Hệ vi sinh vật và béo phì
Béo phì là mối nguy hại sức khỏe toàn cầu với
hơn 600 triệu người trên toàn thế giới bị béo phì
trong năm 2014. Sự tăng sử dụng các thực phẩm
giàu năng lượng và giảm đốt cháy năng lượng, gây
ra sự tích tụ mỡ quá mức với tăng chỉ số khối cơ thể
(BMI ≥ 30 kg/m2), và có liên quan đến hội chứng
chuyển hóa, khiến những người béo phì có nguy cơ
mắc một số bệnh liên quan tới béo phì như bệnh tim
mạch, đái tháo đường type II và các rối loạn ở gan,
giảm đáp ứng viêm và tử vong sớm.
Nhiều năm gần đây, yếu tố mới được xác định
đó là hệ vi sinh vật đường ruột liên quan mật thiết
đến quá trình điều hòa chuyển hóa của cơ thể vật
chủ. Các yếu tố về di truyền, lối sống và yếu tố môi
trường có khả năng gây ra béo phì. Các nghiên cứu
metagenomes đã chỉ ra sự gia tăng một cách đáng kể
các Firmicutes sản xuất butyrate và giảm Bacteroides
fragilis ở đại tràng trên các bệnh nhân béo phì so với
những người bình thường. Các đặc điểm rối loạn hệ
vi sinh vật liên quan đến béo phì này cũng đi kèm với
sự gia tăng của enzyme glycoside hydrolase và SCFAs
(gồm butyrate và acetate), và tăng khả năng tạo
năng lượng với bằng chứng là giản năng lượng một
cách rõ rệt ở trong phân trên chuột bị béo phì[31].
Nồng độ cao của monosaccharides và triglyceride ở
gan do tăng chuyển hóa tinh bột bởi hệ vi sinh vật đã
cho thấy mối liên quan chặt chẽ giữa hệ vi sinh vật
đường ruột và chuyển hóa glucose cũng như lipid
trong cơ thể vật chủ. Việc tích trữ triacylglyceride
trong tế bào mỡ cũng đã được chứng minh là do
hệ vi sinh vật đường ruột chống lại các chất ức chế
enzym lipoprotein lipase. Hơn nữa, các dữ liệu này
còn cho thấy sự biểu hiện quá mức các vi khuẩn
thuộc hệ vi sinh vật đường ruột có khả năng thủy
phân saccharolytic nhằm tăng cường sự tiêu hóa
đường bột, dẫn đến tăng tạo năng lượng và tăng
lắng đọng chất béo.
Vì rối loạn chuyển hóa trong béo phì có liên quan
đến rối loạn vi sinh vật đường ruột nên việc chọn
lọc thành phần của hệ vi sinh vật thông qua việc
thay đổi chế độ ăn uống như sử dụng prebiotic hoặc
probiotic có thể là một phương pháp điều trị đầy
hứa hẹn. Tuy nhiên, cần có các thử nghiệm lâm sàng
trên người để có thêm dữ liệu về tỷ lệ điều trị thành
công của phương pháp điều trị này.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của hệ vi sinh vật đường ruột đối với sức khỏe con người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thị Huyền, email: nthuyen@huemed-univ.edu.vn
Ngày nhận bài: 20/2/2020; Ngày đồng ý đăng: 27/4/2020
Vai trò của hệ vi sinh vật đường ruột đối với sức khỏe con người
Nguyễn Thị Huyền1, Phan Thị Minh Phương1, Reet Mandar2
(1) Bộ môn Miễn dịch - Sinh lý bệnh, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(3) Khoa Vi sinh, Đại học Tartu, Estonia
Tóm tắt
Hệ vi sinh vật (microbiota) ở người là tập hợp tất cả các vi sinh vật đang tồn tại trên và trong cơ thể người,
bao gồm các động vật nguyên sinh, vi khuẩn cổ, sinh vật nhân chuẩn, virus và chủ yếu là các vi khuẩn sống
cộng sinh ở các vị trí khác nhau của cơ thể và nhiều nhất là ở đường ruột. Chúng có vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ, chuyển hóa và miễn dịch cũng như duy trì cân bằng nội môi đường ruột. Khi hệ vi khuẩn đường
ruột bị rối loạn có thể dẫn đến rối loạn chức năng của cơ thể vật chủ, do đó chúng góp phần vào cơ chế bệnh
sinh và/hoặc tiến triển của bệnh. Một số bệnh đáng chú ý nhất là nhiễm trùng Clostridium difficile, bệnh
viêm đường ruột, bệnh celiac và bệnh béo phì. Các liệu pháp điều trị mới có nguồn gốc từ vi sinh vật đã được
nghiên cứu như ghép vi khuẩn trong phân, chế phẩm sinh học probiotic và prebiotic ở các bệnh liên quan đã
cho thấy sự cải thiện các triệu chứng và mở ra những hướng tiếp cận điều trị mới trong tương lai.
Từ khóa: Hệ vi sinh vật đường ruột, rối loạn khuẩn chí đường ruột, nhiễm trùng Clostridium difficile, viêm
đường ruột, celiac, béo phì.
Summary
The role of the gut microbiome in human health
Nguyen Thi Huyen1, Phan Thi Minh Phuong1, Reet Mandar2
(1) Immunology and Pathophysiology Deparment, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Microbiology Deparment, University of Tartu, Estonia
The human microbiota comprises of collective genomes of microbiota, namely protozoa, archaea,
eukaryotes, viruses and bacteria that live mainly on and within various sites of the human body, with
the highest concentrations being found in gastrointestinal tract. Microbiome plays an important role in
host protection against invading pathogens, metabolism and immunity as well as maintaining intestinal
homeostasis. Gut microbial imbalance (dysbiosis) may lead to dysfunction of host, thereby contributing to
pathogenesis and/or progression of some pathologies. All of them, some of the most noticeable diseases
are Clostridium difficile infection, inflammatory bowel disease, celiac disease and obesity. New therapies
derived from microbiome studied such as fecal microbiota transplantation, probiotic and prebiotics to target
associated diseases have been shown how disease symptoms can be reformed, thus opening new scientific
approaches to treatment in the future.
