Một là, tăng cường hiệu quả hoạt động
của một số Trung tâm, Hiệp hội DN như
Hiệp hội DN CNHT Việt Nam (VASI), Hiệp
hội DN điện tử, . để cung cấp thông tin mọi
mặt cho DN sản xuất CNHT cho ngành
CNĐT trong nước, cũng như cho các khách
hàng, đối tác là tập đoàn đa quốc gia, các DN
FDI. Các thông tin cung cấp cho DN CNHT
nội địa cần đa dạng như tư vấn kỹ thuật, xúc
tiến kinh doanh, tiếp cận chính sách hỗ trợ
của Nhà nước, . Về phía DN FDI, tập đoàn
đa quốc gia, cần cung cấp cho họ cơ sở dữ
liệu cần thiết, có tính chính xác cao về thông
tin của các DN CNHT Việt Nam (thông tin
về sản phẩm, năng lực sản xuất của DN, .).
Nhà nước cần tạo ra cơ chế chính sách,
pháp lý để gia tăng tính liên kết giữa các Hiệp
hội và trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp với
nhau, với các cơ quan quản lý Nhà nước, viện
nghiên cứu, để tạo ra cơ sở thông tin dữ liệu
mang tính cập nhật cao về hệ thống DN
CNHT, cũng như các nhu cầu, cơ hội hợp tác
sản xuất, kinh doanh; tăng tính liên kết để xây
dựng các chính sách, biện pháp phù hợp nhất
và để tăng cường thực thi các chính sách
nhằm hỗ trợ phát triển cho CNHT ngành
CNĐT trong nước, cũng như tránh các biện
pháp chồng chéo, trùng lặp giữa các tổ chức
này, gây lãng phí và kém hiệu quả cho xã hội.
Hai là, Nhà nước có các chính sách định
hướng hiệu quả để khuyến khích các nhà sản
xuất sản phẩm CNĐT chính sử dụng các sản
phẩm CNHT đầu vào do DN nội địa cung
cấp. Thông qua những quy định về chính
sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư trong và
ngoài nước về thuế, cho thuê đất, mặt bằng
kinh doanh, cần đi kèm điều kiện về ưu
tiên sử dụng sản phẩm của nhà sản xuất nội
địa, chúng ta có thể tạo ra được những ràng
buộc để tăng cường liên kết sản xuất với nhà
sản xuất nước ngoài.
Ba là, thúc đẩy sự hình thành và tăng
cường hiệu quả hoạt động các khu, cụm liên
kết công nghiệp, cụm CNHT, tạo môi trường
thuận lợi cho sự giao thương, kết nối và hợp
tác giữa các DN. Để tăng cường liên kết
trong các cụm CN, phía Chính phủ cần hoàn
thiện công tác Quy hoạch, định hướng các
DN trong cụm khu CN tăng cường kết nối
thông tin, hợp tác sản xuất, kinh doanh theo
chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất.
13 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 279 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của liên kết trong sản xuất để phát triển ngành công nghiệp điện tử Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
93
VAI TRÒ CỦA LIÊN KẾT TRONG SẢN XUẤT ĐỂ PHÁT TRIỂN
NGÀNH CÔNG NGHIỆP ĐIỆN TỬ VIỆT NAM
THE ROLE OF LINKAGES IN PRODUCTION FOR DEVELOPMENT OF ELECTRONICS
INDUSTRY IN VIET NAM
Ngày nhận bài: 15/05/2019
Ngày chấp nhận đăng: 05/08/2019
Vũ Thị Thanh Huyền
TÓM TẮT
Trong những năm vừa qua, ngành Công nghiệp điện tử (CNĐT) Việt Nam đang có sự phát triển
nhanh chóng. Xuất khẩu các mặt hàng điện tử và linh kiện điện tử của Việt Nam đã tăng gần 16.6
% năm 2016 và 33,2% năm 2017. Ngoài ra, CNĐT là ngành có chỉ số sản xuất và chỉ số tiêu thụ
sản phẩm cao nhất so với các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (tương ứng 32,5% và 25,6%
năm 2017). Tuy nhiên, với hơn 90% nguyên liệu phụ trợ cho sản xuất ngành điện tử đều phải
nhập khẩu, liên kết giữa các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước và các tập đoàn, DN
điện tử nước ngoài còn vô cùng yếu, dẫn đến giá trị gia tăng của toàn ngành điện tử tạo ra còn
thấp, chưa tham gia đáng kể vào chuỗi sản xuất điện tử trong khu vực. Sử dụng phương pháp
bảng cân đối liên ngành và các phương pháp nghiên cứu định tính, nội dung bài viết sẽ tập trung
vào phân tích về tình hình liên kết và vai trò của liên kết trong hoạt động sản xuất CNĐT, từ đó, đề
xuất một số khuyến nghị để phát triển liên kết trong ngành CNĐT Việt Nam trong những năm tiếp
theo.
Từ khóa: liên kết, cụm liên kết, công nghiệp điện tử, công nghiệp hỗ trợ.
ABSTRACT
In recent years, Vietnamese electronics industry has seen a rapid development. The exports of
electronic devices and components have increased by 16.6% in 2016, and 33.2 % in 2016. In
addition, electronics industry is the one which had the highest consuming indicator and production
index in comparison with other processing-making industries (by 32.5% and 25.6% in 2017).
However, due to the fact that more than 90% of subsidiary materials for production have been
imported, and the relationship between domestics companies and other international corporations
and firms in supporting industries is still really weak, the added values of the whole electronics
industry show their insignificant proportion in the electronic production chain in the area. By using
inter-sectoral balance sheet methodology, this paper aims at analysing the linkages and the role of
lingkages in electronics industry. Since then, propose some recommendations to develop links in
Vietnam's electronics industry in the following years.
Keywords: linkages, link cluster, electronics industry, supporting industry.
1. Giới thiệu
Liên kết trong sản xuất được coi là một
trong những nhân tố quan trọng để giảm chi
phí sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng cho
ngành/ sản phẩm. Đặc biệt, đối với các ngành
sản xuất CN chế biến, chế tạo, liên kết trong
sản xuất có ý nghĩa quan trọng trong đổi mới
công nghệ, đổi mới tổ chức hoạt động sản
xuất, từ đó thúc đẩy việc tăng năng suất, hiệu
quả cho ngành sản xuất và cho nền kinh tế.
Mặc dù được đánh giá là ngành có tốc độ tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu cao, chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tốc
độ tiêu thụ sản phẩm lớn, ... nhưng ngành
CNĐT Việt Nam thời gian qua vẫn trong tình
trạng giá trị gia tăng thấp, sự tham gia thực
chất của các DN nội địa Việt nam vẫn còn rất
hạn chế. Những điều này đặt ra vấn đề cần
xem xét một cách nghiêm túc về thực trạng
liên kết trong hoạt động sản xuất CNĐT Việt
Vũ Thị Thanh Huyền, Trường Đại học Thương Mại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
94
Nam thời gian qua, để đưa ra những giải pháp
cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của ngành
CNĐT Việt Nam những năm tiếp theo.
