Kích thích vùng vẫy khi
rút dụng cụ: so với nội khí quản tỷ lệ kích
thích 100% trước khi rút dụng cụ thì ở
nhóm PLMA chỉ có 12,12% . Điều này
cho thấy đặt mặt nạ thanh quản hồi tỉnh êm
ái hơn rất nhiều so với đặt nội khí quản là
điều không thể chối cãi được.
Đau họng là biến chứng
thường gặp sau gây mê có thể là do tổn
thương niêm mạc lúc đặt dụng cụ, hoặc do
bóng hơi chèn ép lên niêm mạc. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, đau họng ở
nhóm P-LMA là 3/66 (4,54%), nhóm
NKQ là 27/65( 41,54%). Higgins[11] gặp
trong nhóm P-LMA 23/69 (33.33%), nhóm
NKQ 37/69 (53.62%). Kết quả của chúng
tôi và của Higgins cho thấy tỷ lệ đau họng
ở nhóm NKQ cao hơn nhiều với p<0.05 có
ý nghĩa thống kê.
Khàn tiếng trong gây mê là
do dây thanh âm bị phù nề hoặc tổn
thương lúc đặt NKQ hoặc mặt nạ thanh
quản [17]. Khàn tiếng cũng có thể là do
bơm bóng hơi căng quá gây nên thiếu máu
niêm mạc và vùng dây thanh âm bị chèn
ép hoặc do kỹ thuật đặt thô bạo, thường
gặp trong nhóm đặt NKQ là chính do tác
động trực tiếp. Trong nghiên cứu của
chúng tôi khàn tiếng sau phẫu thuật ở
nhóm đặt NKQ là 6 trường hợp gồm 2
khàn tiếng nhẹ ( 24 giờ sau hết khàn), 4
khàn tiếng vừa ( khi xuất viện vẫn còn
khàn tiếng nhưng có đỡ hơn), còn ở nhóm
đặt P-LMA thì không có trường hợp khàn
tiếng (0%), kết quả này cũng tương tự tác
giả Lê Tuyên Hồng Dương [8].
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 197 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của mặt nạ thanh quản Proseal trong gây mê phẫu thuật cấp cứu cắt ruột thừa nội soi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
VAI TRÒ CỦA MẶT NẠ
THANH QUẢN PROSEAL
TRONG GÂY MÊ PHẪU
THUẬT CẤP CỨU CẮT RUỘT
THỪA NỘI SOI.
Nguyễn Văn Chinh*,
Nguyễn Văn Chừng*, Lê Hữu Bình*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát tính an toàn,
hiệu quả thông khí và ưu ñiểm của mặt nạ
thanh quản Proseal(PLMA) trong gây mê
phẫu thuật nội soi cấp cứu cắt ruột thừa
so với phương pháp ñặt nội khí
quản(NKQ).
Phương pháp nghiên cứu: Tiền
cứu, phân tích, can thiệp lâm sàng. Chúng
tôi tiến hành nghiên cứu trên 131 bệnh
nhân chia thành 2 nhóm ngẫu nhiên PLMA
và NKQ.Thu thập các số liệu: tuổi, giới
tính, các bệnh kèm theo, tỷ lệ ñặt thành
công, thời gian ñặt dụng cụ, mạch, huyết
áp, SpO2, ETCO2, áp lực ñường thở cùng
với các tai biến, biến chứng trong quá
trình gây mê và sau phẫu thuật.
Kết quả: Tỷ lệ ñặt thành công
100%( lần ñầu 90,90%, lần hai 9,10%),
thời gian ñặt trung bình 26,05 giây. Các
nghiệm pháp xác ñịnh vị trí phát hiện ñặt
sai 6 trường hợp và tất cả ñiều chỉnh
thành công. Không khác biệt về hiệu quả
thông khí giữa 2 nhóm. Nhóm PLMA ổn
ñịnh huyết ñộng hơn nhóm NKQ nhất là
giai ñoạn ñặt và rút dụng cụ. Không
trường hợp xảy ra trào ngược và hít sặc.
Kết luận: Phương pháp gây mê
toàn diện PLMA có tính an toàn và hiệu
quả trong phẫu thuật nội soi cắt ruột
thừa.
Từ khóa: Mặt nạ thanh quản cổ
ñiển, mặt nạ thanh quản Proseal, ống nội
khí quản
SUMMARY
THE ROLE OF PROSEAL
LARYNGEAL MASK AIRWAY FOR
ANESTHESIA
* Đại học Y Dược TP. HCM
OF LAPAROSCOPIC
APPENDECTOMY SURGERY
Nguyen Van Chinh,*Nguyen Van
Chung*, Le Huu Binh*
Objectives: Compare proseal
laryngeal mask airway (PLMA) with
endotracheal tube( ETT) with respect to
safety, pulmonary ventilation and
advantages.
Methods: Prospective, randomized
study. One hundred and thirty-one
laparoscopic appendectomy anesthetized
patients (ASA I, II) were randomly
allocated for airway management with the
PLMA or ETT. Ages, sex, coexisting
medical illnesses, insertion success rates,
insertion time, pulse rate, blood pressure,
SpO2, ETCO2, airway pressure and
accidents were recorded during and after
anesthesia.
Results: Insertion success rates
were 100% (first and second attempt
success were 90.90% and 9.10%
respectively), median insertion time was
26.05s. Special tests which confirm
incorrect positions recognize 6 cases but
all reinsert successfully. There were no
differences in pulmonary ventilation for
both groups. The haemodynamic changes
to insertion and removal were greater for
ETT than PLMA. No cases of regurgitation
or aspiration were recorded.
