghiệm và đánh giá được khả năng thực tế của mình rút ra những bài học cần thiết cho việc hoạch định chính sách đầu tư trong giai đoạn tiếp theo. Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn tạo ra những tác động tích cực trong việc hình thành tác phong kinh doanh năng động, nhạy bén, sáng tạo trong cơ chế thị trường cho đội ngũ cán bộ quản lý Campuchia.
3-/ Hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực được đề cập ở trên, đầu tư trực tiếp nước ngoài của Vương Quốc Campuchia đã bộc lộ những hạn chế.
3.1. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao vào Campuchia công nghệ lạc hậu với giá cả cao. Theo kết quả báo cáo thẩm định các dự án đầu tư được công bố, chỉ có lĩnh vực vô tuyến viễn thông ..., công nghệ được chuyển giao được đánh giá là công nghệ tiên tiến. Còn trong các lĩnh vực khác như công nghiệp cơ khí, xi măng, thuốc lá... phần lớn công nghệ chuyển giao vào Campuchia chưa phải là công nghệ tiên tiến. Cá biệt có trường hợp công nghệ được chuyển giao vào Campuchia là công nghệ của những năm trước chiến tranh thế giới lần thứ hai. Chính phủ Hoàng gia Campuchia vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để có thể thu hút được những công nghệ "gốc". Các công nghệ này vừa gây thua thiệt về hiệu quả kinh tế vừa gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường.
3.2. Thị trường đầu tư chưa quy hoạch nhất quán, chưa gắn chặt trực tiếp và có hiệu quả với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Công tác quy hoạch chưa được quy hoạch tổng thể ở từng khu vực địa phương trong cả nước, gây khó khăn trong việc cấp đất, giải phóng mặt bằng và mở rộng hoạt động kinh doanh cho các nhà đầu tư.
3.3. Trách nhiệm của cán bộ trực tiếp quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa được coi trọng, thủ tục hành chính chưa tinh gọn và chồng chéo. Các loại qui định về thủ tục xin giấy phép đầu tư, sử dụng đất, xây dựng doanh nghiệp, tín dụng, ngân hàng, thuế, chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ đối với khu vực có vốn đầu tư cần có sự bổ sung, hoàn chỉnh. Việc cải cách thủ tục hành chính đang làm phát sinh nhiều vấn đề mới phải tiếp tục tháo gỡ, đặc biệt là phân cấp thẩm định dự án cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài cho các địa phương còn nhiều hạn chế.
3.4. Việc triển khai dự án gặp nhiều khó khăn, không đúng hạn, vi phạm luật của Chính phủ Hoàng gia Campuchia. Nguyên nhân chính là do thị trường đầu tư của Campuchia chưa phải là thị trường có sức mua lớn, thu nhập dân cư còn thấp (nước kém phát triển). Vì vậy tính kinh tế theo qui mô của hoạt động đầu tư thấp, khả năng sinh lợi của đồng vốn đầu tư không cao, không có triển vọng lâu dài. Mặt khác là tình hình đầu tư quốc tế trên thế giới và trong khu vực có những chuyển biến phức tạp, nhanh chóng do đó khó có thể dự báo chính xác, nên việc sửa đổi hệ thống luật pháp, chính sách, khó có thể theo kịp được với những thay đổi nhanh chóng của thực tiễn kinh doanh. Bên cạnh đó, tình trạng cạnh tranh gay gắt để thu hút vốn đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực đặc biệt là Thái Lan, Malaysia, Singapore, Trung Quốc, Việt Nam... đã làm ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Campuchia.
Trong một số trường hợp do tình hình chính trị..., việc nhà đầu tư nước ngoài không thiện chí đầu tư và làm ăn lâu dài ở Campuchia là nguyên nhân làm cho các dự án đầu tư không thể triển khai, hoặc triển khai không có kết quả.
3.5. Đồng vốn đầu tư nước ngoài cho Campuchia chủ yếu tập trung vào các thành phố và tỉnh lớn như Phnôm Pênh, tỉnh Kanđal, và dọc Quốc lộ số 4 (từ Phnôm Pênh đến Thành phố Cảng Sihanuk ville), tỉnh Kampongspư,...v.v.. những thành phố, tỉnh này chiếm khoảng 80% về số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Campuchia.