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1. Một số khái niệm liên quan
Khái niệm về ngành công nghiệp điện tử
Ngành điện tử sản xuất thiết bị điện tử cho
các ngành công nghiệp và các sản phẩm điện
tử tiêu dùng, như máy tính, ti vi và bảng mạch
điện. Các ngành công nghiệp điện tử bao gồm
viễn thông, thiết bị, linh kiện điện tử, điện tử
công nghiệp và điện tử tiêu dùng. Các công ty
điện tử sản xuất thiết bị điện, sản xuất linh
kiện điện và bán các sản phẩm này để cung
cấp cho người tiêu dùng. Hoạt động công
nghiệp điện tử bao gồm các loại hình thiết kế,
chế tạo sản phẩm phần cứng; lắp ráp, gia công
sản phẩm phần cứng; cung cấp dịch vụ công
nghiệp phần cứng. Sản phẩm phần cứng bao
gồm: Máy tính, thiết bị mạng, thiết bị ngoại
vi; Điện tử nghe nhìn; Điện tử gia dụng; Điện
tử chuyên dùng; Thông tin - viễn thông, thiết
bị đa phương tiện; Phụ tùng, linh kiện điện tử;
Các sản phẩm phần cứng khác.
Khái niệm về CNHT ngành điện tử
CNHT ngành điện tử là các ngành công
nghiệp sản xuất các nguyên vật liệu cơ bản,
các linh kiện, phụ tùng, bán thành phẩm để
cung cấp cho các ngành công nghiệp lắp ráp
điện tử,... Trong đó, sản phẩm CNHT ngành
điện tử bao gồm các nguyên vật liệu cơ bản
như nhựa, cao su, kim loại; các linh kiện phụ
tùng bao gồm: linh kiện nhựa - cao su, linh
kiện kim loại, linh kiện điện (như pin, ắc
quy, dây dẫn), linh kiện điện tử; bao bì ...
Từ đó, tác giả đề xuất sơ đồ phản ánh
chuỗi sản xuất ngành CNĐT như sau:
Hình 2.1. Chuỗi sản xuất ngành công nghiệp điện tử
Nguồn: Đề xuất của tác giả
Khái niệm về cụm liên kết ngành
CLKN là “nơi tập trung về địa lý (quần
tụ) của các công ty có liên kết với nhau, các
nhà cung cấp được chuyên môn hóa, các nhà
cung cấp dịch vụ, công ty trong các ngành có
liên quan, và các tổ chức liên quan (như
trường đại học, các cơ quan tiêu chuẩn và
hiệp hội ngành hàng) cùng cạnh tranh nhưng
cũng cùng hợp tác”.(Thành)
Các điều kiện cơ bản để giúp phát triển
có hiệu quả các cụm LK ngành bao gồm:
Có các công ty dẫn đầu hay còn gọi là tiên
phong (trong nước và có vốn đầu tư nước
ngoài, nhất là các công ty đa quốc gia
(MNC)/xuyên quốc gia (TNC));
Mạng lưới các công ty cung ứng hoạt
động hữu hiệu (có được hệ thống CNHT
phát triển);
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
95
Các nền tảng kinh tế với những nhân tố
sản xuất cơ bản như nguồn nhân lực, công
nghệ, khả năng tiếp cận vốn, môi trường kinh
doanh và kết cấu hạ tầng cơ bản.
Khái niệm về liên kết trong sản xuất
công nghiệp
Theo nghĩa hẹp, có thể đưa ra một định
nghĩa giới hạn về liên kết giữa các dòng cung
ứng, nguyên liệu thô, hàng hóa bán thành
phẩm và linh phụ kiện hoặc hàng hóa thành
phẩm; giữa các mối quan tâm thương mại.
Nói cách khác, liên kết công nghiệp có thể
xảy ra khi một hãng sản xuất mua các đầu
vào để sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc
bán cho hãng sản xuất khác.
Theo nghĩa rộng, liên kết công nghiệp bao
gồm tất cả các hoạt động hợp tác, bao gồm
các luồng vật liệu và thông tin, giữa các yếu
tố riêng biệt và các chức năng của hệ thống
sản xuất. Liên kết sản xuất là một sự kết hợp
các sản phẩm chảy từ các nhà máy, đến các
nhà bán lẻ, bán buôn, công chúng, cũng như
các hãng sản xuất khác. (Stephen Mark
Dobson, 1984)(Dobson, 1984)
Như vậy, khái niệm liên kết công nghiệp
có những cách hiểu khác nhau, nhưng ít nhất,
có thể được nhìn thấy theo cách sau:
Thứ nhất, liên kết quá trình. Điều này
được xem là để mô tả sự chuyển động của
hàng hóa giữa các công ty khác nhau như các
giai đoạn trong quá trình sản xuất.
Thứ hai là một liên kết dịch vụ; và điều
này đề cập đến việc cung cấp máy móc thiết
bị và các bộ phận phụ trợ cũng như các yêu
cầu sửa chữa và bảo trì khi được cung cấp
bởi các công ty riêng biệt.
Thứ ba, liên kết tiếp thị liên quan đến
những mối quan hệ với các công ty khác hỗ
trợ việc bán và phân phối hàng hóa;
Thứ tư, các liên kết tài chính và thương
mại mô tả mối quan hệ với các dịch vụ tài
chính và tư vấn như ngân hàng, công ty bảo
hiểm và môi giới chứng khoán...
Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ tiếp
cận liên kết sản xuất theo nghĩa hẹp, chính là
sự liên kết diễn ra trong quá trình sản xuất,
mô tả sự chuyển động của các hàng hóa giữa
các công ty khác nhau trong các giai đoạn
của quá trình sản xuất.
2.2. Vai trò của liên kết trong sản xuất và
phát triển công nghiệp
Do ý nghĩa quan trọng của vấn đề liên kết
trong hoạt động sản xuất của các ngành công
nghiệp trong nền kinh tế, đã có một số
nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này trên
thế giới và tại Việt Nam.
Theo nghiên cứu của Khalid Nadvi và
Stephanie Barrientos (Nadvi and Barrientos,
2004), các cụm công nghiệp, hoặc sự tập
trung địa lý của các doanh nghiệp và các đơn
vị phụ trợ tham gia vào cùng lĩnh vực, có thể
tạo ra nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp
nhỏ. Mô hình cụm nhấn mạnh mối liên kết
nội bộ, nhờ đó mà các lợi ích của cụm được
tăng cường bởi sự hợp tác công ty địa
phương, các tổ chức địa phương và vốn xã
hội địa phương. Bằng chứng ngày càng tăng
về các cụm doanh nghiệp nhỏ ở các nước
đang phát triển cạnh tranh trên thị trường địa
phương và toàn cầu đã thúc đẩy phần lớn sự
nhiệt tình của chính sách trong việc thúc đẩy
các cụm.