Conclusion: Anesthesia with
PLMA for laparoscopic appendectomy
surgery is safe and effective.
Keywords: Clasic laryngeal mask
airway, proseal laryngeal mask airway,
intubation tube
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm ruột thừa cấp là bệnh ngoại khoa
thường gặp trong cấp cứu hàng ngày của
các bệnh viện [15]Gây mê nội khí quản là
tiêu chuẩn vàng cho vô cảm ñể mổ cắt ruột
thừa nội soi [1],[12], bởi lẽ nó ñảm bảo chắc
chắn ñường thở chống lại nguy cơ trào
ngược mà có lẽ do phẫu thuật cấp cứu nội
Địa chỉ liên hệ: ThS.BS. Nguyễn Văn Chinh,
0903885497, Email:
chinhnghiem2006@yahoo.com
2
soi có thể ñem lại. Tuy nhiên nó cũng có
nhiều nhược ñiểm ñó là: rối loạn huyết
ñộng nhiều khi ñặt và rút ống, tỉ lệ ñau
họng hậu phẫu cao cũng như các bệnh hầu
họng sau khi ñặt nội khí quản cũng cao, và
cũng góp phần gây ñau hậu phẫu [11],[16].
Mặt nạ thanh quản lần ñầu tiên ñược
sử dụng là vào năm 1981 do bác sĩ người
Anh Archie Brain 8. Tuy nhiên nó chỉ là
mặt nạ thanh quản cổ ñiển (CLMA) chỉ
giải quyết ñược các vấn ñề xâm lấn của
nội khí quản như: giảm ñau họng, ho, khàn
tiếngnhưng nó vẫn còn có nhiều nhược
ñiểm: không chịu ñược áp lực cao khi
thông khí với áp lực dương, dễ gây chướng
hơi dạ dày và tăng nguy cơ hít phải dịch dạ
dày nhất là trong phẫu thuật cấp cứu.
Năm 2000, bác sĩ Archie Brain và
ñồng nghiệp thiết kế một loại mặt nạ mới
có tên là mặt nạ thanh quản Proseal
(PLMA)[3] có nhiều ưu ñiểm hơn mặt nạ
thanh quản cổ ñiển là kiểm soát thông khí
tốt hơn, chịu áp lực cao khi thông khí với
áp lực dương và tách biệt ñường thở và
ống tiêu hóa, dẫn lưu dịch dạ dày, sử dụng
nhanh[5],[6].
Tại ñơn vị chúng tôi, chúng tôi nhận
thấy nguy cơ hít sặc trong các phẫu thuật
cấp cứu nội soi cắt ruột thừa ñối với các
bệnh nhân không kèm theo các yếu tố
nguy cơ hít sặc khác thì tương ñối thấp do
chúng tôi có thói quen là hồi sức nội khoa
và dặn bệnh nhân nhịn ăn ít nhất 6 giờ
trước phẫu thuật. Vả lại chúng tôi bị thuyết
phục rằng mặt nạ thanh quản Proseal ít
xâm lấn hơn ống nội khí quản và chống
trào ngược tốt hơn mặt nạ thanh quản cổ
ñiển. Chính vì những lí do trên mà chúng
tôi thực hiện nghiên cứu với các mục tiêu
sau:
Mục tiêu tổng quát
Khảo sát tính an toàn, hiệu quả thông
khí và ưu ñiểm của mặt nạ thanh quản
Proseal trong gây mê phẫu thuật nội soi
cấp cứu cắt ruột thừa so với phương pháp
ñặt nội khí quản.
Mục tiêu chuyên biệt
Khảo sát tính an toàn thông qua:
ñánh giá khả năng phòng ngừa hít
sặc
Khảo sát hiệu quả thông khí qua:
ñánh giá sự biến ñổi của các thông
số: áp lực thông khí, SpO2, ETCO2,
dò khí.
Khảo sát ưu ñiểm so với nội khí
quản thông qua: ñánh giá sự biến
ñổi huyết ñộng trong gây mê, ñánh
giá giảm các tai biến, biến chứng
trong quá trình gây mê và sau phẫu
thuật, ñánh giá khả năng chấp nhận
của bệnh nhân ñối với từng phương
pháp.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu và lấy số liệu tại
bệnh viện Bình Dân, thành phố Hồ Chí
Minh. Thời gian thực hiện: từ tháng 10
năm 2008 ñến tháng 06 năm 2009.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
- Tất cả bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên
- ASA I, II
- Bệnh nhân viêm ruột thừa cấp
ñược chỉ ñịnh phẫu thuật nội soi
cắt ruột thừa.
- Bệnh nhân ñã nhịn ñói ít nhất 6
giờ.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Chống chỉ ñịnh mặt nạ thanh quản
Proseal: béo phì nặng (BMI
>35kg/m2 ), mang thai, dạ dày ñầy.
- Chống chỉ ñịnh phẫu thuật nội soi.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: tiền cứu,
phân tích, can thiệp lâm sàng. Chia thành 2
nhóm ngẫu nhiên:
Nhóm 1: gây mê toàn diện với mặt
nạ thanh quản Proseal
Nhóm 2: gây mê toàn diện với nội
khí quản.
Phương pháp thực hiện: Bệnh
nhân ñược thăm khám tiền mê, ñánh giá
nguy cơ phẫu thuật theo ASA, giải thích
và kí cam kết trước mổ.