Key words: gut microbiome, dysbiosis, Clostridium difficile infection, inflammatory bowel, celiac disease,
obesity.
DOI: 10.34071/jmp.2020.2.1
1. MỞ ĐẦU
Hệ vi sinh vật (microbiota) ở người là tập hợp
tất cả các của vi sinh vật đang tồn tại trên và trong
cơ thể người, bao gồm các động vật nguyên sinh, vi
khuẩn cổ, sinh vật nhân chuẩn, virus và chủ yếu là
các vi khuẩn sống cộng sinh ở các vị trí khác nhau
của cơ thể [1]. Các vi sinh vật này thường tập trung
ở khoang miệng, cơ quan sinh dục, đường hô hấp,
đường tiêu hóa và da[13]. Ước tính số lượng vi sinh
vật ở người lên đến 1030 -1010 tế bào và so sánh giữa
số lượng vi sinh vật và số lượng tế bào người là 1:1
và gấp ít nhất 100 lần số lượng gen ở người [25].
Một số gen của hệ vi sinh vật có vai trò trong việc mã
hóa một số loại enzym mà cơ thể vật chủ không mã
hóa được, điều này đóng vai trò quan trọng trong
việc giúp cho quá trình chuyển hóa của cơ thể vật
chủ được xảy ra bình thường cũng như tham gia vào
quá trình điều hòa sinh lý khác[7]. Hệ vi sinh vật tập
trung nhiều nhất ở đường tiêu hóa, đặc biệt là ở đại
tràng. Số lượng vi khuẩn tại đây lên đến 3.8x1030
loại vi khuẩn và phổ biến nhất là ba loại vi khuẩn
đó là Firmicutes, Bacteroidetes và Actinobacteria.
Bên cạnh đó, đường tiêu hóa còn chứa cả các lợi
khuẩn như vi khuẩn Gram dương Lactobacilli và
Bifidobacteria (chiếm trên 85% tổng số lợi khuẩn),
và cả các vi khuẩn có khả năng gây bệnh tiềm tàng,
8Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
chúng cùng tồn tại trong một cộng đồng phức tạp.
Thành phần của hệ vi sinh vật tại đây bị ảnh hưởng
bởi nhiều yếu tố như chế độ ăn, tuổi, thuốc, bệnh
tật, stress và lối sống. Những rối loạn của hệ vi sinh
vật đã góp phần trong quan trọng vào cơ chế bệnh
sinh của nhiều bệnh như béo phì, viêm ruột mạn
tính gồm bệnh Crohn và viêm đại tràng mạn tính, đái
tháo đường, suy dinh dưỡng
Những tiến bộ trong công nghệ giải trình tự gen
và các dự án giải trình tự hệ vi sinh vật ở người như
dự án hệ vi sinh vật người do Viện sức khỏe quốc gia
Hoa kỳ tài trợ hay dự án MetaHIT (Metagenomics
of the Intestinal Tract) do Ủy ban Châu Âu tài trợ
đã thúc đẩy việc nghiên cứu về tập hợp gen của tất
cả các hệ vi sinh vật (gọi là microbiome) nhằm mô
tả đặc điểm của hệ vi sinh vật cũng như vai trò của
chúng đối với sức khỏe con người và bệnh tật. Tại
Việt Nam thì đây là một lĩnh vực còn rất mới, sự hiểu
biết về vai trò của hệ vi sinh vật còn hạn chế cũng
như chưa có bất kì nghiên cứu nào về chúng. Do đó,
bài tổng quan này, chúng tôi khái lược một số nội
dung về vai trò cũng như mối liên quan của hệ vi
sinh vật đường ruột đối với sức khỏe và bệnh tật,
đồng thời đưa những phương hướng tiếp cận điều
trị mới trong tương lai.
2. CHỨC NĂNG CỦA HỆ VI SINH VẬT ĐƯỜNG
RUỘT
Hệ vi sinh vật đường ruột có chức năng bảo vệ,
chuyển hóa và miễn dịch đối với cơ thể vật chủ. Mối
quan hệ cộng sinh giữa hệ vi sinh vật đường ruột và
vật chủ được điều hòa và duy trì sự ổn định nhờ vào
sự trao đổi thông tin chéo. Sự trao đổi này là qua
trung gian các chất chuyển hóa tổng hợp của hệ vi
sinh vật cũng như của cơ thể vật chủ như các phân
tử tín hiệu điều hòa thần kinh-miễn dịch- đáp ứng
viêm nhằm kết nối thông tin tại đường ruột với các
cơ quan khác.
2.1. Hệ vi sinh vật đường ruột và quá trình
chuyển hóa
Gill và cộng sự dùng kỹ thuật giải trình tự gen
metagenomic để phân tích hệ vi sinh vật tại đường
ruột bằng RNA ribosome 16S và cho thấy rằng hệ vi
sinh vật làm tăng chuyển hóa đối với polysaccharid,
axit amin, xenobiotic và vi chất dinh dưỡng [5]. Hệ vi
sinh vật đường ruột rất quan trọng đối với quá trình
lên men của thành phần tinh bột không được hấp
thu và chất xơ. Các sản phẩm lên men sau cùng tồn
tại dưới dạng SCFA (Short-chain fatty acids). SCFA
(như butyrate, propionate, acetate và pentanoate)
hoạt động như những cơ chất cung cấp năng lượng
cho vật chủ, đóng góp thêm 10% năng lượng khẩu
phần ăn hàng ngày để vật chủ sử dụng vào các quá
trình trao đổi chất khác[20]. Hệ vi sinh vật tổng hợp
SCFA đóng góp 70% ATP của ruột già, với butyrate
thì đây thành phần cung cấp năng lượng được chính
của các tế bào ruột già.