Tương tự, theo nghiên cứu của Ana
Colovic và Olivier Lamotte (Colovic and
Lamotte, 2014)), các cụm có thể tạo thuận lợi
cho việc quốc tế hóa các liên doanh quốc tế
mới bằng cách cung cấp các nguồn lực, cơ
hội kết nối mạng và tính hợp pháp để giúp họ
tiếp cận thị trường toàn cầu và bằng cách
tăng tốc độ quốc tế hóa;
Còn theo Joynal Abdin (2016)(Abdin,
2016), phát triển cụm được coi là một công cụ
hiệu quả để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các
cụm công nghiệp được coi là một trong những
cơ chế hiệu quả nhất để thúc đẩy thu nhập và
tăng trưởng việc làm, đặc biệt là các doanh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
96
nghiệp nhỏ, vừa và nhỏ. Các nước phát triển
hoặc đang phát triển công nghiệp có chính
sách riêng để phát triển cụm công nghiệp.
Theo Nguyễn Đình Tài (Tài, 2013) , vai
trò của liên kết trong hoạt động sản xuất CN
và lý thuyết về cụm CN được phát triển từ lý
thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia của
Michael Porter (1990). Lý thuyết này đã chỉ
ra rằng, mỗi cụm liên kết ngành giống như
chuỗi giá trị trong sản xuất hàng hóa và dịch
vụ, trong đó, các ngành công nghiệp được
liên kết với nhau bởi dòng hàng hóa và dịch
vụ. Các CLKN được hình thành từ sự tập
trung cao độ các doanh nghiệp trong một số
ngành và lĩnh vực có liên quan khá chặt chẽ
với nhau, trong đó có liên quan chặt chẽ đến
vai trò của các doanh nghiệp hỗ trợ. Sự lớn
mạnh của một CLKN thường gắn liền với sự
gia tăng và phát triển bền vững của các
doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ
(CNHT). Một CLKN được hình thành sẽ tạo
ra những yếu tố nền tảng nâng cao khả năng
cạnh tranh thông qua một số thành tố là: giúp
DN có cơ hội tăng năng suất; thúc đẩy quá
trình sáng tạo và đổi mới; tác động quan
trọng đến việc hình thành các DN mới trong
ngành hoặc trong các ngành có liên quan.
Tương tự, theo Lê Minh Ngọc và Lê Huyền
Trang (Ngọc and Trang, 2011) , CLKN tác
động đến cạnh tranh và tạo ra lợi thế cạnh
tranh theo 3 cách: Tăng năng suất của các
DN nằm trong cụm liên kết thông qua cải
thiện khả năng tiếp cận nhà cung cấp, kỹ
năng và thông tin chuyên môn; điều chỉnh
hướng đi và tốc độ của sáng tạo đến tăng
trưởng năng suất trong tương lai; và thúc đẩy
việc hình thành những cơ sở kinh doanh mới.
Mặt khác, nghiên cứu của Nguyễn Ngọc
Sơn (Sơn, 2015) về cụm công nghiệp đã chỉ
ra rằng, với sự tập trung về mặt địa lý của các
công ty và các tổ chức có liên quan, liên kết
với nhau trong một lĩnh vực cụ thể, góp phần
tăng cường tính kinh tế địa phương và đô thị
hóa, tạo điều kiện cho tái cơ cấu công
nghiệp, cũng như khuyến khích liên kết giữa
các doanh nghiệp, cho phép các nguồn lực
công đầu tư tập trung hơn. Mặt khác, điều
này cũng tạo cơ hội cho việc tích tụ thông
tin, kiến thức; là những tiền đề cho việc cải
tiến, đổi mới trong sản xuất và giảm chi phí
giao dịch.
Tương tự, theo Võ Trí Thành và các cộng
sự (Thành), việc phát triển CLKN tạo điều
kiện tăng sức cạnh tranh (thông qua việc
giảm giá thành sản xuất, chia sẻ thông tin và
các nguồn lực khác), đổi mới (công nghệ,
quản lý,), phát triển và chuyển đổi cơ cấu
kinh tế địa phương. Chính vì vậy, đến nay,
trên thế giới có tới hơn 2.500 sáng kiến phát
triển CLKN tại 75 nước thuộc tất cả trình độ
phát triển khác nhau. Mối liên kết có thể
được thể hiện trong quan hệ giữa các DN
thuộc các thành phần kinh tế trong các ngành
và quốc tế; giữa các DN có vốn đầu tư nước
ngoài và DN trong nước; giữa các DN lớn và
DNNVV trong các KCN, CCN; giữa các DN
và cơ quan QLNN, cơ quan hoạch định chính
sách; giữa các DN sản xuất với các cơ sở đào
tạo, cơ sở nghiên cứu, các hiệp hội ngành
hàng; ...
Để tính toán mức độ liên kết của các
ngành CN, Lafang Wang và các cộng sự
(Wang et al., 2011) đã đo lường đóng góp
trực tiếp và gián tiếp của ngành thép trong
nền kinh tế Trung Quốc và đánh giá sự khác
biệt giữa ngành sản xuất thép của Trung
Quốc và các quốc gia khác. Với mục tiêu đó,
mô hình I-O được sử dụng để phát hiện các
mối liên kết công nghiệp bao gồm liên kết
ngược và liên kết xuôi của 8 quốc gia sản
xuất sắt thép. Còn theo nghiên cứu của Isara
Muangthai, Sue J. Lin, Charles Lewis
(Muangthai et al., 2016), dựa trên các bảng I-
O 2000, 2005, 2010, đã điều tra mối liên kết
giữa ngành điện và các ngành khác. Kết quả
cho thấy ngành sản xuất điện có hiệu ứng
liên kết thuận cao và hiệu ứng liên kết ngược
tương đối thấp. Do đó, ngành sản xuất điện
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
97
có ảnh hưởng đáng kể như là nguồn đầu vào
cho các ngành khác, nhưng nó có năng lực
thấp để thu hút đầu ra của các ngành khác.
Tương tự, Elias Giannakis và Theofanis P.
Mamuneas (Giannakis and Mamuneasb,
2018) cũng sử dụng phương pháp I-O để tính
toán các mối liên kết và sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các ngành công nghiệp trong nền
kinh tế Síp (Cyprus) trong cuộc khủng hoàng
kinh tế gần đây. Phân tích số nhân đầu vào-
đầu ra cho thấy ngành công nghiệp sản xuất
thực phẩm và ngành giao thông là các lĩnh
vực có liên kết ngược cao nhất trong nền
kinh tế Síp. Ngành công nghiệp sản xuất thực
phẩm và ngành nông nghiệp đã đạt được
những tác động tích cực của nền kinh tế
trong nền kinh tế trong thời kỳ suy thoái; ...