Tiền mê: midazolam 0,04mg/kg (IV) +
fentanyl 2-3mcg/kg (IV)
Khởi mê: Cho bệnh nhân thở dưỡng
khí trước khởi mê 3-5 phút. Propofol tiêm
mạch 2-2,5 mg/kg hoặc etomidate tiêm
mạch 0,2-0,3 mg/kg. Rocuronium tiêm
3
mạch 0,4-0,6 mg/kg hoặc atracurium 0,5
mg/kg ở bệnh nhân bệnh gan, thận. Khi ñạt
ñược tác dụng dãn cơ (ñủ thời gian tác
dụng hoặc dấu hiệu dãn hàm) thì tiến hành
ñặt mặt nạ thanh quản Proseal hoặc nội khí
quản. Sau khi ñặt PLMA tiến hành làm
nghiệm pháp xác ñịnh vị trí và ñiều chỉnh
khi sai vị trí. Kết nối với vòng gây mê.
Duy trì mê: dưỡng khí và isoflurane
hoặc sevoflurane.Fentanyl và dãn cơ
nếu cần.
Thu thập số liệu
Tuổi, giới tính, cân nặng, chiều cao,
bệnh kèm theo, ASA, tỷ lệ thành công,
thời gian ñặt, nhịp thở, mạch, huyết áp,
SpO2, ETCO2, ECG, áp lực ñường thở
cùng với các tai biến, biến chứng trong
quá trình gây mê và sau phẫu thuật.
Xử lý và phân tích số liệu:
Chúng tôi xử lý số liệu theo
chương trình SPSS 11.5.
Được xác ñịnh khác biệt có ý nghĩa thống
kê khi P < 0,05.
KẾT QUẢ
Bảng 1.1: Đặc ñiểm chung của bệnh
nhân
Nhóm
Thông số
P-LMA
(n=66)
(TB±ĐLC)
NKQ
(n=65)
(TB±ĐLC)
P
Tuổi (năm): 32,42±10,25 31,15 ±11,35 0.24
Na
m
28(42,42%) 26(40,00%) 0.12 Giớ
i
Nữ 38(57,58%) 39(60,00%) 0,20
BMI (kg/m2) 21,99 ±5,65 21,41± 6,12 0.87
I 42 (63,64%) 42 (64,61%) 0.42 ASA
II 24
(36,36%)
23 (35,39%) 0.45
I 48
(72,73%)
50 (76,92%) 0.09 Mal
lam
pati II 18
(27,27%)
15
(23,08%)
0.08
Bảng1.2- Các chỉ số về hiệu quả thông
khí
Nhóm
Thông số
P-
LMA
(n=66)
NKQ
(n =65)
P
SpO2(%) 98,67
± 0.67
98,81±
0,97
0.93
Áp lực ñường thở
trước bơm thán khí
14,57
± 0,49
15,13 ±
0,13
0,46
Áp lực ñường thở sau
bơm thán khí
18,79
± 1,38
19,24 ±
2,19
0,53
ETCO2 trước bơm thán
khí (mmHg)
32,56
± 2,03
31,26 ±
2,22
0.67
ETCO2 sau bơm thán
khí (mmHg)
36,45
± 4,52
37,35 ±
5,97
0,53
Bảng1.3- Các chỉ số về huyết ñộng
Nhóm
Huyết
áp
P-LMA
(n=66)
(mmHg)
P
NKQ
(n=65)
(mmHg)
P
HATĐ
T-1D
HATĐ
T+D
111,43±9,27
104,64±8,35
0.06
109,36±12,51
135,39±18,24
0.001
HATĐ
T-1B
HATĐ
T+1B
103,68±10,28
122,41±9,36
0.001
108,36±14,12
125,37±19,15
0.001
HATĐ
T-1X
HATĐ
T+1X
121,38±11,24
117,57±12,37
0.07
120,30±17,25
115,26±12,37
0.06
HATĐ
T-1R
HATĐ
T+1R
115,83±11,24
117,37±12,59
0.12
114,38±12,47
138,37±18,72
0.001
0
5
10
15
20
25
T-1B T+1B T5 T10 T20 T30 T40 T-1X T+1X
Thoi gian(phut)
Ap
lu
c
du
o
n
g
th
o
(cm
H2
0)
PLMA
NKQ
Biểu ñồ1.1 : Đường biểu diễn áp lực ñường thở
95
95.5
96
96.5
97
97.5
98
98.5
99
99.5
100
T™ T-1
D
T+
1D T-1
B
T+
1B T5 T1
0
T2
0
T3
0
T4
0
T-1
X
T+
1X
T-1
R
T+
1R
T+
5R
Thoi gian(phut)
Sp
O
2(%
)
PLMA
NKQ
Biểu ñồ1.2 : Đường biểu diễn SpO2
4
0
10
20
30
40
50
T-1B T+1B T5 T10 T20 T30 T40 T-1X T+1X
Thoi gian(phut)
ET
CO
2(m
m
H
g)
PLMA
NKQ
Biểu ñồ 1.3: Đường biểu diễn ETCO2
75
80
85
90
95
100
T™ T-1D T+1D T-1B T+1B T5 T10 T20 T30 T40 T-1X T+1X T-1R T+1R T+5R
Thoi gian(phut)
M
ac
h(
la
n
/p
hu
t)
PLMA NKQ
Biểu ñồ 1.4: Đường biểu diễn mạch
0
20
40
60
80
100
120
140
160
T™ T-1D T+1D T-1B T+1B T5 T10 T20 T30 T40 T-1X T+1X T-1R T+1R T+5R
Thoi gian(phut)
H
AT
D
(m
m
Hg
)
PLMA NKQ
Biểu ñồ1.5: Đường biểu diễn huyết áp tối ña
Bảng1.4: Tai biến và biến chứng
Các tai biến,
biến chứng
P-LMA
(n=66)
NKQ
(n=65)
Kích thích
vùng vẫy lúc
rút
8(12.12%) 65(100%)
Đau họng 3 (4,54%) 27(41.54%)
Khàn tiếng 0 (0%) 6(9.23%)
Nôn và buồn
nôn
6 (9.09%) 6(9.23%)
Chảy máu 5(7.58%) 3(4.62%)
Trào ngược 0(0%) 0(0%)
BÀN LUẬN
ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA BỆNH
NHÂN
Trong nghiên cứu chúng tôi, bệnh nhân
của 2 nhóm không khác biệt về tuổi, BMI,
giới tính, phân loại nguy cơ phẫu thuật
ASA, ñánh giá Mallampati, các bệnh kèm
theo.