Bên cạnh SCFA, các vi chất dinh dưỡng được
tổng hợp bởi vi sinh vật đường ruột thể hiện giá
trị lợi ích chung cho quá trình trao đổi chất của cả
vi sinh vật và cơ thể vật chủ. Vi khuẩn đường ruột
sản sinh vitamin K bao gồm Bacteroides Fragilis,
Eubacterium lentum, Enterobacter agglomerans,
Serratia marcescens và Enterococcus faecium[2]. Hệ
vi sinh đường ruột còn là nguồn cung cấp vitamin B
quan trọng cho vật chủ[3]. Trong số đó, Vitamin B5
và B12 chỉ được tổng hợp bởi hệ vi sinh vật đường
ruột và có phạm vi hoạt động rộng đối với cơ thể
vật chủ như quá trình tổng hợp tạo acetylcholine và
cortisol, cần thiết cho hoạt động bình thường của hệ
thống thần kinh.
Hệ vi sinh vật đường ruột còn tham gia vào quá
trình đồng chuyển hóa axit mật. Trước khi dự trữ ở
túi mật, những dẫn xuất của cholesterol được tổng
hợp ở gan kết hợp với taurine hoặc glycine và sau đó
chúng được bài tiết vào tá hỗng tràng để hỗ trợ tiêu
hóa, chuyển hóa cholesterol và lipid. Ở người, 95%
mật axit được tái hấp thu ở hồi tràng[27], 5% các
axit mật không được hấp thụ sẽ được chuyển hóa
hoặc thủy phân thành các axit mật thứ cấp (chủ yếu
là DCA (deoxycholic acid) và LCA (lithocholic acid))
bởi các hydrolase muối mật được tiết ra bởi một số
vi sinh vật ở đại tràng như Clostridium perfringens
và Clostridium scindens, sau đó chúng được tái hấp
thu một phần ở đại tràng và vận chuyển về gan, còn
các axit mật thứ cấp không được hấp thu thì được
bài xuất ra ngoài. Cả axit mật sơ cấp và thứ cấp có
thể kích hoạt tín hiệu FXR (farnesoid X receptor)
trong nhân tế bào của vật chủ giúp điều chỉnh việc
sản xuất axit mật, chuyển hóa glucose[11]. Axit mật
thứ cấp còn có tính kháng khuẩn nhờ tác động làm
thay đổi tính toàn vẹn màng của vi khuẩn, làm tăng
tính thấm của màng tế bào gây ức chế sự phát triển
của vi khuẩn không dung nạp axit mật[19]. Đặc tính
kháng khuẩn này có thể góp phần trong việc hình
thành các thành phần vi sinh vật của đường ruột và
bảo vệ vật chủ khỏi các mầm bệnh.
2.2. Hệ vi sinh vật và đáp ứng miễn dịch
2.2.1. Hệ vi sinh vật và đáp ứng miễn dịch tự nhiên
Trao đổi thông tin chéo giữa các tế bào niêm mạc
thuộc hệ thống miễn dịch tự nhiên và hệ vi sinh vật
nhằm kiểm soát sự tồn tại và phát triển của quần thể
vi sinh vật đường ruột. Một đặc điểm điển hình của
hệ miễn dịch tự nhiên là khả năng phân biệt giữa
các thành phần vi sinh vật có khả năng gây bệnh
và các kháng nguyên vô hại bằng các thụ thể nhận
9Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
dạng kiểu mẫu (PRR-Pattern recognition receptors)
và trong đó là các thụ thể toll-like (TLR-Toll-like
receptor). TLR có mặt trên đại thực bào, bạch cầu
trung tính, tế bào tua (DCs-dendritic cells), các tế
bào biểu mô ruột (ECs-intestinal epithelial cells) và
các tế bào khác thuộc hệ miễn dịch tự nhiên. Các
thụ thể TLR đóng một vai trò quan trọng trong việc
duy trì mối quan hệ cộng sinh của hệ vi sinh đường
ruột với vật chủ và tạo sự cân bằng nội môi đường
ruột[23]. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng hệ vi sinh
vật có thể điều hòa hệ miễn dịch tự nhiên ở đường
ruột bằng cách điều hòa sự biểu hiện TLR trên các
tế bào miễn dịch. Sau khi các tế bào miễn dịch nhận
diện được vi khuẩn sẽ dẫn đến sự kích hoạt con
đường tín hiệu NF-κB ở nhân tế bào và kích thích
sản xuất các cytokine nhằm điều chỉnh sự bộc lộ các
phân tử đồng kích thích ở trên các tế bào trình diện
kháng nguyên, dẫn đến kích hoạt các tế bào lympho T.
2.2.2. Hệ vi sinh vật và đáp ứng miễn dịch thu
được
Tại đường tiêu hóa tập trung một số lượng khá
lớn đại thực bào, tế bào tua, tế bào lympho T và
tế bào lympho B. Một số tế bào lympho TCD8+ di
chuyển đến lông nhung mao của ruột trở thành
các tế bào lympho biểu mô ruột [15,30]. Các tế bào
lympho B tại đây được hoạt hóa, tăng sinh và biệt
hóa thành tương bào sản xuất kháng thể sIgA. Sau
đó, sIgA được vận chuyển qua lớp biểu mô và tiết ra
trong lòng ruột. Các kháng nguyên được các tế bào
tua thâu tóm và vận chuyển qua bạch mạch để trình
diện cho các tế bào lympho T tại tổ chức lympho và
kích hoạt đáp ứng miễn dịch thu được.