Như vậy trong việc xây dựng lại đất nước và tiến triển nền kinh tế, Campuchia rất cần thiết phải có sự xem xét đầy đủ và toàn dân hơn nữa vai trò của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đồng thời cần áp dụng các giải pháp có hiệu quả để huy động tốt hơn nữa các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Phần 4
Kết luận và kiến nghị
Trong điều kiện hiện nay đối với Vương Quốc Campuchia, các giải pháp chủ yếu được coi trọng là :
1. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư theo xu thế cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Mặc dù môi trường đầu tư của Chính phủ Hoàng gia Campuchia đưa ra có những bước tiến đáng kể Như bảo đảm công bằng và thoả đáng cho người đầu tư vốn và tài sản của người đầu tư không bị trưng dụng hoặc bị tịch thu bằng những phương pháp hành chính; cho phép nhân viên nước ngoài chuyển vốn, lợi nhuận và mọi khoản tiền khác thuộc quyền sở hữu ra nước ngoài. Ưu đãi về thuế lợi nhuận là 9%, trong các ngành khai thác kinh doanh tài nguyên thiên nhiên : gỗ, dầu khí, mỏ vàng- đá quý ...v.v đã có luật riêng quy định; có thể miễn thuế lợi nhuận trong thời gian 8 năm với những lĩnh vực được chính phủ ưu tiên đầu tư...
, tuy nhiên so với các nước trong khu vực, môi trường đầu tư nước ngoài vào Campuchia vẫn còn nhiều nhược điểm phải hoàn thiện theo xu hướng phát triển chung của việc thu hút vốn đầu tư của các nước trên thế giới. Dưới góc độ cạnh tranh, môi trường đầu tư phải có độ hấp dẫn cao hơn hoặc phải có tính khác biệt lớn hơn so với các nước có điều kiện tương tự để có thể thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Theo cách xem xét đó, để đuổi kịp sự phát triển của các nước trong khu vực, cần phải có phương án cải thiện môi trường đầu tư theo xu hướng cạnh tranh với các nước trong khu vực cả trong ngắn hạn và dài hạn, khi xây dựng luật pháp, và các loại chính sách để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa phải phù hợp với Campuchia, vừa phải so sánh, đối chiếu với các nước trong khu vực để tạo ra độ hấp dẫn cao hơn, hệ thống này, khi xây dựng cần chú trọng đến các yếu tố có tính chất quyết định như rõ ràng, hấp dẫn, tính ổn định và mức độ khuyến khích đối với các nhà đầu tư trong tương quan với các nước trong khu vực.
2. Quan tâm bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách hợp lý và coi trọng những việc bảo hộ đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất khẩu khối lượng lớn.
Bản chất của việc bảo hộ trong nước là hết sức cần thiết do hàng hoá nước ngoài đang cạnh tranh gay gắt với hàng nội địa và loại dần một số hàng nội địa ra khỏi thị trường. Trong điều kiện như vậy, việc bảo hộ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu khối lượng lớn là phương hướng chính sách mà Chính phủ Hoàng gia Campuchia quan tâm. Mục đích của việc làm này là nhằm bảo đảm vừa thúc đẩy xuất khẩu, vừa bảo hộ được sản phẩm quan trọng của nền kinh tế. Nhờ được bảo hộ, các doanh nghiệp xuất khẩu khối lượng lớn sẽ có điều kiện để tiếp thu công nghệ hiện đại và có phương án để khuyếch trương hoạt động nghiên cứu thị trường, tăng cường cạnh tranh quốc tế và đẩy mạnh khai thác các lợi thế có hiệu quả. Bảo hộ cũng là cơ sở để xác định phương hướng bảo hộ trong điều kiện Campuchia đang từng bước tham gia vào các liên kết kinh tế khu vực và các tổ chức quốc tế. Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được loại trừ dần, phải tuân thủ nghiêm túc các thông lệ quốc tế.