Phương pháp I – O cũng được các nhà
nghiên cứu trong nước sử dụng để tính toán
các hệ số liên kết, xác định các ngành trọng
điểm trong nền kinh tế, chẳng hạn như
nghiên cứu của Bùi Trinh và cộng sự (Trinh
et al., 2011), Nguyễn Mạnh Toàn và Nguyễn
Thị Hương (Toàn and Hương, 2013, Toàn
and Hương, 2014), Nguyễn Phương Thảo
(Thảo, 2015), ...
Như vậy, các nghiên cứu đều cho thấy
tầm quan trọng của vấn đề liên kết, cụm liên
kết trong hoạt động sản xuất công nghiệp nói
chung. Mặt khác, vấn đề phát triển liên kết
trong sản xuất CN gắn liền với phát triển
ngành CNHT. Để đánh giá chung về tình
hình liên kết trong sản xuất CN, có thể dựa
trên các khía cạnh liên kết như: liên kết giữa
DN CN chính với DN CNHT trong nước và
DN có vốn đầu tư nước ngoài; giữa các DN
trong nước; giữa DN với chính phủ và các cơ
sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu, hiệp hội ngành
hàng; ...
2.3. Khung phân tích sử dụng trong bài viết
Trong phạm vi bài viết này, để làm rõ
thực trạng liên kết trong hoạt động sản xuất
CNĐT trong bối cảnh hội nhập, tác giả tập
trung vào các nội dung phân tích như sau:
Thứ nhất, phân tích khái quát thực trạng phát
triển ngành CNĐT Việt Nam thời gian qua;
Thứ hai, phân tích tình hình liên kết trong
hoạt động sản xuất CNĐT Việt Nam, bao
gồm: giữa DN công nghiệp hỗ trợ và DN
CNĐT chính; liên kết giữa DN CNĐT chính
với các DN trong nước (DN nội địa và DN
có vốn đầu tư nước ngoài) và DN ngoài nước
(nguồn nhập khẩu)
Thứ ba, đánh giá các cơ hội và thách thức
của hội nhập quốc tế đến vấn đề liên kết
trong phát triển ngành CNĐT Việt Nam.
2.4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu
Phương pháp nghiên cứu: Để xem xét
thực trạng liên kết của ngành CNĐT trong
bối cảnh hội nhập, tác giả lựa chọn kết hợp
đồng thời cả phương pháp định tính và
phương pháp định lượng.
Phương pháp định tính bao gồm các
phương pháp như thống kê mô tả, so sánh,
đối chiếu ... để phân tích khái quát thực trạng
hoạt động sản xuất, kinh doanh của ngành
CNĐT Việt Nam; khái quát tình hình liên kết
giữa DN CNHT với DN CNĐT chính.
Phương pháp định lượng: phương pháp
bảng cân đối liên ngành được sử dụng để tính
toán các hệ số liên kết ngược, liên kết xuôi,
hệ số lan tỏa đến nhập khẩu, để làm rõ mối
liên kết giữa DN ngành CNĐT chính với các
DN ngành CNHT trong nước và ngoài nước.
Quan hệ cơ bản:
)1(..
).(
XMYXAYXA
XMYYXAA
mmdd
mdmd
Trong đó:
Ad.X là véc tơ chi phí trung gian sản
phẩm được sản xuất ra trong nước; Am.X là
véc tơ chi phí trung gian là sản phẩm nhập
khẩu; Yd là véc tơ nhu cầu cuối cùng sản
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
98
phẩm được sản xuất trong nước; Ym là véc tơ
nhu cầu cuối cùng sản phẩm nhập khẩu.
Nhu cầu nhập khẩu được chia thành 2
mục đích: cho sản xuất (Am.X) và cho tiêu
dùng cuối cùng (Ym) hay: MYXA mm . ,
Khi đó, phương trình (1) được viết lại là:
)2(.)(
.
1 dd
dd
YAIX
XYXA
Như vậy, quan hệ (2) trở về quan hệ
chuẩn của Leontief ở dạng phi cạnh tranh,
ma trận nghịch đảo Leontief (I – Ad)-1 phản
ánh tốt hơn rất nhiều về độ nhạy và độ lan
tỏa của các ngành trong nền kinh tế.
Ứng dụng của mô hình cân đối liên ngành
trong phân tích tác động liên kết, lan tỏa:
Lan tỏa tới nhập khẩu
Trong dạng I/O phi cạnh tranh, ta có mối
quan hệ
(Ad + Am).X + Yd + Ym -M= X (3)
Mặt khác quan hệ này cũng có thể được
viết:
X- Am.X = Ad.X +Cd +Id+E+Cm+Im-M
=TDD -Mp (4)
Trong đó tổng cầu trong nước (bao gồm
tiêu dùng trung gian, tiêu dùng cuối cùng,
đầu tư và xuất khẩu) TDD = Ad.X +Cd +Id+E
ta có:
X = (I-Am)-1.(TDD- Mp) (5)
Hoặc:
X = (I-Am)-1.(TDD+ Cm+Im + E - Mp) (6)
Ma trận (I-Am)-1 được gọi là ma trận nhân
tử về nhập khẩu.
IMi = ∑mij (Cộng theo cột của ma trận
(I-Am)-1)
Hệ số lan tỏa về nhập khẩu = n.IMi / ∑IMi
Hệ số này của ngành nếu lớn hơn 1 chứng
tỏ các ngành này kích thích đến nhập khẩu và
phụ thuộc lớn vào các yếu tố nhập khẩu. Hệ số
này nhỏ hơn 1 và càng nhỏ chứng tỏ sự phụ
thuộc vào các yếu tố bên ngoài thấp và là các
ngành trong nước có lợi thế cạnh tranh hơn.
Liên kết ngược và liên kết xuôi
(backward linkages and forward linkages):
- Liên kết ngược:
n
i
i
j
j
mulO
n
mulO
1
)(
1
)(
Trong đó: µj được
gọi là liên kết ngược của ngành j;
n
i
ijjmulO
1
)(
(cộng theo cột của ma
trận nghịch đảo Leontief)
Những ngành có chỉ tiêu liên kết ngược
lớn hơn 1 sẽ được xem là ngành có sức lan
tỏa lớn. Một sự tăng hoặc giảm về cầu cuối
cùng đối với sản phẩm của các ngành này sẽ
ảnh hưởng đáng kể đến các ngành khác và cả
nền kinh tế.