Sự cân bằng giữa các loại tế bào lympho T tại
đường tiêu hóa (tế bào lympho T điều hòa (Treg)/tế
bào lympho T giúp đỡ (Th-17)) rất quan trọng trong
việc duy trì cân bằng nội môi đường ruột, phân biệt
giữa các vi sinh vật gây bệnh và vi khuẩn cộng sinh
thông qua quá trình dung nạp hoặc đáp ứng miễn
dịch và điều này liên quan đến vai trò của hệ vi sinh
vật. Một số vi khuẩn cộng sinh như Bacteroides
Fragilis, Bifidobacterium Newbornis và Firmicutes
có khả năng làm tăng sự biểu hiện của FOXP3 gây
tăng số lượng tế bào Treg và các tế bào này sản xuất
IL-10 kháng viêm. Điều này rất quan trọng trong sự
ức chế đáp ứng viêm nhờ các tế bào lympho T hiệu
lực để củng cố chức năng của đường tiêu hóa[10].
Đồng thời, sự ức chế đáp ứng viêm của các tế bào
Treg các tế bào cũng đóng vai trò quan trọng đối với
sự dung nạp của cơ thể vật chủ đối với các thành
phần không phải của bản thân; do đó, trong hoàn
cảnh bình thường, hệ vi sinh vật có thể tồn tại ở
đường ruột mà không bị tấn công bởi hệ miễn dịch
của vật chủ.
3. HỆ VI SINH VẬT ĐƯỜNG RUỘT VÀ MỘT SỐ
BỆNH LÝ LIÊN QUAN
Các yếu tố bên ngoài (như sử dụng kháng sinh,
thành phần của chế độ ăn, stress) và các yếu tố bên
trong cơ thể vật chủ có thể làm rối loạn hệ vi sinh vật
đường ruột. Rối loạn hệ khuẩn chí này có khả năng
làm suy yếu chức năng bình thường chúng trong
việc duy trì sức khỏe đối với cơ thể vật chủ và đồng
thời dẫn đến sự hình thành các sản phẩm từ vi sinh
vật hoặc từ quá trình chuyển hóa của cơ thể vật chủ
có thể gây ra tổn thương cục bộ tại đường tiêu hóa
hoặc toàn thân cho cơ thể vật chủ.
3.1. Nhiễm trùng Clostridium difficile (CDI)
Clostridium là một trực khuẩn Gram dương,
sống kỵ khí bắt buộc, có khả năng sinh nha bào khi
môi trường sống bất lợi. Đây cũng là một thành
phần thuộc hệ vi sinh vật đường ruột bình thường.
Hoạt tính xúc tác của độc tố A (TcdA) và độc tố B
(TcdB) làm tổn thương tế bào và sự toàn vẹn hàng
rào biểu mô đại tràng, do đó gây ra đáp ứng viêm
và đưa đến hậu quả làm chết tế bào[22]. Các triệu
chứng nhiễm CDI bao gồm tiêu chảy, viêm đại tràng
giả mạc, nhiễm trùng huyết và có thể đưa đến tử
vong trong trường hợp nặng. Điều ngạc nhiên là việc
sử dụng kháng sinh lại là yếu tố nguy cơ chính của
CDI. Khoảng từ 5 đến 35% bệnh nhân được điều trị
bằng kháng sinh bị tiêu chảy. Tiêu chảy thường xảy
ra do CDI kết hợp với sử dụng kháng sinh, chiếm
10%-20% tổng số ca mắc, so với các mầm bệnh khác
như Staphylococcus aureus và Salmonella[26]. Một
nghiên cứu đoàn hệ của Pépin và cộng sự (2005) đã
chỉ ra rằng fluoroquinolone là kháng sinh phổ rộng
góp phần gây ra tiêu chảy liên quan với CDI nhiều
nhất so với các nhóm kháng sinh khác[21]. Mặc dù
cơ chế của kháng sinh này liên quan đến tiêu chảy
vẫn chưa được biết rõ, tuy nhiên có mối tương quan
giữa kháng sinh với sự thay đổi thành phần của hệ vi
sinh vật đường ruột ở các cơ thể bị bệnh.
Sự hiểu biết về rối loạn khuẩn chí liên quan tới
kháng sinh trong bệnh sinh của CDI giúp hình thành
phương pháp điều trị mới liên quan đến việc phục
hồi hệ vi sinh vật đường ruột như điều trị bằng cấy
ghép vi sinh vật trong phân (FMT-Fecal microbiota
transplant) đã phục hồi lại được cân bằng nội môi
của đường ruột. Bệnh nhân được điều trị FMT cho
thấy sự đa dạng của vi sinh vật tồn tại lâu dài ở
trong phân và tỷ lệ phục hồi cao (90%) so với liệu
pháp vancomycin (kháng sinh phổ hẹp) (tỷ lệ phục
hồi = 60%)[32]. Ngoài ra, tăng số lượng vi khuẩn
Bacteroidetes, Clostridium IV và XIVa (Firmicutes)
và giảm số lượng Proteobacteria đã được quan sát
sau điều trị FMT[18] cho thấy tầm quan trọng của
các vi sinh vật không gây bệnh như Bacteroidetes và
10
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Clostridia trong việc ngăn chặn sự phát triển của CDI.
Nghiên cứu tương tự của Konturek và cộng sự (2016)
cũng đã chứng minh tỷ lệ lành bệnh cao (94%) trong
điều trị CDI bằng FMT, không có CDI tái phát ở những
bệnh nhân được theo dõi sau 16 tháng[8]. Ngoài
ra, giảm các cytokine tiền viêm (như TNF-α, IL-11β,
IL-6, IL-8 và IL-12), tăng đáng kể nồng độ peptide
kháng khuẩn LL-37 trong huyết tương, cùng với sự
gia tăng các vi khuẩn có lợi (như Lactobacillaceae,
Ruminococcaceae, Desulfovibrionaceae, Sutterellaceae
và porphyromonadaceae) đã được quan sát ở những
bệnh nhân điều trị thành công bằng FMT.
