Thứ ba, để hương ước được thực hiện một
cách hiệu quả nhất cần gắn hương ước với các
tổ chức hiệp hội làng nghề. Kiến nghị này được
đưa ra trên cơ sở bất cứ một bộ quy tắc xử sự nào
để có thể đi vào thực tiễn đời sống cần phải được
một chủ thể đứng ra chủ trì thực hiện. Trong
trường hợp hương ước của các làng nghề thì chủ
thể thích hợp nhất phải là một tổ chức tập hợp
được những người có lợi ích liên quan đến nhau
và có khả năng tập hợp được ý kiến sâu rộng của
các cá nhân, tổ chức tham gia vào hương ước. Ở
đây có thể là thành lập nên tổ chức hiệp hội làng
nghề, hay thành lập các hợp tác xã làng nghề để
tăng cường tính thống nhất, tính tổ chức cho các
làng nghề, từ đó góp phần thực hiện có hiệu quả
hơn các quy định của hương ước, hướng đến việc
bảo vệ môi trường.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 257 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của hương ước trong việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường tại các làng nghề, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Email: tranvonhuylaw@gmail.com
Vai trò của hương ước trong việc thực hiện pháp luật
bảo vệ môi trường tại các làng nghề
Role of the convention in the implementation
of environmental protection legislation in craft villages
Dương Đức Chính, Trần Võ Như Ý*, Phạm Thị Thanh Tâm
Duong Duc Chinh, Tran Vo Nhu Y, Pham Thi Thanh Tam
Khoa Luật, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam
School of law, Duy Tan University, Da Nang, Viet Nam
(Ngày nhận bài: 03/01/2020, ngày phản biện xong: 07/02/2020, ngày chấp nhận đăng: 20/02/2020)
Tóm tắt
Bài báo này chỉ tập trung phân tích về vai trò của hương ước trong việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường tại các làng
nghề ở Việt Nam, từ đó đưa ra các nhận xét, đánh giá và những kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của hương ước trong việc
bảo vệ môi trường làng nghề.
Từ khóa: Hương ước, pháp luật bảo vệ môi trường, làng nghề.
Abstract
This paper only focuses on analyzing the role of the convention in the implementation of environmental protection
legislation in craft villages in Viet Nam. Thus, comments, assessments and recommendations are offered to enhance the
role of the convention in protecting the craft village environment.
Keywords: The convention, environmental protection legislation, craft villages.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
DTU Journal of Science and Technology 07(38) (2020) .........
1. Đặt vấn đề
Làng nghề là một trong những nét đặc trưng
văn hóa ở vùng nông thôn Việt Nam, đóng vai
trò quan trọng trong đời sống tinh thần và đem
lại nguồn kinh tế cho người dân. Có thể nói rằng,
làng nghề là nơi lưu giữ, kế thừa và truyền lại
những giá trị truyền thống tốt đẹp của từng địa
phương. Cùng với đó, làng nghề còn đóng vai trò
quan trọng trong việc đẩy mạnh chuyển đổi cơ
cấu kinh tế; thúc đẩy các ngành dịch vụ, đặc biệt
là du lịch. Tuy nhiên, sự phát triển của nhiều làng
nghề hiện nay lại gây ra những tác động tiêu cực
đến môi trường. Làng nghề với công nghệ thô
sơ, lạc hậu là nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm
và suy thoái môi trường nghiêm trọng tại các
cơ sở làng nghề và khu vực dân cư xung quanh.
Mức độ gây ô nhiễm tại rất nhiều làng nghề được
xếp vào danh mục những cơ sở cần phải xử lý ô
nhiễm triệt để. Những tác động này là nguồn đe
dọa cực kì nguy hiểm đến sự phát triển bền vững
của các làng nghề cũng như sức khỏe của người
dân sinh sống xung quanh khu vực đó [9].