- Liên kết xuôi:
n
i
i
i
i
FL
n
FL
1
1
Trong đó: FLi là tổng giá
trị mà ngành i cung ứng cho các ngành khác
trong toàn hệ thống sản xuất của nền kinh tế
khi giá trị cầu cuối cùng ở mỗi ngành này
tăng 1 đơn vị,
n
j
ijiFL
1
(Cộng theo
hàng của ma trận Leontief);
i chính là chỉ
số liên kết xuôi của ngành i. Những ngành có
i lớn hơn 1 được xem là những ngành có
độ nhạy cao (tức là vai trò quan trọng với tư
cách là nguồn cung ứng đầu vào cho nền kinh
tế). Những ngành này cần được đảm bảo phát
triển ổn định để phục vụ cho sự phát triển các
ngành khác của nền kinh tế.
Nguồn số liệu:
Để làm rõ thực trạng phát triển ngành
CNĐT Việt Nam và thực trạng liên kết sản
xuất của ngành CNĐT, bài viết chủ yếu sử
dụng các dữ liệu thứ cấp từ nguồn Tổng cục
Thống kê, Bộ Công thương.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
99
Để tính toán các hệ số liên kết, bài viết sử
dụng dữ liệu từ các Bảng cân đối liên ngành
(I - O) của Việt Nam do Tổng cục Thống kê
cung cấp trong 3 năm 2007, 2012, 2016; với
giả định năm 2007 đại diện cho xu hướng
2005-2010; 2012 đại diện cho xu hướng
trong giai đoạn 2011 - 2015 và 2016 đại diện
cho xu hướng 2016 - 2020.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Khái quát về tình hình phát triển
ngành Công nghiệp điện tử Việt Nam
Công nghiệp điện tử (CNĐT) Việt Nam
phát triển rất nhanh từ 2010 đến nay. Theo
Niên giám thống kê năm 2017 của Tổng cục
Thống kê (Tổng cục Thống kê, 2018b)
[tr.286-411], số lượng doanh nghiệp sản xuất
điện tử, máy vi tính, sản phẩm quang học là
1399 doanh nghiệp tăng 22,2 % so với năm
trước, thu hút được 612.306 lao động tăng
23,2% . Trong đó, số doanh nghiệp có quy
mô lao động dưới 300 là 1127 doanh nghiệp,
chiếm 80,55%; số doanh nghiệp có quy mô
vốn dưới 50 tỷ là 915 doanh nghiệp, chiếm
65,4%. Điều này cho thấy rằng, phần lớn
doanh nghiệp sản xuất điện tử là doanh
nghiệp nhỏ và vừa, gây ra những khó khăn
cho quá trình đổi mới và nâng cao trình độ
công nghệ.
Về chỉ số sản xuất công nghiệp: Từ năm
2012 đến nay, chỉ số sản xuất công nghiệp
điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học
biến động tương đối phức tạp. Sau khi giảm
mạnh vào năm 2013, chỉ số sản xuất công
nghiệp tăng nhanh trong 2 năm 2014, 2015;
năm 2016, chỉ số sản xuất lại giảm xuống chỉ
còn 12,5% so với năm trước; đến năm 2017,
chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành tăng
trở lại ở mức 32,5%. Điều này cho thấy tốc
độ tăng trưởng kém ổn định, thiếu bền vững
của ngành CNĐT Việt Nam.
Về xuất nhập khẩu: xuất khẩu sản phẩm
CNĐT nói chung của Việt Nam có sự tăng
trưởng tương đối mạnh mẽ. Đặc biệt, kim
ngạch xuất khẩu chung của ngành điện tử
Việt Nam chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Bảng 3.1. Tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm điện tử của Việt Nam
2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Tổng trị giá XK
(triệu USD)
96905.7 114529.2 132032.9 150217.1 162016.7 176580.8 214019.1
Hàng điện tử,
máy tính, điện
thoại các loại và
linh kiện (triệu
USD)
11058.9 20595.4 31889.3 35007.1 45847.2 53272.5 71214.5
Cơ cấu (%) 11.41 17.98 24.15 23.30 28.30 30.17 33.27
Nguồn: (Tổng cục Thống kê, 2018a)
Trong 5 năm gần đây, tỷ trọng xuất khẩu
các sản phẩm điện tử, máy tính, điện thoại và
linh kiện có xu hướng tăng rất nhanh, từ
11,41% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2011,
đã lên đến 33,27% vào năm 2017. Điều này
cho thấy những vai trò tích cực của ngành
điện tử nói chung đối với tăng trưởng xuất
khẩu của Việt Nam và đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
100
Tuy nhiên, dù kim ngạch xuất khẩu cao,
ngành điện tử Việt Nam phụ thuộc nhiều vào
các đầu vào và nguyên vật liệu nhập khẩu;
theo nghiên cứu của CIEM và các cộng sự
(Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
Ương et al., 2015), năm 2011, 49,3% kim
ngạch xuất khẩu hàng điện tử có nguồn gốc
từ nhập khẩu. Như vậy, giá trị gia tăng mà
xuất khẩu hàng điện tử Việt Nam mang lại
còn tương đối thấp, chưa có đóng góp đáng
kể vào tăng trưởng GDP Việt Nam những
năm vừa qua.
Về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,
tính đến hết năm 2016, tổng số dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực điện tử là
1011 dự án chiếm 8,63% tổng số dự án đầu tư
vào ngành CN CBCT; tương ứng với số vốn
đăng ký đạt 28.306,15 tỷ USD, chiếm 16,39%
tổng số vốn đăng ký toàn ngành CN CBCT.
Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng bình quân giai
đoạn 2011-2016 là 83,04% là một mức tăng
trưởng cao, cho thấy vai trò quan trọng của
ngành CNĐT Việt Nam trong thu hút vốn FDI.
Bảng 3.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực điện tử tại Việt Nam
Triệu USD
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016
100% vốn nước ngoài 419,18 1.363,63 5.511,48 6.349,86 5.081,47 2.131,23
Hợp đồng hợp tác KD - - - - 1,00 -
Liên doanh - 4,22 6,30 49,48 14,63 28,45
Tổng 419,18 1.367,85 5.517,78 6.399,34 5.097,09 2.159,68
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2017
Xét theo hình thức đầu tư, có thể thấy
rằng, phần lớn số vốn đầu tư vào ngành điện
tử tập trung ở hình thức 100% vốn nước
ngoài, trong khi hình thức liên doanh, đặc
biệt là hình thức hợp đồng hợp tác kinh
doanh chiếm tỷ trọng rất thấp. Điều này cũng
thể hiện tính liên kết giữa các doanh nghiệp
FDI với doanh nghiệp nội địa trong hợp tác
sản xuất điện tử là rất hạn chế, việc tận dụng
cơ hội từ FDI để thúc đẩy chuyển giao công
nghệ hiện đại, tiếp thu khả năng tổ chức,
quản lý tiên tiến để nâng cao giá trị gia tăng
cho ngành điện tử Việt Nam là rất ít.