Mặc dù việc xác định chính xác các chủng vi sinh
vật có lợi và các cơ chế của FMT trong điều trị vẫn
chưa được biết rõ nhưng các nghiên cứu này đã
khẳng định mối liên quan chặt chẽ giữa hệ vi sinh
đường ruột và CDI, và làm sáng tỏ khả năng sử dụng
rộng rãi liệu pháp vi sinh vật thay thế trong điều trị
CDI trong tương lai.
3.2. Bệnh viêm ruột (Inflammatory Bowel
Disease -IBD)
Một bệnh lý khác cũng liên quan đến hệ vi sinh
vật đường ruột là bệnh viêm ruột (IBD). IBD là một
bệnh viêm đường tiêu hóa vô căn và hay tái phát.
Hai dạng phổ biến của IBD là bệnh Crohn và viêm
loét đại tràng. Trong bệnh Crohn, quá trình viêm có
thể xảy ra ở bất cứ đâu của đường tiêu hóa, trong
khi viêm loét đại tràng chỉ xảy ra ở ruột già. Cả hai
dạng này, bệnh nhân đều có tình trạng tiêu chảy, sốt
và đau bụng tái phát. Mặc dù sự hiểu biết về cơ chế
gây bệnh vẫn chưa rõ ràng, nhiều nghiên cứu đã cho
thấy có mối tương quan giữa hệ vi sinh vật đường
ruột và các yếu tố vật chủ đóng góp vào sự tiến triển
bệnh.
Nagao-Kitamoto và cộng sự (2016) đã chứng
minh rằng rối loạn hệ khuẩn chí đường ruột có liên
quan đến cơ chế bệnh sinh của IBD [18]. Đặc điểm của
rối loạn hệ vi sinh vật thường gặp nhất trên các bệnh
nhân IBD là giảm các vi khuẩn thuộc ngành Firmicutes
đường ruột chẳng hạn như Faecalibacterium
prausnitzii và Roseburia Sp.[16]. Những vi khuẩn
này góp phần quan trọng trong quá trình làm giảm
sản xuất các cytokine tiền viêm (IL-12, IFN-γ) và tăng
cytokine kháng viêm IL-10. Ngoài ra, Firmicutes là
nguồn sản xuất butyrate quan trọng, đó là nguồn
cung cấp năng lượng chính cho các tế bào ruột già
(70%). Vì thế, giảm số lượng Firmicutes có thể đưa
đến tăng cường đáp ứng viêm tại chỗ do giảm các
cytokine kháng viêm và/hoặc do suy giảm chức năng
của hàng rào niêm mạc đại tràng[18]. Một đặc điểm
khác của rối loạn hệ vi sinh vật ở những bệnh nhân
IBD là sự gia tăng số lượng của các vi khuẩn có độc
lực như Enterobacteriaceae và Bacteroides fragilis,
cả hai đều có nội độc tố lipopolysaccharide (LPS) ở
trên màng. Tăng độc tố LPS gây ra viêm ruột và viêm
đại tràng ở chuột, cơ chế có thể là thông qua việc
ức chế tế bào lympho Treg và/hoặc hoạt hóa các tế
bào lympho Th (Th1/Th17) qua con đường truyền
tín hiệu TLR4[6]. Các phương pháp điều trị IBD hiện
tại thường nhắm vào đáp ứng miễn dịch tiền viêm
ở niêm mạc ruột. Các liệu pháp kháng viêm như sử
dụng kháng thể đích đối với các cytokine tiền viêm
(anti-TNF-alpha, ani-IL12, anti-IL23) và sử dụng chất
đối kháng α4β7-integrin để ức chế tế bào lympho T
đến mô[1]. Tuy nhiên, IBD thường có tính tái phát
và nếu điều trị bằng các thuốc ức chế miễn dịch kéo
dài sé gây ra các tác dụng phụ gây độc thần kinh. Do
đó, việc đưa ra một phương pháp điều trị an toàn
và hiệu quả hơn là rất cần thiết. Một thử nghiệm
của Braat và cộng sự với việc sử dụng các lợi khuẩn
(probiotic) nhằm tác động tới gen của vật chủ như
Lactococcus lactis để tăng biểu hiện của IL-10 kháng
viêm đã chứng minh sự thuyên giảm của bệnh một
cách đáng kể trên các bệnh nhân IBD thuộc nhóm
bệnh Crohn[1]. Trong nghiên cứu này, 80% bệnh
nhân bị bệnh Crohn cải thiện lâm sàng, với 50% số
bệnh nhân cho thấy sự thuyên giảm hoàn toàn và
không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào. Vì vậy, đây
là một chiến lược điều trị đầy hứa hẹn cho bệnh lý
đường ruột mạn tính và an toàn hơn so với việc sử
dụng các kháng thể kháng cytokine tiền viêm. Bên
cạnh đó, sử dụng prebiotic kích thích sự tăng trưởng
và chuyển hóa chẳng hạn như vi khuẩn tổng hợp
butyrate cũng có thể là một phương pháp tốt để
điều trị viêm ruột ở bệnh nhân IBD[1].
Mặc dù những cách tiếp cận mới trong việc điều
trị hoặc quản lý IBD là đúng đắn, nhưng nguyên
nhân gây ra IBD ở mỗi bệnh nhân chưa xác định,
đặt ra một thách thức lớn trong việc hình thành một
phương pháp điều trị chung có hiệu quả đối với tất
cả mọi bệnh nhân.