Tỷ lệ bệnh nhân nữ chung của 2 nhóm
bị viêm ruột thừa ở nghiên cứu của chúng
tôi là 59% nhiều hơn bệnh nhân nam
(41%), tỷ lệ này cũng phù hợp với nghiên
cứu của Lê Văn Nghĩa 15[15]. BMI trung
bình của nhóm NKQ là 21,41±6,12, nhóm
PLMA là 21,99±5,65 không khác biệt về
mặt thống kê. Giới và chỉ số BMI có liên
quan mật thiết ñến việc chọn lựa kích cỡ
của PLMA khi ñặt. Thông thường có hai
cách chọn cỡ mặt nạ thanh quản là dựa vào
cân nặng và giới tính. Theo nhà sản xuất
khuyến cáo thì chọn cỡ PLMA theo cân
nặng[3]. Còn theo Kihara[13] nghiên cứu
trên bệnh nhân người Nhật và dựa vào
ñánh giá tính dễ ñặt, ñặt ñúng vị trí thông
qua ống nội soi mềm chỉ thấy 2 dây thanh
âm hoặc thấy 2 dây thanh âm và các thành
phần phía sau nắp thanh môn thì tác giả
ñưa ra lựa chọn cỡ số 3-4 cho nữ, cỡ số 4-
5 cho nam. Để dung hòa 2 ý kiến trên
trong nghiên cứu của chúng tôi chọn cỡ số
3 cho bệnh nhân nữ <50 kg, số 4 cho bệnh
nhân nam >50 kg. Ngoài ra chúng tôi cũng
kết hợp thêm với việc ñánh giá cấu trúc
vùng hầu họng ñể chọn lựa kích cỡ dụng
cụ cho phù hợp[2],[10].
KỸ THUẬT ĐẶT MẶT NẠ THANH
QUẢN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi,
tỷ lệ thành công lần ñầu là 90,90%, và tỷ
lệ thành công sau 2 lần ñặt là 100%, tương
tự với các tác giả [2],[14]. Chúng tôi nhận
thấy rằng ñể thành công khi ñặt PLMA thì
cần phải có những yếu tố sau: cấu trúc giải
phẫu vùng hầu họng bình thường, sự thành
thạo về kỹ thuật ñặt, chọn cỡ LMA cho
thích hợp, chọn liều lượng thuốc mê, phối
hợp các loại thuốc mê, cũng như thời ñiểm
ñặt với ñộ mê thích hợp. Theo nhà sản
xuất khuyến cáo thì có 3 cách ñặt: ñặt bằng
dụng cụ, bằng ngón trỏ, bằng ngón cái.
Hiện tại không có nhiều nghiên cứu báo
cáo cho thấy sự khác biệt rõ ràng về tỷ lệ
thành công giữa các kỹ thuật này[11].
Ngoài ra còn có các cách ñặt khác như: ñặt
bằng ngón trỏ cải tiến, kĩ thuật là dùng một
catheter hút khí quản cho qua ống dẫn lưu
ñóng vai trò như một vật hướng dẫn ñể
ñưa chính xác vào cơ thắt thực quản.
Nghiên cứu báo cáo kết quả tỷ lệ thành
công 100% cho lần ñặt ñầu tiên tương
ñương với kĩ thuật GEB (gum-elastic-
bougie)[4]. Tuy nhiên trong nghiên cứu này
chúng tôi chọn kĩ thuật chủ ñạo là ñặt qua
dụng cụ vì ñó là phương pháp mà chúng
5
tôi thành thạo nhất, dĩ nhiên chúng tôi
cũng dự phòng các kĩ thuật khác khi thất
bại. Trong nghiên cứu có 6 trường hợp ñặt
lần 2, trong ñó có 4 trường hợp ñặt nông
theo chúng tôi nghĩ là do lúc tháo dụng cụ
(introducer), PLMA bị kéo theo. Như vậy
cho thấy bước tháo dụng cụ ( introducer)
là hết sức quan trọng trong phương pháp
ñặt PLMA bằng dụng cụ.