3.2. Khái quát về thực trạng liên kết trong
phát triển CNĐT Việt Nam
Về mối liên kết giữa DN CNHT và DN
CNĐT chính: Về cơ bản, sau hơn 30 năm
phát triển, ngành điện tử Việt Nam vẫn trong
tình trạng lắp ráp cho các thương hiệu nước
ngoài. Các doanh nghiệp điện tử trong nước
vẫn gần như chỉ khai thác sản phẩm cũ, lợi
nhuận rất thấp và giá trị gia tăng chỉ ước tăng
5-10%/năm. Trong khi đó, các doanh nghiệp
FDI trong ngành điện tử, điện máy đang
đứng trước sức ép phải giảm chi phí linh phụ
kiện và nâng cao giá trị gia tăng của các sản
phẩm sản xuất trong nước. Do số doanh
nghiệp hỗ trợ vẫn rất ít so với số lượng doanh
nghiệp lắp ráp, chất lượng linh phụ kiện chưa
đảm bảo nên phần lớn các doanh nghiệp FDI
phải nhập khẩu linh phụ kiện từ các nước
xung quanh.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
101
Bảng 3.3. Năng lực cung ứng của lĩnh vực sản xuất linh kiện, phụ tùng cho ngành CNĐT Việt Nam
Lĩnh vực hạ nguồn
Khả năng cung ứng trong nước (%)
Linh kiện cơ
khí
Linh kiện điện –
điện tử
Linh kiện nhựa –
cao su
Điện tử gia dụng 50% 30 – 35% 40%
Điện tử tin học, viễn thông 30% 15% 15%
Công nghiệp công nghệ cao 10% 5% 5%
Nguồn: (Trung tâm phát triển doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ - Viện nghiên cứu chiến lược chính sách
Công nghiệp, 2015)
Tỷ lệ cung ứng nội địa trong nước cho các
nhà lắp ráp thấp, thường do các doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài đảm nhiệm. Sản phẩm
CNHT chủ yếu do doanh nghiệp FDI sản
xuất hoặc nhập khẩu. Các sản phẩm doanh
nghiệp nội địa sản xuất có chất lượng thấp,
giá thành cao (công nghệ lạc hậu, chậm đổi
mới (do hạn chế nguồn lực, qui trình sản xuất
kém) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ
các doanh nghiệp nội địa.
Về sự hình thành các cụm CN, cụm liên
kết ngành (CLKN)
Trong những năm qua, một số CLKN,
cụm CNĐT cũng đã tồn tại và hiện hữu một
cách tự nhiên. Chẳng hạn như: KCN Thăng
Long (Nội Bài, Hà Nội) với sự tập trung của
nhiều DN đến từ Nhật Bản, KCN này liên kết
các DN lắp ráp cơ điện tử lớn như Canon,
Panasonic với các DN cung cấp phụ tùng linh
kiện cũng đến từ Nhật Bản như Nissei,
Santomas, Yasufuku, ...; Tại miền bắc, cụm
CNĐT bao gồm Hà Nội, Bắc Ninh, Thái
Nguyên, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hải Dương,
Hưng Yên, Bắc Giang với sự tập trung nhiều
các Tập đoàn đa quốc gia như Canon,
Samsung, Nokia, LG, Panasonic, ... và nhiều
doanh nghiệp vệ tinh, chủ yếu là DN FDI;
trong đó, các tập đoàn đa quốc gia đóng vai
trò là DN chủ đạo để hình thành và phát triển
các cụm ngành CNĐT. Tại miền nam, hiện
cũng đã bắt đầu hình thành cụm ngành công
nghệ cao, đặc biệt là vi mạch điện tử và công
nghệ thông tin ở TP Hồ Chí Minh; cụm
ngành điện tử tại Bình Dương; ... Tuy nhiên,
sự tham gia của DN CNHT nội địa vẫn còn
rất hạn chế, thể hiện sự liên kết yếu giữa các
DN nội địa với các công ty điện tử lớn, các
tập đoàn đa quốc gia.
Theo Võ Trí Thành và các cộng sự
(Thành), dựa theo đánh giá của Mekong
Economics (2011), các hạn chế của các
CLKN điện tử Việt Nam được thể hiện trên
các phương diện sau: (1) Các điều kiện về
cầu: mức cầu trong nước thấp (để đạt hiệu
quả kinh tế nhờ quy mô), Việt Nam chưa
thực sự tham gia sâu để đáp ứng cầu của khu
vực và thế giới; (2) Cạnh tranh và chiến lược
ngành: thiếu các doanh nghiệp trong nước có
sức cạnh tranh cao, tăng trưởng năng suất
thấp, các mức thuế chưa đủ khuyến khích và
không hợp lý; (3) Các điều kiện về nhân tố
sản xuất (thiếu nguồn cung lao động lành
nghề, chất lượng giáo dục công nghệ cao còn
thấp, chất lượng kém của kết cấu hạ tầng
ngoài KCN, thiếu kỹ năng quản lý hiệu quả
và trình độ đổi mới công nghệ...); (4) Công
nghiệp hỗ trợ và các ngành hàng liên quan:
thiếu vắng các nguồn cung trong nước có
chất lượng và giá rẻ, thiếu hụt thông tin giữa
các nhà cung cấp và các nhà lắp ráp.
Về mối liên kết giữa DN với hệ thống hiệp
hội, trung tâm hỗ trợ DN: theo đánh giá của
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
102
CIEM (Viện Nghiên cứu Mitsubishi and Viện
Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương,
2016), chính quyền địa phương đang vận
hành trung tâm hỗ trợ DN và các trung tâm
khuyến công tại mỗi một tỉnh, thành phố, tuy
nhiên, nhận thức của các DN về sự tồn tại
của những cơ sở này có thể rất thấp. Chính vì
vậy, tần suất sử dụng các cơ sở này cũng rất
thấp. Điều này thể hiện tính liên kết yếu giữa
DN với các cơ quan, tổ chức hỗ trợ DN.
3.3. Phân tích tác động liên kết của CNĐT
Việt Nam thông qua phương pháp bảng cân
đối liên ngành (I/O)
Vận dụng ý nghĩa của ma trận nghịch đảo
Leontief, tác giả sẽ xem xét tác động liên kết
và lan tỏa, tác động đến các ngành CN khác
và tác động đến NK của ngành CNĐT Việt
Nam.