Để khắc phục ô nhiễm và đảm bảo hiệu quả
của việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường,
nhà nước đã không ngừng đầu tư chi phí, xây
dựng cơ sở hạ tầng với mục tiêu nâng cao chất
94
lượng của các biện pháp thực hiện pháp luật. Tuy
nhiên nếu như chỉ sử dụng duy nhất một công cụ
mang tính quyền lực nhà nước thì vấn đề bảo vệ
môi trường dường như vẫn chưa được giải quyết
triệt để, đặc biệt là tại những khu vực đặc thù như
làng nghề. Trước thực trạng đó, đòi hỏi cần phải
có thêm một công cụ vừa mang tính “cưỡng chế”
nhưng lại phải vừa có tính mềm dẻo và cũng đồng
thời tăng cường tính tự quản cho chính những cư
dân sinh sống tại địa bàn.
Từ đặc điểm của văn hóa làng xã Việt Nam và
những đặc trưng cơ bản của làng nghề, nhóm tác
giả nhận ra rằng hương ước là công cụ hiệu quả
và hỗ trợ đắc lực cho pháp luật trong việc bảo
vệ môi trường. Hương ước với vai trò là một bộ
quy tắc xử sự chung do chính cộng đồng dân cư
tự xây dựng nên. Hương ước tác động đến nhiều
mặt của làng nghề, trong đó có hoạt động thực
hiện pháp luật bảo vệ môi trường. Với đặc điểm
là đề cao tính tự quản cùng khả năng linh hoạt
trong sử dụng, hương ước đã đáp ứng được hầu
hết các yêu cầu của công tác bảo vệ môi trường
tại các làng nghề ở Việt Nam [3; 7]. Tuy nhiên,
trong công tác kiểm soát ô nhiễm tại các làng
nghề trên địa bàn tỉnh hiện nay, hương ước chưa
thật sự được áp dụng phổ biến, còn cần nhiều
định hướng để phù hợp với thực trạng của từng
làng nghề và các quy định của pháp luật.
Phạm vi bài viết sẽ tập trung phân tích về đặc
trưng cơ bản của làng nghề để cho thấy sự cần
thiết của hương ước trong thực hiện pháp luật
bảo vệ môi trường tại các làng nghề ở Việt Nam.
Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng sử dụng và đưa hương ước đi vào thực tiễn
công tác thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường
làng nghề.
2. Những đặc trưng cơ bản của làng nghề ảnh
hưởng đến hiệu quả của hoạt động thực hiện
pháp luật bảo vệ môi trường
Thời gian qua, nhờ những chính sách khôi
phục và phát triển của nhà nước mà số lượng
các làng nghề ở Việt Nam đã gia tăng một cách
đáng kể. Sự trở lại và vực dậy mạnh mẽ của các
làng nghề đã trực tiếp giải quyết vấn đề việc làm
cho người lao động trong làng, góp phần xóa
đói giảm nghèo và thay đổi kết cấu hạ tầng nông
thôn tại nhiều địa phương. Với những sản phẩm
tỉ mỉ, công phu, mang đậm bản sắc văn hóa dân
tộc, làng nghề không những đã thu hút được một
lượng lớn khách du lịch đến với các địa phương
mà còn góp phần tăng nguồn thu cho địa phương
từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lao động tham gia sản xuất trong làng nghề
chủ yếu là thành viên gia đình hoặc người dân
trong làng nên đa phần là có trình độ học vấn thấp,
sản xuất theo kinh nghiệm qua các đời truyền lại.