3.3. Bệnh celiac
Bệnh celiac là một rối loạn qua trung gian miễn
dịch có tính chất mạn tính, ảnh hưởng chủ yếu ở
ruột non, đặc trưng bởi tình trạng không dung nạp
với gluten (như gliadin peptid) và prolamin ở những
người có biểu hiện kháng nguyên bạch cầu (HLA-
human leukocyte antigen)-DQ2 và/hoặc HLA-DQ8
[24]. Bệnh celiac là một trong những bệnh lý phổ
biến ở châu Âu, chiếm 1% tổng dân số ở mọi lứa
tuổi và tỷ lệ tử vong do bệnh này gây ra là 10,4/1000
người mỗi năm[14]. Ở những bệnh nhân celiac,
gluten kích hoạt sự kích hoạt đáp ứng miễn dịch thu
được ở niêm mạc, các tế bào Th1 và Th17 tiết ra các
cytokine tiền viêm cytokine như IL-21, IFN-γ, TNF-α
cũng như kích hoạt đáp ứng miễn dịch tự nhiên
11
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
thông qua tổng hợp IL-15 hoạt hóa tế bào NK làm
tổn thương tế bào biểu mô của ruột[29].
Nguyên nhân của bệnh celiac vẫn chưa được
biết đầy đủ, và người ta nhận thấy có một số yếu
tố liên quan bao gồm yếu tố di truyền, yếu tố miễn
dịch (sIgA) và các yếu tố môi trường bao gồm sự tiêu
thụ gluten, thời gian trẻ được bú sữa mẹ cũng như
nhiễm trùng đường ruột (ví dụ như rotavirus) đóng
góp vào nguy cơ và thời gian khởi phát của bệnh
celiac[28]. Những yếu tố này cũng đóng vai trò quan
trọng trong sự hình thành và thay đổi thành phần
vi sinh vật đường ruột, do đó việc điều chỉnh thành
phần của hệ vi sinh vật đường ruột sẽ giúp phát triển
chức năng của hàng rào bảo vệ của đường tiêu hóa
cũng như hệ miễn dịch tại đây. Nhiều nghiên cứu đã
chỉ ra rối loạn của hệ vi sinh vật đường ruột ở những
bệnh nhân celiac, trong đó đặc trưng nhất bởi sự
giảm đáng kể lượng vi khuẩn Gram dương, nhờ đó
quần thể vi khuẩn này được phục hồi khi bệnh nhân
có chế độ ăn không có gluten. Tuy nhiên, chế độ ăn
không có gluten này chỉ cho phép phục hồi một phần
của hệ vi sinh vật đường ruột về mặt vi sinh (ví dụ
như giảm một số chủng vi sinh vật có khả năng gây
bệnh, phục hồi không hoàn toàn các lợi khuẩn) và
về chuyển hóa (ví dụ cấu trúc SCFA khác nhau ở các
bệnh nhân điều trị và không điều trị). Bên cạnh đó,
việc tuân thủ nghiêm ngặt chế độ ăn không có gluten
cũng gây khó khăn rất lớn cho bệnh nhân bởi gluten
có trong nhiều loại thực phẩm nên trong trường hợp
này thì sử dụng biện pháp thay thế vi sinh vật bằng
các lợi khuẩn là một lựa chọn hợp lý cho các bệnh
nhân celiac. Một số nghiên cứu in vivo trên động
vật cũng như ở người đã chứng minh các tác dụng
khác nhau của các chủng vi khuẩn Bifidobacterium
và Lactobacillus trong việc cải thiện các biểu mô bị
tổn thương do gliadin. Bifidobacterium lactis có tác
dụng ức chế sự tăng tính thấm của màng tế bào biểu
mô ruột do gliadin gây ra[12]. B. longum đã được
chứng minh là có khả năng tăng cường kháng viêm
bằng cách kích thích sản xuất IL-10 qua trung gian
tế bào Treg, ức chế cytokine tiền viêm IFN-γ bởi Th1
được tạo ra bởi hệ vi sinh vật của bệnh nhân celiac
qua nuôi cấy tế bào[17].
B. longum và Lactobacillus casei cũng đã được
nghiên cứu trên mô hình động vật có tác dụng bảo
vệ hiệu quả bệnh lý đường ruột do gliadin gây ra,
trong đó B. longum có thể điều hòa quá trình sản
xuất TNF-α gây viêm và làm giảm đáp ứng miễn dịch
qua trung gian tế bào TCD4+ [9]; trong khi L. casei
có thể phục hồi hoàn toàn nhung mao của ruột do
gliadin gây ra, duy trì nồng độ TNF-α ở mức bình
thường, cân bằng nội môi của tổ chức lympho liên
kết với niêm mạc (GALT- Gut-associated lymphoid
tissue)[4]. Sử dụng men vi sinh Bifidobacterium ở
trẻ mắc bệnh celiac mới được chẩn đoán cùng với
chế độ ăn không có gluten đã làm giảm đáng kể
Bacteroides fragilis, giảm số lượng tế bào lympho
T ngoại biên và cải thiện các triệu chứng bệnh. Cho
đến nay, sự thuyên giảm hoàn toàn của bệnh chưa
quan sát được, nhưng sự kết hợp Bifidobacterium và
Lactobacillus của những nghiên cứu này đã chứng
minh được phần nào giá trị của các lợi khuẩn này
trong việc làm giảm tác dụng độc của gliadin gây ra
và cải thiện triệu chứng của bệnh celiac.
3.4. Hệ vi sinh vật và béo phì
Béo phì là mối nguy hại sức khỏe toàn cầu với
hơn 600 triệu người trên toàn thế giới bị béo phì
trong năm 2014. Sự tăng sử dụng các thực phẩm
giàu năng lượng và giảm đốt cháy năng lượng, gây
ra sự tích tụ mỡ quá mức với tăng chỉ số khối cơ thể
(BMI ≥ 30 kg/m2), và có liên quan đến hội chứng
chuyển hóa, khiến những người béo phì có nguy cơ
mắc một số bệnh liên quan tới béo phì như bệnh tim
mạch, đái tháo đường type II và các rối loạn ở gan,
giảm đáp ứng viêm và tử vong sớm.