Thời gian ñặt ở nhóm PLMA ngắn
hơn nhóm NKQ có ý nghĩa thống kê với
p<0,05 phù hợp với kết quả của các tác
giả[6],[13]. So với sử dụng ống NKQ thì khi
dùng mặt nạ thanh quản ñôi tay của người
gây mê cũng ñược giải phóng như nhau
tuy nhiên thao tác ñặt mặt nạ thanh quản
tương ñối ñơn giản, dễ ñặt, học vài lần là
ñược. Ưu ñiểm này thuận lợi trong các
trường hợp cần cấp cứu ñường thở khẩn
cấp nhất là giai ñoạn cấp cứu ban ñầu.
Thể tích bơm bóng hơi ảnh hưởng
ñến áp lực chèn ép của bóng hơi và ảnh
hưởng ñến sự tưới máu niêm mạc hầu
họng. Sự tăng áp lực của bóng hơi sẽ làm
tăng các biến chứng sau mổ ở vùng họng
thanh quản như : ñau họng, khó nuốt, khó
nói và tổn thương thần kinh. Ngoài ra thể
tích bơm bóng cũng ảnh hưởng ñến áp lực
kín của mặt nạ thanh quản. Chính vì vậy,
nhà sản xuất khuyến cáo các mức thể tích
bơm bóng hơi tối ña cho mặt nạ thanh
quản Proseal: cỡ số 3 bơm tối ña 20 ml khí
; cỡ số 4 bơm tối ña là 30 ml khí ; cỡ số 5
là 40 ml khí và áp lực bóng hơi tối ña cho
phép ≤ 60 cm H2O, nhằm ñể giảm những
biến chứng vùng họng, thanh quản.
Mặt nạ thanh quản Proseal là một
dụng cụ thông khí có nhiều ưu ñiểm nhưng
vẫn có những nhược ñiểm của nó, trong ñó
ñáng ngại nhất là viêm phổi do hít phải
dịch vị trào ngược. Tuy nhiên nếu ñặt
ñúng vị trí thì nó có khả năng chống trào
ngược tốt. Vì vậy kiểm tra vị trí ñặt mặt nạ
có ñúng hay không là ñiều hết sức cần
thiết. Đặt ñúng khi một ñầu tự do của mặt
nạ tựa nhẹ vào thanh môn còn ñỉnh thì tựa
vào cơ thắt trên của thực quản. Có nhiều
yếu tố ñể xác ñịnh ñã ñặt ñúng vị trí mặt
nạ thanh quản:
Quan sát thấy sự di chuyển ra
ngoài nhẹ của ống khi bơm hơi,
xuất hiện vòng hình oval ở cổ
quanh khu vực sụn giáp và sụn
nhẫn, hoặc không nhìn thấy bóng
hơi trong khoang miệng.
Bộ phận chống cắn nên nằm giữa
răng và lớn hơn 50% ñộ sâu nằm
trong miệng.
Bóp bóng nhẹ tay và lồng ngực nở
cân xứng.
Không nghe rò khí ở miệng, không
thổi hơi vào dạ dày và không tiếng
rít thanh quản.
Đường biểu diễn ETCO2 có hình
vuông và ETCO2 ≤ 45 mmHg.
SpO2 ≥ 95%, áp lực ñường thở ≤
35 cmH20
Nghiệm pháp bong bóng âm tính.
Nghiệm pháp ấn hõm ức dương
tính
Đặt ống dạ dày ñể kiểm tra, nếu
ống dạ dày không qua ñược có thể
mặt nạ ñã bị gập.
Có 3 vị trí sai lệch quan trọng khi ñặt là:
1. Đầu xa của bóng hơi nằm quá cao
trên hầu: Theo Brimacombe [3, 4] ñây là
sai lệch thường gặp nhất. Trong nghiên
cứu của chúng tôi gặp 4 trường hợp
(6,07%), sau khi phát hiện chúng tiến hành
ñẩy PLMA sâu thêm nữa và kiểm tra lại
nhưng vẫn không ñược nên rút ra và ñặt lại
lần 2 thành công.
2. Đầu của bóng hơi nằm trong nắp
thanh môn: trong nghiên cứu của chúng
tôi phát hiện 1 trường hợp chiếm 1,51% và
chúng tôi nhanh chóng rút ra ñặt lại thành
công.
Cả 2 sai lệch loại trên sẽ giảm nếu kĩ
thuật ñặt thành thạo, làm xẹp bóp hơi hoàn
toàn ñúng tiêu chuẩn trước khi ñặt và cẩn
trọng ở thì rút introducer sau khi ñặt.
3.Đầu bóng hơi bị gập ra sau: khi ñặt
sai vị trí mặt nạ thanh quản như trong
trường hợp này, thì nguy cơ cao dẫn ñến
bơm hơi vào dạ dày và hít sặc cao. Nghiên
cứu của chúng tôi, có 1 trường hợp bóng
hơi gập ngược ra sau chiếm tỷ lệ 1,51%.
Trong trường hợp này chúng tôi rút PLMA
ra và ñặt lại ngay nên thông khí an toàn và
hiệu quả.
6
THÔNG KHÍ
Chúng tôi ñánh giá thông khí gọi là
hiệu quả khi: áp lực ñường thở ≤ 35 cm
H2O, SpO2 ≥ 95%., ETCO2 duy trì 35 - 45
mmHg, lồng ngực dãn nở cân xứng, không
nghe rò khí qua miệng và không bơm hơi
vào dạ dày.