Họ chủ yếu sử dụng các phương pháp sản xuất
thô sơ lạc hậu, sự tiếp cận và áp dụng công nghệ
sản xuất mới còn rất hạn chế và còn thiếu nhận
thức trong việc chấp hành pháp luật bảo vệ môi
trường. Các chủ cơ sở sản xuất đều mong muốn
tiếp tục duy trì ngành nghề sản xuất truyền thống
của địa phương, tuy nhiên với nguồn vốn và
nguồn thu nhập không cao kèm theo trình độ lao
động còn hạn chế như hiện nay thì việc phát triển
đi đôi với bảo vệ môi trường tại các làng nghề
thật sự là một vấn đề khó khăn. Đơn cử như vào
năm 2003, môi trường tại các cơ sở làng nghề
đúc đồng ở phường Đúc, tỉnh Thừa Thiên Huế
rơi vào tình trạng ô nhiễm trầm trọng. Với giá
thành rẻ và duy trì sự cháy lâu nên cao su được
các cơ sở này chọn làm chất đốt lò nung, dẫn đến
một lượng lớn khí độc phát tán vào tự nhiên. Sau
gần 17 năm thực hiện Quyết định 64/2003/QĐ-
TTg ngày 22/04/2003 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt “kế hoạch xử lý triệt để các cơ
sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng”, đến
nay các cơ sở này đã phần nào hạn chế được việc
sử dụng cao su làm chất đốt, nhưng qua điều tra
xã hội cho thấy 75% lượng chất thải trong sản
xuất vẫn không được thu gom xử lí [6; 48]. Hầu
hết đều đổ xỉ tro và đất sét nung hết giá trị sử
dụng ra ven phần đường đi hoặc lấp đầy các ao tù
nước đọng. Chất thải kim loại dưới dạng lỏng từ
quá trình nung đồng cũng được xả trực tiếp vào
95
nguồn nước tạo thành hiện tượng váng đồng lênh
láng mà không hề qua khâu xử lí nào. Tình trạng
này không chỉ diễn ra với riêng phường Đúc, mà
tại nhiều địa phương có làng nghề khác cũng gặp
phải tình trạng tương tự.
Đặc trưng tiếp theo là của các làng nghề hiện
nay chủ yếu nằm xen kẽ trong khu dân cư, sử dụng
chính quỹ đất ở làm nơi sản xuất hoặc nằm rải rác
ven các con sông nên ô nhiễm môi trường tại làng
nghề rất khó kiểm soát cũng như quy hoạch đầu tư
hệ thống xử lí. Điển hình như làng nghề gạch ngói
Hương Toàn, Hương Trà ở tỉnh Thừa Thiên Huế,
đây là làng nghề nằm dọc con sông Bồ. Ngoài một
cơ sở sản xuất gạch ở cổng làng thì còn có ba cơ sở
sản xuất gạch truyền thống nằm rải rác trong làng.
Khí bụi từ các cơ sở này không chỉ làm bầu không
khí ở đây mịt mù vào giờ cao điểm sản xuất mà
còn ảnh hưởng nặng nề đến chất lượng sản phẩm
của hoa màu và hệ hô hấp của người dân nơi đây.
Thế nhưng việc quy hoạch để di dời các cơ sở sản
xuất ra khỏi khu dân cư và đầu tư hệ thống xử lí
khói bụi là vô cùng khó khăn. Vì quỹ đất và nguồn
vốn hạn hẹp nên cho đến nay việc các cơ sở sản
xuất vẫn còn nằm trong khu dân cư, dẫn đến tình
trạng ô nhiễm bụi là không thể tránh khỏi và rất
khó khắc phục [4].
Xét dưới góc độ pháp lý, có thể thấy rằng, các
làng nghề thường được tổ chức dưới mô hình
hộ kinh doanh, bởi lẽ: (1) Làng nghề thường tập
trung ở vùng nông thôn; (2) Gắn liền với các
hộ gia đình và chủ hộ vừa là chủ sở hữu vừa là
người lao động chính; (3) Quy mô sản xuất nhỏ
và ít vốn; lao động mang tính thủ công và truyền
thống; (4) Phương thức quản lý hạn chế và chủ
yếu là bằng kinh nghiệm.
Chính những đặc trưng khác biệt trên mà hoạt
động thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường tại
các làng nghề không dễ dàng như đối với các chủ
thể khác trong pháp luật bảo vệ môi trường. Các
biện pháp thực hiện pháp luật phổ biến như xử
phạt hành chính đối với các hành vi gây ô nhiễm
môi trường; biện pháp giáo dục; biện pháp chính
sách trên thực tế không đem lại hiệu quả cao và
bộc lộ nhiều hạn chế về tính thực tiễn, tính mềm
dẻo trong áp dụng pháp luật và bị chi phối quá
nhiều về mặt kinh phí. Từ những lý do trên, cần
phải có một biện pháp phù hợp hơn để có thể vừa
dung hòa được những yêu cầu mà làng nghề đặt
ra vừa đảm bảo được việc thực hiện pháp luật bảo
vệ môi trường có hiệu quả. Hương ước được xem
như là công cụ có thể đảm bảo được phần nào các
yêu cầu trên.