Nhiều năm gần đây, yếu tố mới được xác định
đó là hệ vi sinh vật đường ruột liên quan mật thiết
đến quá trình điều hòa chuyển hóa của cơ thể vật
chủ. Các yếu tố về di truyền, lối sống và yếu tố môi
trường có khả năng gây ra béo phì. Các nghiên cứu
metagenomes đã chỉ ra sự gia tăng một cách đáng kể
các Firmicutes sản xuất butyrate và giảm Bacteroides
fragilis ở đại tràng trên các bệnh nhân béo phì so với
những người bình thường. Các đặc điểm rối loạn hệ
vi sinh vật liên quan đến béo phì này cũng đi kèm với
sự gia tăng của enzyme glycoside hydrolase và SCFAs
(gồm butyrate và acetate), và tăng khả năng tạo
năng lượng với bằng chứng là giản năng lượng một
cách rõ rệt ở trong phân trên chuột bị béo phì[31].
Nồng độ cao của monosaccharides và triglyceride ở
gan do tăng chuyển hóa tinh bột bởi hệ vi sinh vật đã
cho thấy mối liên quan chặt chẽ giữa hệ vi sinh vật
đường ruột và chuyển hóa glucose cũng như lipid
trong cơ thể vật chủ. Việc tích trữ triacylglyceride
trong tế bào mỡ cũng đã được chứng minh là do
hệ vi sinh vật đường ruột chống lại các chất ức chế
enzym lipoprotein lipase. Hơn nữa, các dữ liệu này
còn cho thấy sự biểu hiện quá mức các vi khuẩn
thuộc hệ vi sinh vật đường ruột có khả năng thủy
phân saccharolytic nhằm tăng cường sự tiêu hóa
đường bột, dẫn đến tăng tạo năng lượng và tăng
lắng đọng chất béo.
Vì rối loạn chuyển hóa trong béo phì có liên quan
đến rối loạn vi sinh vật đường ruột nên việc chọn
lọc thành phần của hệ vi sinh vật thông qua việc
thay đổi chế độ ăn uống như sử dụng prebiotic hoặc
12
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
probiotic có thể là một phương pháp điều trị đầy
hứa hẹn. Tuy nhiên, cần có các thử nghiệm lâm sàng
trên người để có thêm dữ liệu về tỷ lệ điều trị thành
công của phương pháp điều trị này.
4. KẾT LUẬN
Sự hiểu biết về vai trò của hệ vi sinh vật cũng như
tương tác giữa hệ vi sinh vật với cơ thể vật chủ giúp
cho chúng ta hiểu rõ hơn tầm quan trọng của hệ vi
sinh vật đối với sức khỏe cũng như mối liên quan với
một số bệnh tật, đồng thời giúp hình thành phương
pháp mới điều trị hiệu quả hơn trong tương lai. Liệu
pháp cấy ghép vi sinh vật trong phân hay sử sụng
các chế phẩm sinh học probiotics và prebiotic giúp
điều chỉnh hoặc phục hồi hệ vi sinh vật đường ruột
bị rối loạn trở lại trạng thái cân bằng, giúp cải thiện
các triệu chứng lâm sàng một cách đáng kể ở một số
bệnh đã đề cập ở trên.
Tuy nhiên, việc xác định chính xác thành phần
của hệ vi sinh vật bị rối loạn, lựa chọn đúng các
chủng vi sinh vật để sử dụng trong chế phẩm sinh
học trên từng cá thể bệnh là một thách thức lớn đối
với việc áp dụng rộng rãi các liệu pháp điều trị này
trong tương lai. Tóm lại, nghiên cứu về hệ vi sinh
vật ở người vẫn còn khá mới nhưng đang được phát
triển nhanh chóng, một số nghiên cứu đã cho thấy
vai trò của hệ vi sinh vật đối với sức khỏe con người
và bệnh tật, tạo tiền đề để ứng dụng điều trị trong
tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Braat H, Rottiers P, Hommes DW, et al. A Phase I
Trial With Transgenic Bacteria Expressing Interleukin-10 in
Crohn’s Disease. Clin Gastroenterol Hepatol. 2006;4(6):754-
759.
2. Cooke G, Behan J, Costello M. Newly identified
vitamin K-producing bacteria isolated from the neonatal
faecal flora:8.
3. Degnan PH, Taga ME, Goodman AL. Vitamin B 12
as a Modulator of Gut Microbial Ecology. Cell Metab.
2014;20(5):769-778.
4. D’Arienzo R, Stefanile R, Maurano F, et al. Immuno-
modulatory Effects of Lactobacillus casei Administration in
a Mouse Model of Gliadin-Sensitive Enteropathy: L. casei
Modulates Gliadin-Sensitive Enteropathy. Scand J Immu-
nol. 2011;74(4):335-341.
5. Gill SR, Pop M, DeBoy RT, et al. Metagenomic
Analysis of the Human Distal Gut Microbiome. Science.
2006;312(5778):1355-1359.
6. Gronbach K, Flade I, Holst O, et al. Endotoxic-
ity of Lipopolysaccharide as a Determinant of T-Cell−
Mediated Colitis Induction in Mice. Gastroenterology.
2014;146(3):765-775.
7. Hooper LV. Commensal Host-Bacterial Relation-
ships in the Gut. Science. 2001;292(5519):1115-1118.
8. Konturek PC, Dieterich W, Neurath M, Zopf Y. Suc-
cessful Therapy of Clostridium Difficile Infection with Fe-
cal Microbiota Transplantation.Gastroenterology. 2017;
152(5):S341.