Bảng 3.4. Phân nhóm sản phẩm CN Điện tử trong phân tích I-O
Tên Sản phẩm
I/O
2007
I/O
2012,
2016
VCPA
(cấp 5,6)
VSIC
(cấp 4,5)
Sản phẩm linh kiện điện tử; máy tính và
thiết bị ngoại vi của máy tính
62 77 26100+26200 2610+2620
Thiết bị truyền thông (điện thoại, máy fax,
ăngten, modem)
63 78 26300 2630
Sản phẩm điện tử dân dụng 64 79 26400 2640
Sản phẩm điện tử khác còn lại và sản
phẩm quang học
65
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Bảng 3.4 mô tả việc phân nhóm các sản
phẩm công nghiệp điện tử dựa trên bảng I –
O do Tổng cục Thống kê cung cấp trong các
năm 2007, 2012, 2016. Dựa trên việc nhóm
các mã sản phẩm thuộc ngành công nghiệp
điện tử, tiếp theo, tác giả sẽ tính toán các hệ
số tác động, hệ số liên kết ngược, liên kết
xuôi và hệ số tác động đến nhập khẩu của
ngành CNĐT Việt Nam, với giả định năm
2007 đại diện cho xu hướng biến động trong
giai đoạn 2005-2010; 2012 đại diện cho giai
đoạn 2011-2015 và 2016 đại diện cho giai
đoạn 2016-2020.
Tác động liên kết của CNĐT đến nền
kinh tế
Bảng 3.5. Tác động của ngành CN điện tử đến nền kinh tế
2005-2010 2011-2015 2016-2020
Tổng ảnh hưởng đến GTSX 1,93 1,43 1,60
Tổng ảnh hưởng đến GTGT 0,56 0,33 0,36
Tổng ảnh hưởng đến NK 0,44 0,72 0,64
Lan tỏa đến NK 1,34 2,02 1,68
Liên kết ngược (µ) 1,17 0,85 0,81
Liên kết xuôi (ω) 1,43 0,82 1,02
Nguồn: Nguồn: Xử lý và tính toán từ bảng I-O 2007, 2012, 2016, TCTK
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
103
Từ các kết quả tính toán ở bảng 3.5, có
thể thấy rằng, tác động của ngành CNĐT đến
tổng GTSX trong nước, GTGT có xu hướng
giảm trong giai đoạn 2011-2015, tăng nhẹ trở
lại trong giai đoạn 2016-2020. Với hệ số tác
động đến GTSX của ngành CNĐT = 1,6
trong giai đoạn 2016-2020, có thể hiểu rằng,
khi cầu cuối cùng với sản phẩm CNĐT tăng
1 đơn vị sẽ làm cho giá trị sản xuất của toàn
nền kinh tế tăng lên 1,6 đơn vị. Tuy nhiên, hệ
số tác động đến GTGT của ngành CNĐT
Việt Nam hiện vẫn tương đối thấp (0,36
trong giai đoạn 2016-2020) cho thấy CNĐT
chưa có đóng góp đáng kể vào sự tăng lên
của giá trị gia tăng trong nền kinh tế (chưa có
đóng góp đáng kể cho tăng trưởng kinh tế
Việt Nam). Trong khi đó, ảnh hưởng nhập
khẩu của ngành điện tử Việt Nam có xu
hướng gia tăng trong giai đoạn 2011-2016 và
giảm dần trong giai đoạn 2016-2020 cho thấy
sự giảm dần vào nguồn đầu vào nhập khẩu
trong quá trình sản xuất của ngành CNĐT.
Những kết quả trên thể hiện xu hướng tác
động tích cực của ngành điện tử đến nền kinh
tế Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
Hệ số liên kết xuôi của ngành công
nghiệp điện tử giảm trong giai đoạn 2011 –
2015, tuy nhiên, có xu hướng tăng trở lại
trong giai đoạn 2016-2020 thể hiện sự gia
tăng về vai trò cung ứng của ngành đối với
quá trình sản xuất các các ngành khác trong
nền kinh tế. Với giá trị hệ số liên kết xuôi
trong giai đoạn 2016-2020 = 1,02 xấp xỉ = 1,
có thể đánh giá CNĐT là ngành có độ nhạy
nhưng chưa cao, chưa thể là ngành đóng vai
trò cung ứng quan trọng trong sản xuất của
nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
Hệ số liên kết ngược giảm trong cả ba
giai đoạn, thể hiện vai trò thấp của ngành
điện tử nếu xét về phía cầu, sự phát triển
của ngành điện tử vẫn chưa là động lực cho
sự phát triển của các ngành sản xuất CNHT
trong nước.
4. Kết luận và khuyến nghị giải pháp
Từ những phân tích trong bài viết, có thể
thấy rằng, tính liên kết yếu là một trong
những hạn chế trong quá trình phát triển của
ngành CN điện tử của Việt Nam, phần lớn
các doanh nghiệp CNHT cho ngành điện tử
Việt Nam hiện nay đều hoạt động tương đối
độc lập, riêng lẻ, thiếu tính liên kết, hợp tác
sản xuất, điều này dẫn đến sự thiếu tính
chuyên môn hóa và dẫn đến khó đầu tư đồng
bộ máy móc công nghệ hiện đại. Trong bối
cảnh hội nhập ngày càng sâu sắc và toàn
diện, sự liên kết yếu có thể dẫn đến những
thách thức trong việc phá vỡ các mối quan hệ
truyền thống giữa các DN trong nước, đồng
thời là nguy cơ rút vốn từ các DN, tập đoàn
đa quốc gia. Để có thể thúc đẩy liên kết trong
sản xuất để phát triển ngành CNĐT trong
giai đoạn tiếp theo, theo tác giả, cần chú
trọng một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, về phía các Doanh nghiệp, cần
chủ động nắm bắt các thông tin về sản xuất,
các cơ hội kinh doanh, các xu hướng về công
nghệ, để chủ động đổi mới về công nghệ,
đổi mới tổ chức sản xuất, đáp ứng nhu cầu
sản xuất của ngành CNĐT nói riêng và các
ngành sản xuất CN trong nền kinh tế nói
chung, từ đó thúc đẩy được cả liên kết ngược
và liên kết xuôi trong sản xuất CNĐT Việt
Nam. DN có thể làm được điều này thông
qua việc chủ động tham dự các Hội thảo, hội
chợ xúc tiến thương mại trong và ngoài nước,
do cơ quan quản lý Nhà nước, các Hiệp
hội DN tổ chức, đồng thời, thông qua các
kết nối cá nhân do DN tạo ra với các đối tác
sản xuất kinh doanh đã có hoặc các đối tác
kinh doanh có thể được xác định là tiềm năng
của mình.