3. Ảnh hưởng của hương ước đến việc thực
hiện pháp luật bảo về môi trường tại các làng
nghề
Hương ước là văn bản quy phạm xã hội, trong
đó quy định các quy tắc xử sự chung do cộng
đồng dân cư cùng thỏa thuận đặt ra, để điều chỉnh
các quan hệ xã hội mang tính tự quản của nhân
dân, nhằm giữ gìn và phát huy những phong tục,
tập quán tốt đẹp và truyền thống văn hóa trên địa
bàn làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư, góp phần hỗ
trợ tích cực cho việc quản lý nhà nước bằng pháp
luật, hay thường được hiểu một cách nôm na, dân
dã là lệ làng. Đây chính là “văn bản pháp lý”
đầu tiên của các làng xã nhằm góp phần điều hòa
các mối quan hệ trong cộng đồng dân cư, là một
hệ thống tục lệ tồn tại song song, không những
không đối lập với hệ thống pháp luật mà trong
một số trường hợp còn được xem là một nguồn
của pháp luật quốc gia [2; 28].
Hương ước được coi là một công cụ quan trọng
góp phần quản lý xã hội trong phạm vi thôn, làng
Việt Nam từ nhiều thế kỷ qua [1]. Cùng với pháp
luật, hương ước góp phần duy trì an ninh trật tự,
phòng chống các tệ nạn xã hội; gìn giữ và phát
huy giá trị thuần phong, mỹ tục, truyền thống
văn hoá; củng cố các giá trị và kỹ thuật tay nghề;
nuôi dưỡng, vun đắp ý thức cộng đồng. Đặc biệt,
hương ước góp phần rất lớn trong hoạt động thực
hiện pháp luật và bảo vệ môi trường tại các làng
nghề, bởi lẽ:
Thứ nhất, hương ước là sự thống nhất ý chí
của đại đa số người dân trong làng.Dự thảo
96
hương ước, quy ước phải được nhân dân trên
địa bàn thảo luận, được hội nghị cử tri hoặc hội
nghị đại biểu hộ gia đình ở làng, bản, thôn, ấp,
cụm dân cư thông qua và được Ủy ban nhân dân
cấp huyện phê duyệt trước khi thi hành. Chính
vì vậy, hương ước, quy ước có nội dung không
trái với các quy định của pháp luật hiện hành,
không chứa đựng các quy định xử phạt nặng nề,
các khoản phí và lệ phí có thể gây thiệt hại hoặc
làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân . Vì vậy, tuy không có cơ chế xử
phạt bằng chế tài như việc không tuân thủ các
quy định của pháp luật, hương ước vẫn được đảm
bảo thực hiện bằng các quy định thưởng, phạt
cụ thể thông qua sự giám sát lẫn nhau giữa cộng
đồng dân cư mà không cần đến một cơ quan quản
lý nào. Những quy định đó là sự kết hợp hài hòa
giữa phong tục, tập quán tốt đẹp với yêu cầu phát
triển kinh tế, xã hội tại địa phương, phù hợp với
pháp luật, được xây dựng một cách dân chủ, công
khai, mang tính đồng thuận cao nên người dân sẽ
tự giác chấp hành.
Thứ hai, khác với các quy phạm pháp luật khô
khan, phức tạp, khó nhớ thì hương ước với lối
hành văn bình dị, dân gian nên các quy định của
hương ước đi vào đời sống một cách rất tự nhiên,
khiến người dân trong làng dễ nhớ, dễ thực hiện.
Từ đó, các quy định này dần thấm sâu vào tiềm
thức của người dân mà ít cần đến các phương tiện
tuyên truyền, phổ biến ồn ào, tốn kém. Hương
ước biến những quy định khuôn khổ cứng nhắc,
các quy tắc có tính nghiêm khắc của luật pháp
trở nên uyển chuyển, linh động phù hợp với đặc
điểm riêng của từng làng nghề cũng như trình độ
của đại đa số người dân nơi đây.