9. Laparra JM, Olivares M, Gallina O, Sanz Y. Bifido-
bacterium longum CECT 7347 Modulates Immune Re-
sponses in a Gliadin-Induced Enteropathy Animal Model.
Leulier F, ed. PLoS ONE. 2012;7(2):e30744.
10. Lawley TD, Walker AW. Intestinal colonization re-
sistance. Immunology. 2013; 138(1):1-11.
11. Lee JM, Wagner M, Xiao R, et al. Nutrient-sens-
ing nuclear receptors coordinate autophagy. Nature.
2014;516(7529):112-115.
12. Lindfors K, Blomqvist T, Juuti-Uusitalo K, et al. Live
probiotic Bifidobacterium lactis bacteria inhibit the toxic
effects induced by wheat gliadin in epithelial cell culture:
Bifidobacterium lactis counteract gliadin toxicity. Clin Exp
Immunol. 2008;152(3):552-558.
13. Lloyd-Price J, Abu-Ali G, Huttenhower C. The
healthy human microbiome. Genome Med. 2016;8(1):51.
14. Ludvigsson JF, Montgomery SM, Ekbom A, Brandt
L, Granath F. Small-Intestinal Histopathology and Mortali-
ty Risk in Celiac Disease. :8.
15. MacDonald TT. Immunity, Inflammation, and Al-
lergy in the Gut. Science. 2005;307(5717):1920-1925.
16. Machiels K, Joossens M, Sabino J, et al. A decrease
of the butyrate-producing species Roseburia hominis and
Faecalibacterium prausnitzii defines dysbiosis in patients
with ulcerative colitis. Gut. 2014;63(8):1275-1283.
17. Medina M, De Palma G, Ribes-Koninckx C, Cala-
buig M, Sanz Y. Bifidobacterium strains suppress in vitro
the pro-inflammatory milieu triggered by the large intesti-
nal microbiota of coeliac patients. J Inflamm. 2008;5(1):19.
18. Nagao-Kitamoto H, Shreiner AB, Gillilland MG, et
al. Functional Characterization of Inflammatory Bowel Dis-
ease–Associated Gut Dysbiosis in Gnotobiotic Mice. Cell
Mol Gastroenterol Hepatol. 2016;2(4):468-481.
19. Nie Y, Hu J, Yan X. Cross-talk between bile acids
and intestinal microbiota in host metabolism and health. J
Zhejiang Univ-Sci B. 2015;16(6):436-446.
20. Payne AN, Chassard C, Banz Y, Lacroix C. The com-
position and metabolic activity of child gut microbiota
demonstrate differential adaptation to varied nutrient
loads in an in vitro model of colonic fermentation. FEMS
Microbiol Ecol. 2012;80(3):608-623.
21. Pepin J, Saheb N, Coulombe M-A, et al. Emer-
13
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
gence of Fluoroquinolones as the Predominant Risk Fac-
tor for Clostridium difficile-Associated Diarrhea: A Co-
hort Study during an Epidemic in Quebec. Clin Infect Dis.
2005;41(9):1254-1260.
22. Pruitt RN, Chumbler NM, Rutherford SA, et al.
Structural Determinants of Clostridium difficile Toxin A Glu-
cosyltransferase Activity. J Biol Chem. 2012;287(11):8013-
8020.
23. Rakoff-Nahoum S, Paglino J, Eslami-Varzaneh F,
Edberg S, Medzhitov R. Recognition of Commensal Micro-
flora by Toll-Like Receptors Is Required for Intestinal Ho-
meostasis. Cell. 2004;118(2):229-241.
24. Sanz Y, Palma GD, Laparra M. Unraveling the Ties
between Celiac Disease and Intestinal Microbiota. Int Rev
Immunol. 2011;30(4):207-218.
25. Sender R, Fuchs S, Milo R. Revised Estimates for
the Number of Human and Bacteria Cells in the Body.
PLOS Biol. 2016;14(8):e1002533.
26. Song HJ, Shim K-N, Jung S-A, et al. Antibiotic-Asso-
ciated Diarrhea: Candidate Organisms other than Clostrid-
ium Difficile. Korean J Intern Med. 2008;23(1):9.
27. Staels B, Fonseca VA. Bile Acids and Metabol-
ic Regulation: Mechanisms and clinical responses to
bile acid sequestration. Diabetes Care. 2009;32(sup-
pl_2):S237-S245.
28. Stene LC, Honeyman MC, Hoffenberg EJ, et al. Ro-
tavirus Infection Frequency and Risk of Celiac Disease Au-
toimmunity in Early Childhood: A Longitudinal Study. Am J
Gastroenterol. 2006;101(10):2333-2340.
29. Stepniak D, Koning F. Celiac Disease—Sandwiched
between Innate and Adaptive Immunity. Hum Immunol.
2006;67(6):460-468.
30. Suzuki R, Nakao A, Kanamaru Y, Okumura K, Oga-
wa H, Ra C. Localization of intestinal intraepithelial T lym-
phocytes involves regulation of αEβ7 expression by trans-
forming growth factor-β. Int Immunol. 2002;14(4):339-
345.
31. Turnbaugh PJ, Ley RE, Mahowald MA, Magrini V,
Mardis ER, Gordon JI. An obesity-associated gut microbi-
ome with increased capacity for energy harvest. Nature.
2006;444(7122):1027-1031.
32. Van Nood E, Vrieze A, Nieuwdorp M, et al. Duo-
denal Infusion of Donor Feces for Recurrent Clostridium
difficile. N Engl J Med. 2013;368(5):407-415.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
vai_tro_cua_he_vi_sinh_vat_duong_ruot_doi_voi_suc_khoe_con_n.pdf