Theo khuyến cáo áp lực thông khí ≤ 35
cmH2O với mặt nạ thanh quản Proseal khi
ñã ñặt ñúng vị trí thì thông khí sẽ an toàn
và hiệu quả. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, không bệnh nhân nào có bệnh về ñàn
hồi phổi, không có bệnh nhân béo phì, áp
lực ñường thở của nhóm P-LMA và NKQ
trước và sau bơm thán khí khác biệt không
có ý nghĩa thống kê với P>0,05. Ap lực
ñường thở trước và sau bơm thán khí của
từng nhóm khác biệt có ý nghĩa thống kê
với P<0,05. Ap lực sau khi bơm thán khí
lớn hơn trước khi bơm nhưng nằm trong
giới hạn cho phép, kết quả này cũng tương
tự với các tác giả khác [10],[17].
Sp02
giữa hai nhóm PLMA: 98,67 ±
0,67% và nhóm NKQ: 98,81 ± 0,97%,
khác biệt không có ý nghĩa thống kê với P
> 0,05. SpO2 luôn luôn dao ñộng từ 98%
ñến 100%, chỉ riêng tại thời ñiểm sau khi
rút 1 phút SpO2 có thấp hơn, nhưng nằm
trong giới hạn cho phép >95%. Nhưng sau
rút 5 phút thì SpO2 của 2 nhóm trở về bình
thường PLMA cao hơn nhóm NKQ một ít,
do sau rút thì nhóm PLMA ít kích thích
vùng vẫy hơn, nên thở tốt hơn. Kết quả
này cũng tương tự với Maltby [14]. Như
vậy cho thấy hiệu quả thông khí của
PLMA và NKQ là như nhau.
ETCO2 giữa hai nhóm PLMA và NKQ
khác biệt nhau không có ý nghĩa thống kê
với p>0.05. Tuy nhiên sau bơm thán khí,
ETCO2 của cả 2 nhóm tăng lên có ý nghĩa
thống kê so với trước khi bơm hơi. Sự
giảm trao ñổi khí trong quá trình gây mê
cũng là 1 yếu tố làm ưu thán. Vì vậy thông
khí kiểm soát với áp lực dương có thể cải
thiện phần nào tình trạng này. Theo nghiên
cứu của Dubecz S Jr và cộng sự [9] bệnh
nhân cắt túi mật nội soi có bơm thán khí
không có tiền sử tim mạch và hô hấp thì
thấy có tăng ETCO2 sau khi bơm thán khí
vào ổ bụng, và tác giả cũng cho rằng nên
tăng thông khí ñể ngăn ngừa tình trạng ưu
thán. Tuy nhiên tác giả không ñề cập cụ
thể tăng bao nhiêu ñể bù trừ. Trong nghiên
cứu của chúng tôi bệnh nhân ñược thông
khí kiểm soát, thể tích khí lưu thông tăng
từ 10ml/kg/phút lên ñến 12ml/kg/phút vì
thế ETCO2 dao ñộng trong khoảng 30-40
mmHg.
HUYẾT ĐỘNG
Trong nghiên cứu chúng tôi tiến hành
so sánh sự biến ñổi huyết ñộng của nhóm
PLMA với NKQ qua các thì quan trọng
của một cuộc phẫu thuật nội soi bơm hơi ổ
bụng, ñó là: trước và sau khi ñặt dụng cụ,
trước và sau khi bơm hơi, trước và sau khi
xả hơi, trước và sau khi rút dụng cụ.
Mạch, huyết áp tại thời ñiểm trước và
sau khi ñặt, trước sau khi rút của nhóm
NKQ khác biệt có ý nghĩa thống kê với
P<0,05 và mạch, huyết áp sau khi ñặt lớn
hơn trước khi ñặt. Còn nhóm PLMA mạch,
huyết áp có biến ñổi so với sau khi ñặt
nhưng không khác biệt về mặt thống kê.
Kết quả này cũng tương tự với tác giả [14].
Người ta thấy rằng sự ảnh hưởng trên
huyết ñộng là do kích thích vùng hầu,
thanh quản vì vùng này có các sợi thần
kinh hướng tâm phân phối cho toàn bộ khí
ñạo, các sợi thần kinh này bắt nguồn từ
nhánh trong của thần kinh thanh quản trên.
Đáp ứng với các kích thích cơ học như áp
lực tì ñè của bóng chèn, kích thích hoá học
như CO2 lên các sợi thần kinh hướng tâm
và kích thích thần kinh giao cảm gây nên
tăng huyết áp và mạch. Tuy nhiên kích
thích trên bệnh nhân ñặt nội khí quản
nhiều hơn ở bệnh nhân ñặt mặt nạ thanh
quản. Khi phân tích ñáp ứng của huyết
ñộng trong từng thì ñặt, Oczenski [16] thấy
lúc ñưa ñèn soi thanh quản vào thì tác
ñộng lên HA nhiều hơn lúc ñưa ống NKQ
vào.
Trong lô nghiên cứu, chúng tôi nhận
thấy sau bơm hơi huyết áp ñộng mạch cao
có ý nghĩa thống kê so với lúc trước bơm
hơi. Khi bơm thán khí vào ổ bụng gây
chèn ép các mạch máu lớn làm tăng sức
cản ngoại vi ñưa ñến hậu quả làm tăng
huyết áp ñộng mạch, ngoài ra còn có sự
7
tham gia của yếu tố thể dịch do bơm hơi
kích thích phúc mạc.