Thứ ba, hương ước làm hài hòa được những
đặc trưng của làng nghề tại từng địa phương khác
nhau với các quy định pháp luật về bảo vệ môi
trường. Vì thực tế đã chứng minh, pháp luật bảo
vệ môi trường làng nghề dù cụ thể đến mấy cũng
không thể bao quát được tất cả các yêu cầu đặt ra
vì mỗi làng nghề có các đặc điểm riêng của mình.
Hương ước với tư cách là quy tắc xử sự chung
do cộng đồng dân cư cùng thỏa thuận đặt ra và
được uỷ ban nhân dân cấp huyện phê duyệt trước
khi thi hành sẽ vừa đảm bảo được tinh thần của
pháp luật bảo vệ môi trường, vừa phù hợp với
đặc điểm từng làng nghề, làm hài hòa giữa lợi ích
của người dân và việc bảo vệ môi trường.
Thứ tư, hương ước là yếu tố góp phần tạo nên
các nguồn tài chính phục vụ cho công tác bảo vệ
môi trường tại địa phương. Việc xây dựng hương
ước là một bước tiến lớn trong việc quy tất cả
các cở sở về một đầu mối quản lý chung. Trên cơ
sở quy định của hương ước, các làng nghề sẽ tự
xây dựng cho mình một “cơ quan đầu não” hoặc
có thể cùng nhau thành lập hợp tác xã để quản lý
và cùng nhau định hướng phát triển trong việc
tìm kiếm thị trường, xây dựng thương hiệu, từ
đó góp phần nâng cao doanh thu. Nguồn lợi từ
nguồn thu nhập này sẽ được trích tạo nguồn vốn
tái đầu tư vào hoạt động bảo vệ môi trường, giảm
sự thụ động từ việc trông chờ vào nguồn ngân
sách nhà nước. Bên cạnh đó, hương ước thúc đẩy
việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính của từng hộ
sản xuất với trách nhiệm bảo vệ môi trường. Các
nghĩa vụ đóng góp này sẽ mang tính linh hoạt,
phù hợp đối với đặc thù của từng cơ sở sản xuất,
để từ đó tạo nên sự đồng thuận cao của người dân
trên cơ sở tự nguyện. Đây là hướng đi mang tính
xã hội hóa quan trọng mà các làng nghề, các cấp
chính quyền địa phương nên lưu ý khi xây dựng
các bản hương ước cho làng mình.
4. Một số ý kiến và đề xuất
4.1. Một số ý kiến
Việc xây dựng, thực hiện nội dung của hương
ước trong mỗi làng nghề là truyền thống đạo lý
của dân tộc ta đã có từ bao đời nay. Với những
vai trò của hương ước như đã phân tích trên, có
thể rút ra một số nhận xét như sau:
Một là, hiện nay nhà nước ta đã và đang ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó
có nêu rõ nội dung pháp luật bảo vệ môi trường
97
làng nghề, trách nhiệm, quyền hạn của các bên
liên quan trong công tác bảo vệ môi trường làng
nghề. Song công tác thực hiện và quản lý môi
trường làng nghề vẫn đang còn nhiều tồn tại, bất
cập chưa được giải quyết ở các mức độ và cấp
độ quản lý khác nhau. Các làng nghề hiện nay
trên địa bàn tỉnh tuy rất đa dạng về quy mô sản
xuất, loại hình sản xuất với những đặc thù riêng.
Nhưng tính đến thời điểm hiện tại chưa có văn
bản quy phạm pháp luật nào quy định riêng đối
với vấn đề bảo vệ môi trường làng nghề theo đặc
thù của mỗi loại hình sản xuất, mà phần lớn các
văn bản hướng dẫn hiện hành đều quy định chung
cho tất cả các loại hình sản xuất kinh doanh [8].