3. Chú ý cải cách hệ thống kinh doanh tiền tệ và ngân hàng, phát triển thị trường tài chính.
Để xác định phương hướng cải cách hệ thống này, chính phủ cần chú trọng đến việc tìm thị trường đầu tư của ngân hàng và nâng cao vai trò tư vấn của ngân hàng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường kinh doanh thường xuyên biến đổi. Mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng là yếu tố quan trọng để cải tiến hệ thống ngân hàng. Việc cải tổ hệ thống ngân hàng cần thực hiện theo hướng phát huy vai trò của hệ thống ngân hàng đối với các hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế. Hạn chế tối đa việc dùng tiền mặt trực tiếp trong lưu thông, thực hiện chế độ tín dụng ưu đãi đối với hoạt động đầu tư để xuất khẩu, gắn việc cải cách hệ thống ngân hàng là việc phát triển thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán. Đây là điều kiện cực kỳ quan trọng để các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành các hoạt động đầu tư một cách đa dạng vào nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có lĩnh vực tài chính, ngân hàng và từng bước hình thành thị trường vốn ở Campuchia.
4. Cần đào tạo đội ngũ cán bộ.
Đào tạo đội ngũ cán bộ là một giải pháp cực kỳ quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi hoạt động đầu tư nước ngoài đang từng bước đi vào chiều sâu và mức độ cạnh tranh giữa các nhà đầu tư ngày càng lớn hơn đối với Vương quốc Campuchia. Để thực hiện tốt công tác đào tạo đội ngũ cán bộ cần xuất phát từ mục đích, nội dung, thực trạng của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để hình thành tư chất đội ngũ cán bộ trong khi đang mở rộng nền kinh tế quốc gia ; Trước hết xét về cơ cấu cán bộ, các cán bộ hiện nay không chỉ có cán bộ quản lý kinh tế mà còn có cả các cán bộ kỹ thuật công nhân lành nghề. Xét về chất lượng cán bộ các cán bộ cần có đủ kiến thức, kinh nghiệm trong các lĩnh vực kinh doanh, hiểu biết luật pháp trong nước và quốc tế, có khả năng thích nghi với cạnh tranh và giỏi ngoại ngữ. Các cán bộ này đồng thời phải là những người có khả năng tập hợp tổ chức liên kết và điều hành tốt công việc. Để có đội ngũ này, cần chủ động xây dựng, môi trường đào tạo và rèn luyện cán bộ theo cơ chế cạnh tranh.
5. Chú trọng tăng cường phát triển các mối quan hệ quốc tế.
Việc chú trọng ký kết các hiệp định liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và phát triển các mối quan hệ với các nước các tổ chức quốc tế, phát triển các mối quan hệ với các công ty đa quốc gia, khai thông quan hệ với các thiết chế tài chính quốc tế khu vực và toàn cầu là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Đây là quá trình hình thành khung pháp lý quốc tế, tạo hành lang rộng lớn cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc phát triển các mối quan hệ quốc tế theo phương châm chú trọng hiệu quả và chất lượng sẽ tạo điều kiện tốt để mở rộng các mối quan hệ giữa chính phủ Campuchia với các nước, mở rộng quan hệ giữa các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế Campuchia với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nước ngoài tạo ra các quan hệ kinh tế từ trong ra ngoài và từ ngoài vào trong với quy mô và cường độ lớn hơn để thu hút có hiệu quả hơn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Campuchia.