Thứ hai, về phía Nhà nước, để tăng
cường các mối liên kết trong sản xuất nhằm
phát triển ngành CNĐT, cần tập trung vào
các biện pháp sau:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
104
Một là, tăng cường hiệu quả hoạt động
của một số Trung tâm, Hiệp hội DN như
Hiệp hội DN CNHT Việt Nam (VASI), Hiệp
hội DN điện tử, ... để cung cấp thông tin mọi
mặt cho DN sản xuất CNHT cho ngành
CNĐT trong nước, cũng như cho các khách
hàng, đối tác là tập đoàn đa quốc gia, các DN
FDI. Các thông tin cung cấp cho DN CNHT
nội địa cần đa dạng như tư vấn kỹ thuật, xúc
tiến kinh doanh, tiếp cận chính sách hỗ trợ
của Nhà nước, ... Về phía DN FDI, tập đoàn
đa quốc gia, cần cung cấp cho họ cơ sở dữ
liệu cần thiết, có tính chính xác cao về thông
tin của các DN CNHT Việt Nam (thông tin
về sản phẩm, năng lực sản xuất của DN, ...).
Nhà nước cần tạo ra cơ chế chính sách,
pháp lý để gia tăng tính liên kết giữa các Hiệp
hội và trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp với
nhau, với các cơ quan quản lý Nhà nước, viện
nghiên cứu, để tạo ra cơ sở thông tin dữ liệu
mang tính cập nhật cao về hệ thống DN
CNHT, cũng như các nhu cầu, cơ hội hợp tác
sản xuất, kinh doanh; tăng tính liên kết để xây
dựng các chính sách, biện pháp phù hợp nhất
và để tăng cường thực thi các chính sách
nhằm hỗ trợ phát triển cho CNHT ngành
CNĐT trong nước, cũng như tránh các biện
pháp chồng chéo, trùng lặp giữa các tổ chức
này, gây lãng phí và kém hiệu quả cho xã hội.
Hai là, Nhà nước có các chính sách định
hướng hiệu quả để khuyến khích các nhà sản
xuất sản phẩm CNĐT chính sử dụng các sản
phẩm CNHT đầu vào do DN nội địa cung
cấp. Thông qua những quy định về chính
sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư trong và
ngoài nước về thuế, cho thuê đất, mặt bằng
kinh doanh, cần đi kèm điều kiện về ưu
tiên sử dụng sản phẩm của nhà sản xuất nội
địa, chúng ta có thể tạo ra được những ràng
buộc để tăng cường liên kết sản xuất với nhà
sản xuất nước ngoài.
Ba là, thúc đẩy sự hình thành và tăng
cường hiệu quả hoạt động các khu, cụm liên
kết công nghiệp, cụm CNHT, tạo môi trường
thuận lợi cho sự giao thương, kết nối và hợp
tác giữa các DN. Để tăng cường liên kết
trong các cụm CN, phía Chính phủ cần hoàn
thiện công tác Quy hoạch, định hướng các
DN trong cụm khu CN tăng cường kết nối
thông tin, hợp tác sản xuất, kinh doanh theo
chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Abdin, J. 2016. Government’s role in industrial cluster development [Online]. Available:
https://www.linkedin.com/pulse/governments-role-industrial-cluster-development-md-
joynal-abdin [Accessed 4-9 2018].
Colovic, A. & Lamotte, O. 2014. The role of formal industry clusters in the
internationalization of new ventures. European Business Review, 26, 449-470.
Dobson, S. M. 1984. An analysis of the role of linkages in peripheral area development: the
case of devon and cornwall. Universit y of Exeter.
Giannakis, E. & Mamuneasb, T. P. 2018. Sectoral linkages and economic crisis: An input-
output analysis of the Cypriot economy. Cyprus Economic Policy Review.
Muangthai, I., Lin, S. J. & Lewis, C. 2016. Inter-Industry Linkages, Energy and CO2
Multipliers of the Electric Power Industry in Thailand. Taiwan Association for Aerosol
Research
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
105
Nadvi, K. & Barrientos, S. 2004. Industrial clusters and poverty reduction.
Ngọc, L. M. & Trang, L. H. 2011. Một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển các cụm liên kết
ngành tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Nghiên cứu kinh tế số 396, 41-50.
Sơn, N. N. 2015. Phát triển cụm ngành công nghiệp ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế. Kỷ yếu hội thảo quốc gia: Phát triển kinh tế xã hội Việt
Nam và ngành ngân hàng trong bối cảnh Hội nhập. Hà Nội.
Tài, N. Đ. 2013. Hình thành và phát triển cụm liên kết ngành ở Việt Nam: Một lựa chọn
chính sách [Online]. Cổng thông tin kinh tế Việt Nam - Viện quản lý kinh tế Trung
Ương. Available:
thanh-va-phat-trien-cum-lien-ket-nganh-o-Viet-Nam-Mot-so-lua-chon-chinh-sach.html
[Accessed 20/7/2016 2016].
Thành, V. T. Phát triển mạng lưới cụm liên kết ngành ở Việt Nam.
Thảo, N. P. 2015. Sử dụng mô hình cân đối liên ngành trong việc lựa chọn ngành kinh tế trọng
điểm của Việt Nam. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, 31, 1-10.
Toàn, N. M. & Hương, N. T. 2013. Xác định các chỉ số liên kết kinh tế thông qua phân tích
cân đối liên ngành. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, 65, 143-148.
Toàn, N. M. & Hương, N. T. 2014. Lựa chọn các ngành ưu tiên phát triển dựa trên cơ sở
phân cân đối liên ngành Tạp chí Kinh tế và Phát triển, II, 78-85.
Tổng cục thống kê. 2018a. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu [Online]. Available:
[Accessed 20/12 2017].
Tổng cục thống kê 2018b. Niêm giám thống kê 2017. Hà Nội: Thống kê.
Trinh, B., Huân, N. V., Anh, V. N. & Phong, N. V. 2011. Nguyên nhân thâm hụt thương
mại kéo dài của Việt Nam nhìn từ mô hình cân đối liên ngành. Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, 155-163.
Trung tâm phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ - Viện nghiên cứu chiến lược chính
sách công nghiệp 2015. Niên giám về Công nghiệp hỗ trợ các ngành chế tạo Việt Nam.
Hà Nội: Nhà xuất bản Lao Động.
Viện nghiên cứu Mitsubishi & Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương 2016. Báo cáo
Nghiên cứu về nâng cao năng lực các Ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Hà Nội,
Việt Nam.
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Economica Việt Nam & Actionaid Việt Nam
2015. Đánh giá tác động của các hiệp định thương mại tự do và đầu tư song phương tới
các mục tiêu phát triển dài hạn của Việt Nam: Trường hợp ngành chế biến thực phẩm
và điện tử. Hà Nội.
Wang, L., Xie, R. & Liu, J. 2011. Backward & Forward Linkages in Chinese Steel Industry
Using Input Output Analysis. International Journal of Strategic Decision Sciences, 2,
36-55.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_cua_lien_ket_trong_san_xuat_de_phat_trien_nganh_cong.pdf