Do đó, để áp dụng vào làng nghề nhiều khi không
phù hợp hoặc khó áp dụng. Việc xây dựng hương
ước trên cơ sở là sự bàn bạc, thảo luận, góp ý của
đại diện các hộ gia đình trong làng nghề và sự
phê duyệt của cấp chính quyền đã phần nào khắc
phục được những điểm thiếu sót hoặc chưa phù
hợp của các quy định pháp luật về bảo vệ môi
trường tại các làng nghề. Nội dung của hương
ước vừa gắn bó mật thiết với hiện trạng môi
trường làng nghề ở địa phương vừa phù hợp với
các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường. Có
lẽ vì lí do đó nên hương ước đang được xem như
một công cụ hữu hiệu giúp người dân địa phương
thực hiện pháp luật một cách dễ dàng hơn từ thế
hệ này sang thế hệ khác, góp phần vào công tác
giáo dục truyền thông, ý thức cho người dân
trong vấn đề bảo vệ môi trường. Đồng thời cũng
giải quyết các vấn nạn ô nhiễm môi trường đang
xảy ra ở địa phương, tiến tới xây dựng một môi
trường làng nghề trong lành và an toàn theo đúng
nghĩa của nó.
Hai là, với đặc thù của quá trình xây dựng
hương ước là sự tham gia của người dân địa
phương nên nội dung cũng như lối hành văn của
hương ước sẽ được trình bày một cách khá cụ
thể và gần gũi nhất với quá trình sản xuất, kinh
doanh ở làng nghề. Do đó, hương ước được đánh
giá là một phương tiện hữu hiệu để chuyển tải
các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường làng
nghề vào thực tế một cách đơn giản, dễ hiểu,
dễ nhớ và dễ thực hiện. Điều này là một yếu tố
quan trọng góp phần đưa các quy phạm pháp luật
bảo vệ môi trường đến gần hơn với cuộc sống
của người dân ở các làng nghề. Đơn cử như một
làng nghề chạm bạc Đồng Xâm ở Thái Bình đã
xây dựng một hương ước với đầy đủ nội dung
từ nguyên tắc giữ bí truyền cho đến nguyên tắc
sản xuất, kinh doanh để bảo vệ môi trường địa
phương theo một lối văn giản dị, gắn bó với cuộc
sống của người dân từ đời này sang đời khác,
góp phần vào công tác giáo dục truyền thống
cũng như ý thức cho con em trong vấn đề bảo vệ
môi trường, giải quyết tốt vấn nạn ô nhiễm môi
trường tại địa phương. Hơn thế nữa, với sự tham
gia đóng góp ý kiến của cộng đồng dân cư vào
việc xây dựng hương ước thì sẽ phát huy và mở
rộng thêm tính chất dân chủ ở cơ sở. Đây là điểm
vượt trội của hương ước so với các văn bản quy
phạm pháp luật khi mà ý kiến của người dân, của
cộng đồng được lắng nghe và ghi nhận một cách
trực tiếp và chính xác nhất, từ đó sẽ tạo tiền đề
cho việc nghiêm túc và tự giác thực hiện các quy
định trong hương ước của từng cá nhân nói riêng
và của cả cộng đồng dân cư nói chung.
Ba là, nội dung của hương ước được đảm bảo
thực hiện trên cơ chế giám sát từ cộng đồng, cụ
thể là các hộ gia đình, các cá nhân tự giám sát lẫn
nhau. Bởi khi cùng sống trong một môi trường,
một địa phương nhất định thì bất cứ hành vi vi
phạm pháp luật nào trong quá trình sản xuất, kinh
doanh ở làng nghề đều ít nhiều tác động xấu đến
môi trường, gây ảnh hưởng không nhỏ đến các
hộ gia đình xung quanh. Nên với cơ chế tự giám
sát trong các quy định của hương ước sẽ giúp mỗi
người tự ý thức và phát triển ý thức bảo vệ môi
trường làng nghề. Đặc biệt, tùy thuộc vào đặc
điểm kinh tế, xã hội của địa phương mà nội dung
trong cơ chế giám sát của hương ước có những
nét đặc trưng riêng. Nó vửa có chế tài xử phạt
tương xứng vừa có những quy định ưu tiên, khen
98
thưởng nhất định. Cho nên, hương ước được
đánh giá là công cụ pháp lý hữu hiệu vừa để giáo
dục, nâng cao ý thức pháp luật bảo vệ môi trường
làng nghề, vừa để giải quyết các trường hợp vi
phạm quy định pháp luật bảo vệ môi trường trong
quá trình sản xuất, kinh doanh.