Sau tháo hơi lượng máu về tim tăng
dẫn tới tăng tiền gánh, trong lúc sức cản
của hệ thống còn cao do các hormone
Vasopressin, catecholamines ñược tiết ra
lúc bơm thán khí làm tăng huyết áp. Chính
vì vậy sau khi xả hơi chúng tôi nhận thấy
không sự khác biệt huyết áp so với trước
xả hơi P> 0.05. Trong nghiên cứu, chúng
tôi nhận thấy huyết áp ñộng mạch tăng
nhưng vẫn kiểm soát ñược, không có
trường hợp nào phải dùng thuốc dãn mạch.
TAI BIẾN, BIẾN CHỨNG
Trào ngược và hít sặc là
một biến chứng rất nghiêm trọng, có thể ñe
dọa ñến tính mạng người bệnh, ñây là vấn
ñề mà nhiều tác giả và các nhà gây mê
quan tâm ñến. Theo thống kê của
Brimacombe và Brain vào năm 1996 nhận
thấy tỷ lệ hít sặc liên quan tới gây mê toàn
diện là 1.4 – 1.6/10000, trong số này tỷ lệ
tử vong xấp xỉ 5%, một nghiên cứu khác
trên 215488 bệnh nhân gây mê toàn diện
(không dùng LMA cổ ñiển) nhận thấy tỷ lệ
hít sặc chiếm 11/10000 ở nhóm phẫu thuật
cấp cứu, 2.6/10000 ở nhóm phẫu thuật
theo kế hoạch như vậy cho chúng ta thấy
tỷ lệ hít sặc ở bệnh nhân phẫu thuật cấp
cứu cao gấp 4 lần so với phẫu thuật theo
kế hoạch. Theo tổng kết của
Brimacombe[4], Keller[12] cho thấy trên
150 triệu bệnh nhân có dùng LMA cổ ñiển
thì tỷ lệ trào ngược là 0.02% trong số ñó tỷ
lệ tử vong là 5%, theo Cook [7] tỷ lệ trào
ngược ñối với LMA cổ ñiển là từ 1-
4/11.000, còn P-LMA là 1/200.000 –
2/200.000. Như vậy qua thống kê của các
tác giả trên cho thấy tỷ lệ viêm phổi hít
thấp, nhưng ñây là biến chứng rất nguy
hiểm trong gây mê. Trong nghiên cứu của
chúng tôi không phát hiện trường hợp nào
trào ngược hay hít sặc qua phương pháp ño
pH mặt nạ thanh quản và theo dõi các dấu
hiệu lâm sàng. Điều này có lẽ thứ nhất là
do mẫu của chúng tôi nhỏ, thứ hai do
chúng tôi chọn mẫu rất kĩ lưỡng, tất cả
bệnh nhân ñều phải nhịn ăn uống >6 giờ
và không có thêm yếu tố nguy cơ trào
ngược như: mang thai, tắc ruột, tiền căn
trào ngược dạ dày thực quản, thoát vị
hoành, Vả lại chúng tôi rất thận trọng
trong việc xác ñịnh ñúng vị trí mặt nạ
thanh quản sau khi ñặt.
Tổn thương niêm mạc
chảy máu khi dùng PLMA trong nghiên
cứu của Brimacombe và Kihara[13] là
10,2% trong khi của chúng tôi là 5/66
(7,58%) nhiều hơn so với nhóm nội khí
quản 3/65(4,62). Tuy nhiên các trường hợp
này ñều là do ñặt ñi ñặt lại nhiều lần. Do
ñó tai biến này sẽ giảm dần khi kỹ thuật
thành thạo
Kích thích vùng vẫy khi
rút dụng cụ: so với nội khí quản tỷ lệ kích
thích 100% trước khi rút dụng cụ thì ở
nhóm PLMA chỉ có 12,12% . Điều này
cho thấy ñặt mặt nạ thanh quản hồi tỉnh êm
ái hơn rất nhiều so với ñặt nội khí quản là
ñiều không thể chối cãi ñược.
Đau họng là biến chứng
thường gặp sau gây mê có thể là do tổn
thương niêm mạc lúc ñặt dụng cụ, hoặc do
bóng hơi chèn ép lên niêm mạc. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, ñau họng ở
nhóm P-LMA là 3/66 (4,54%), nhóm
NKQ là 27/65( 41,54%). Higgins[11] gặp
trong nhóm P-LMA 23/69 (33.33%), nhóm
NKQ 37/69 (53.62%). Kết quả của chúng
tôi và của Higgins cho thấy tỷ lệ ñau họng
ở nhóm NKQ cao hơn nhiều với p<0.05 có
ý nghĩa thống kê.
Khàn tiếng trong gây mê là
do dây thanh âm bị phù nề hoặc tổn
thương lúc ñặt NKQ hoặc mặt nạ thanh
quản [17]. Khàn tiếng cũng có thể là do
bơm bóng hơi căng quá gây nên thiếu máu
niêm mạc và vùng dây thanh âm bị chèn
ép hoặc do kỹ thuật ñặt thô bạo, thường
gặp trong nhóm ñặt NKQ là chính do tác
ñộng trực tiếp. Trong nghiên cứu của
chúng tôi khàn tiếng sau phẫu thuật ở
nhóm ñặt NKQ là 6 trường hợp gồm 2
khàn tiếng nhẹ ( 24 giờ sau hết khàn), 4
khàn tiếng vừa ( khi xuất viện vẫn còn
khàn tiếng nhưng có ñỡ hơn), còn ở nhóm
ñặt P-LMA thì không có trường hợp khàn
tiếng (0%), kết quả này cũng tương tự tác
giả Lê Tuyên Hồng Dương [8].