Mục lục
Phần mở đầu
Bảng số 1 Phụ lục - Bảng luồng FDI tư nhân thuần tuý từ các nước tiên tiến vào các nước đang phát triển thời kỳ 1961 - 1988
Năm
Từ tất cả các nước tiên tiến (Triệu USD)
Từ Mỹ
Từ Nhật Bản
Triệu USD
% trong tất cả các nước tiên tiến
Triệu USD
% trong tất cả các nước tiên tiến
1961
1.833,6
828
45,2
98,4
5,4
1962
1.945,2
566,0
37,9
68,4
4,6
1963
1.603,0
745,0
46,5
76,7
4,8
1964
1.571,5
683,0
43,4
39,3
2,5
1965
2.468,3
1.271,0
51,5
87,4
3,5
1966
2.179,3
110,0
50,9
86,8
4,0
1967
2.105,0
1.060,0
50,4
66,4
3,2
1968
3.151,5
1.747,0
55,4
110,3
3,5
1969
2.918,6
1.363,0
46,7
144,1
4,9
1970
3.563,2
1.742,0
48,9
261,5
7,3
1971
3.874,3
2.010,0
51,9
222,4
5,7
1972
4.443,1
1.976,0
44,5
204,0
4,6
1973
6.710,6
2.887,0
43,0
1.301,1
19,4
1974
7.060,1
3.788,0
53,7
705,4
10,0
1975
10.493,8
7.241,0
69,0
222,7
2,1
1976
7.823,9
3.119,0
39,9
1.084,2
13,9
1977
9.498,9
4.866,0
51,2
724,4
7,6
1978
11.153,3
5.619,0
50,4
1.318,3
11,8
1979
12.945,3
7.986,0
61,7
690,6
5,3
1980
8.896,2
3.367,0
37,8
906,0
10,12
1981
15.377,0
6.475,0
42,2
2.426,0
15,8
1982
10.385,0
5.451,0
52,5
364,0
3,5
1983
7.791,0
2.340,0
30,0
433,0
5,6
1984
10.909,0
4.419,0
40,5
1.489,0
13,6
1985
6.488,0
930,0
14,3
1.046,0
16,1
1986
10.968,0
3.107,0
28,3
2.761,0
25,2
1987
20.895,0
8.061,0
8.190,0
35,2
Tổng cộng:
1961 - 1970
1971 - 1980
1981 - 1987
23.339,2
82.899,5
82.813,0
10.115,0
42.859,0
30.783,0
48,6
51,7
37,1
1.039,3
7.379,1
16.709,0
4,5
8,9
19,3
Nguồn: OECD, Tạp chí Hợp tác phát triển, các số khác nhau và OECD năm 1987
Bảng số 2 Phụ lục - Analysis of capital by country
Projects Approved from 1994 to 1999
Regions
Countries
Investment (USD)
Fixed Assets (USD)
(%)
Amerecas
87,126,977
478,083,860.96
8.22%
United States
34,052,077
415,894,871.00
7.15%
Canada
52,774,900
415,894,871.00
1.07%
Argentina
300,000
61,943,604.96
0.00%
Asean
1,830,148,200
245,385.00
39.58%
Malaysia
1,509,233,000
1,850,198,051.75
31.83%
Singapore
161,977,100
224,143,868.23
3.86%
Thailand
112,817,100
177,596,856.88
3.06%
Indonesia
44,995,000
48,099,578.25
0.83%
VietNam
1,126,000
1,117,069.64
0.02%
Cambodia
833,235,951
1,546,168,992.13
26.60%
Cambodia
833,235,951
1,546,168,992.13
26.60%
Europe
172,833,000
325,539,498.42
5.60%
France
35,984,300
199,494,652.78
3.43%
United Kingdom
113,870,100
79,317,630.74
1.36%
Netherlands
3,100,000
13,578,000.00
0.23%
Sweden
3,000,000
12,041,880.00
0.21%
Switzerland
8,000,000
11,781,595.00
0.20%
Portugal
5,550,000
4,264,722.40
0.07%
Belgique
600,000
1,860,000.00
0.03%
Russia
1,500,000
1,800,550.00
0.03%
Bulgaria
250,000
520,777.50
0.01%
Israel
500,000
392,100.00
0.01%
Norway
350,000
245,630.00
0.00%
Germany
118,800
230,690.00
0.00%
New Zealand
9,800
11,270.00
0.00%
Other Asia Pacific
759,045,983
1,162,310,577.74
19.99%
Taiwan
294,090,970
420,111,188.34
7.23%
China
218,648,381
257,729,100.56
4.43%
Hong Kong
110,138,252
232,567,948.64
4.00%
Korea
84,608,000
200,670,332.80
3.45%
Australia
40,766,500
32.966,868.60
0.57%
Japan
8,314,200
15,736,058.80
0.27%
Macau
1,829,680
1,909,080.00
0.03%
India
400,000
340,000.00
0.01%
Sri Lanka
250,000
280,000.00
0.00%
Total
3.682,390,112
5,813,258,354
100%
Nguồn: Cambodian Investment Board (CIB)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0036.doc