Bốn là, khi hương ước được xây dựng trên cơ
sở các quy định của pháp luật, điều kiện kinh tế
- xã hội, trình độ dân trí, sẽ làm phát huy những
phong tục, tập quán tốt đẹp, góp phần đưa pháp
luật vào cuộc sống của cộng đồng dân cư. Đồng
thời là biện pháp tối ưu cho việc thực hiện các
chính sách về bảo vệ môi trường làng nghề do
nhà nước đề ra nhằm đảm bảo mọi chủ trương,
yêu cầu về bảo vệ môi trường làng nghề đều được
thực hiện một cách đầy đủ và hiệu quả nhất.
Bên cạnh những ưu điểm mà hương ước đem
lại trong việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi
trường làng nghề thì vẫn còn đó những hạn chế
nhất định làm cho công cụ pháp lý này không
thực sự phát huy hết vai trò của nó. Cụ thể, hiện
nay tại các làng nghề, hương ước chưa thực sự
được đầu tư xây dựng đúng mức. Không ít những
bản hương ước đưa ra các điều khoản không đúng
với tinh thần của pháp luật, can thiệp quá sâu vào
đời sống cá nhân của người dân. Một số nơi xây
dựng hương ước còn mang hình thức rập khuôn,
chưa thực hiện theo đúng quy định (hình thức
của hương ước, quy ước được thỏa thuận bằng
miệng; chưa phát huy dân chủ, huy động người
dân vào quá trình xây dựng, góp ý kiến); còn coi
việc xây dựng hương ước, quy ước để hoàn thành
tiêu chí bình xét thi đua, khen thưởng.
Hơn thế nữa, quy trình thông qua, phê duyệt
hương hước còn phức tạp. Để một bản hương
ước được đi vào sử dụng thì sau khi hương ước
được lập và thông qua, chủ tịch ủy ban nhân dân
cấp xã cùng chủ tịch uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cấp xã sẽ xem xét nội dung của bản
hương ước nhằm bảo đảm phù hợp với quy định
của pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề, thuần
phong, mỹ tục; sau đó trao đổi, thống nhất ý kiến
với chủ tịch hội đồng nhân dân xấp xã trước khi
trình chủ tịch hội đồng nhân dân cấp huyện phê
duyệt. Thực tế này đã đi ngược lại bản chất của
hương ước là sự thỏa thuận, thống nhất ý kiến
của người dân, trách nhiệm của cơ quan quản lý
nhà nước chỉ là xem xét sự phù hợp với các đạo
đức xã hội và quy định của pháp luật về bảo vệ
môi trường làng nghề. Do đó, thủ tục công nhận
và phê duyệt của cơ quan nhà nước là quá rườm
rà và tốn nhiều thời gian.
4.2 Một số đề xuất
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy, hương
ước hoàn toàn có đủ khả năng để đi cùng và bổ
sung, hỗ trợ cho việc thực hiện pháp luật bảo vệ
môi trường tại các làng nghề. Tuy nhiên, trong
tình hình hiện nay, vì nhiều lí do khác nhau,
hương ước vẫn chưa được sử dụng một cách phổ
biến. Vì vậy, để phát huy được một cách toàn
diện nhất vai trò của hương ước, chúng tôi xin đề
xuất một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, xây dựng một lộ trình để soạn thảo
hương ước của làng nghề theo bốn giai đoạn bao
gồm: (1) Tập huấn về pháp luật với những chủ
cơ sở sản xuất - những nhân tố chính trong việc
xây dựng hương ước sau này; (2) Tiến hành vận
động, họp công khai để tạo sự đồng thuận cao
trong cộng đồng dân cư sinh sống xung quanh
khu vực làng nghề; (3) Tham vấn ý kiến của các
cơ quan nhà nước cấp địa phương; (4) Điều chỉnh
bổ sung nội dung hương ước trên cơ sở tham vấn
ý kiến của các cấp chính quyền.
Thứ hai, xác định rõ vai trò cũng như ranh giới
giữa chính quyền địa phương với cộng đồng dân
cư tại làng nghề trong việc xây dựng cũng như
thực hiện hương ước tránh tình trạng nhà nước can
thiệp quá sâu vào quá trình xây dựng hương ước.