8
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu sử dụng mặt nạ
Proseal trong phẫu thuật cắt ruột thừa nội
soi, chúng tôi rút ra ñược những kết luận
sau:
Kỹ thuật ñặt mặt nạ thanh quản
Proseal ñơn giản, dễ thực hiện,
thời gian ñặt nhanh và có tỷ lệ
thành công cao.
Phương pháp gây mê toàn diện
qua mặt nạ thanh quản Proseal
ñạt hiệu quả thông khí tốt như
phương pháp ñặt nội khí quản.
Ổn ñịnh huyết ñộng hơn ở nhóm
ñặt mặt nạ thanh quản so với ñặt
nội khí quản.
Rất ít xảy ra trào ngược, hít sặc.
Giảm các tai biến biến chứng
trong và sau phẫu thuật hơn so
với ñặt nội khí quản.
Chất lượng hồi tỉnh tốt vì thế
bệnh nhân dễ chấp nhận hơn so
với nội khí quản.
Tóm lại, phương pháp gây mê toàn
diện qua mặt nạ thanh quản Proseal
có tính an toàn và hiệu quả trong
phẫu thuật nội soi cấp cứu cắt ruột
thừa nếu chúng ta tôn trọng ñúng
nguyên tắc: chỉ ñịnh , chống chỉ ñịnh
mặt nạ thanh quản và ñảm bảo ñặt
ñúng vị trí.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abdel El-Ganzouri, Michail N. Avramov,
Stefan Budac, Mario Moric and Kenneth J.
Tuman (2003). "Proseal laryngeal mask airway
versus endotracheal tube: ease of insertion,
hemodynamic responses and emergence
characteristics". Anesthesiology; 99 , A571
2. Archie Brain IJ. and J. (1997). "History and
Physiological implication. The Laryngeal
Mask Airway." W. B. Sauders Company
Limited, pp2-34
3. Brimacombe J (2004). "LMA-Proseal an
analysis of current knowledge and a complete
practical guide". The Laryngeal Mask
Company Limited, pp2-104
4. Brimacombe, Keller and Judd (2004). "Gum
elastic bougie-guided insertion of the ProSeal
laryngeal mask airway is superior to the digital
and introducer tool techniques".
Anesthesiology; 100 (1), pp25-29
5. Nguyễn Văn Chừng (2004). "Gây mê hồi sức
ñể mổ nội soi ổ bụng". Trong: Gây mê hồi sức,
Nhà xuất bản Y Học, tr. 141-148.
6. Nguyễn Văn Chừng, Nguyễn Văn Sách,
Trương Triều Phong (2009). "Đánh giá hiệu
quả mặt nạ thanh quản Proseal trong phẫu
thuật cấp cứu". Y học Thành Phố Hồ Chí
Minh; 13 (1), tr. 461-467.
7. Cook, Lee and Nolan (2005). "The ProSeal
laryngeal mask airway: a review of the
literature". Can J Anaesth; 52 (7), pp739-760.
8. Lê Tuyên Hồng Dương, Nguyễn Hữu Tú
(2006). “Liên quan giữa cỡ ống nội khí quản
với biến chứng ñau họng và khàn tiếng sau
mổ”. Kỹ yếu công trình nghiên cứu khoa học,
Hội nghị gây mê toàn quốc Hải Phòng
11/2006, tr.161.
9. Dubecz, Pianim, Se-Yuan, Klein and Bongard
(1992). "Laparoscopic surgery with carbon
dioxide insufflation causes respiratory
acidosis". Acta Chir Hung; 33 (1-2), pp93-100
10. Fabregat-Lopez, Garcia-Rojo and Cook
(2008). "A case series of the use of the ProSeal
laryngeal mask airway in emergency lower
abdominal surgery". Anaesthesia; 63 (9),
pp967-971
11. Higgins, Chung and Mezei (2002).
"Postoperative sore throat after ambulatory
surgery". Br J Anaesth; 88 (4), pp582-584
12. Keller, Brimacombe, Bittersohl, Lirk and von
Goedecke (2004). "Aspiration and the
laryngeal mask airway: three cases and a
review of the literature". Br J Anaesth; 93 (4),
pp579-582
13. Kihara, Brimacombe, Yaguchi, Taguchi and
Watanabe (2004). "A comparison of sex- and
weight-based ProSeal laryngeal mask size
selection criteria: a randomized study of
healthy anesthetized, paralyzed adult patients".
Anesthesiology; 101 (2), pp340-343
14. Maltby, Beriault, Watson, Liepert and Fick
(2002). "The LMA-ProSeal is an effective
alternative to tracheal intubation for
laparoscopic cholecystectomy". Can J
Anaesth; 49 (8), pp857-862
15. Lê Văn Nghĩa, Nguyễn Thế Hưng (2006).
“Phẫu thuật nội soi ñiều trị viêm phúc mạc ruột
thừa”. Y học TP. Hồ Chí Minh, 10(1), tr.430-
434.
9
16. Oczenski (1999). "Hemodynamic and
catecholamine stress responses to insertion of
the combitube, laryngeal mask airway or
tracheal intubation". Anesth Analg; 88,
pp1389-1394.
17. Takahashi, Mizutani, Miyabe and Toyooka
(2002). "Hemodynamic responses to tracheal
intubation with laryngoscope versus lightwand
intubating device (Trachlight) in adults with
normal airway". Anesth Analg; 95 (2), pp 480-
484
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_cua_mat_na_thanh_quan_proseal_trong_gay_me_phau_thua.pdf