Các cấp chính quyền địa phương chỉ nên đóng vai
trò tham vấn để hoàn thiện nội dung của hương
ước và đảm bảo tính đúng pháp luật và đạo đức
xã hội của hương ước. Để phát huy hơn nữa vị trí,
vai trò của hương ước với hoạt động tự quản cộng
đồng, nâng cao hiệu quả quản lý xã hội tại cơ sở,
99
uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cần quan tâm chỉ đạo,
tập trung triển khai thực hiện các nội dung theo
tinh thần văn bản số 1215/BTP-PBGDPL ngày 15
tháng 4 năm 2016 về việc tăng cường quản lý về
xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước.
Thứ ba, để hương ước được thực hiện một
cách hiệu quả nhất cần gắn hương ước với các
tổ chức hiệp hội làng nghề. Kiến nghị này được
đưa ra trên cơ sở bất cứ một bộ quy tắc xử sự nào
để có thể đi vào thực tiễn đời sống cần phải được
một chủ thể đứng ra chủ trì thực hiện. Trong
trường hợp hương ước của các làng nghề thì chủ
thể thích hợp nhất phải là một tổ chức tập hợp
được những người có lợi ích liên quan đến nhau
và có khả năng tập hợp được ý kiến sâu rộng của
các cá nhân, tổ chức tham gia vào hương ước. Ở
đây có thể là thành lập nên tổ chức hiệp hội làng
nghề, hay thành lập các hợp tác xã làng nghề để
tăng cường tính thống nhất, tính tổ chức cho các
làng nghề, từ đó góp phần thực hiện có hiệu quả
hơn các quy định của hương ước, hướng đến việc
bảo vệ môi trường.
Tài liệu tham khảo
[1] Đặng Bá Hiến (2013), Hơn 600 năm trước đã có
hương ước bảo vệ môi trường, www.laodong.com.
vn/Tin-Tuc/Hon-600-nam-truoc-da-co-huong-uoc-
bao-ve-moi-truong/45157 (25/12/2019).
[2] Đinh Khắc Thuần (2006), Tục lệ cổ truyền làng xã
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.
[3] Hoàng Minh Đạo (2008), Xây dựng hương ước bảo
vệ môi trường cấp thôn bản, tài liệu hội thảo “Đề xuất
cơ chế chính sách nhân rộng các mô hình dịch vụ môi
trường và các mô hình bảo vệ môi trường tiên tiến
trong cộng đồng”.
[4] Thanh Hải (2019), Bảo vệ môi trường tại các làng
nghề, làng nghề truyền thống: Hướng tới các giải
pháp bền vững, https://www.baoquangbinh.vn/kinh-
te/201909/bao-ve-moi-truong-tai-cac-lang-nghe-
lang-nghe-truyen-thong-huong-toi-cac-giai-phap-
ben-vung-2170192/ (28/12/2019).
[5] Thanh Hoài (2013), Làng nghề phải có Hương ước
quy định về bảo vệ môi trường,
vn/Chinh-sach-moi/Lang-nghe-phai-co-Huong-
uoc-quy-dinh-ve-bao-ve-moi-truong/165739.vgp
(22/12/2019).
[6] Phạm Thị Thanh Tâm (2016), Thực hiện pháp luật
bảo vệ môi trường tại các làng nghề trên địa bàn tỉnh
Thừa Thiên Huế, đề tài nghiên cứu khoa học.
[7] Phan Văn Lợi (2012), Thực trạng quản lý và bảo vệ
môi trường dựa trên văn hoá cộng đồng ở một số làng
nghề ven sông Cà Lồ, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,
Khoa học xã hội và nhân văn 28 (2012), 93-103.
[8] Nguyễn Tâm (2019), Các nguyên tắc trong xây dựng,
thực hiện hương ước, quy ước trong giai đoạn hiện
nay, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-
trao-doi.aspx?ItemID=2487 (22/12/2019).
[9] Vũ Văn Đạt (2017), Hệ luỵ từ ô nhiễm môi trường
làng nghề, https://dantocmiennui.vn/moi-truong-va-
ve-sinh-thuc-pham/he-luy-tu-o-nhiem-moi-truong-
lang-nghe/141268.html (28/12/2019).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_cua_huong_uoc_trong_viec_thuc_hien_phap_luat_bao_ve.pdf