- Việc Bộ tài chính và Hải quan khẩn trương hoàn thiện và đơn giản hóa hệ thống thuế, thủ tục hành chính, trong nghiệp vụ thuế và hải quan bảo đảm tính ổn định, có thể dự báo trước được của hệ thống thuế (nhất là hệ thống báo hộ) cung cấp thông tin cập nhật hệ thống chính xác và thuận tiện cho các doanh nghiệp biết.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu của các biện pháp ưu đãi tài chính như tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển lợi nhuận về nước và cho góp vốn được dễ dàng. Đặc biệt là nên hạn chế những quy định bắt buộc các nhà đầu tư nước ngoài phải góp vốn bằng tiền mặt khi họ đang gặp khó khăn về vốn.
- Cho các dự án đã được cấp giấy phép đầu tư được hưởng những ưu đãi của các qui định mới về thuế lợi tức, giá thuê đất mới; xem xét để giảm thuế thu nhập đối với những doanh nghiệp thực sự lỗ vốn.
103 trang |
Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của ngành công nghiệp trong phát triển kinh tế thủ đô và các nguồn vốn phát triển công nghiệp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ư vậy nhìn chung qua các năm vốn nhà nước đầu tư cho công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Nhận thức vai trò quan trọng như vậy nên hiện nay tất cả các địa phương đều xúc tiến đầy đủ nước ngoài mạnh mẽ nhằm tạo ra thế và lực cho phát triển công nghiệp địa bàn.
chương II
2.2.2 Công nghiệp Hà Nội giai đoạn 1996 – 2003.
* Cụm công nghiệp vừa và nhỏ.
Hiện nay, Hà Nội tập trung xây dựng cụm khu công nghiệp vừa và nhỏ để đáp ứng mặt bằng sản xuất cho các nhà đầu tư trong nước.
Tính đến nay trên địa bàn đã hình thành 14 khu – cụm CNV& N với tổng diện tích 358 ha, đã giao đất cho 69 doanh nghiệp để xây dựng nhà xưởng sản xuất với 340 tỷ đồng đầu tư nhà xưởng, thu hút từ 8.000 đến 10.000 lao động,
Biểu 2.2. Cơ cấu vốn đầu tư vào Khu – cụm CNV & N
Đơn vị tính : Tỷ đồng
TT
Tên công trình
Tổng vốn đầu tư
Vốn ngân sách
Vốn huy động
KCN vừa và nhỏ Vĩnh Tuy – Thanh Trì
31,639
8,310
23,329
KCN vừa và nhỏ Phú Thị – Gia Lâm
33,795
4,593
29,202
Cụm CN tập trung vừa và nhỏ Từ Liêm
67,860
21,198
46,662
Cụm SX TTCN và CN nhỏ quận Cầu Giấy
29,940
13,097
16,843
Cụm CN vừa và nhỏ Đông Anh
58,29
15,61
42,68
Cụm TTCN Hai Bà Trưng
31,184
12,821
18,363
Cụm CN Ngọc Hồi – Thanh Trì
195,160
72,314
122,846
Cụm CN dệt may Nguyên Khê - Đông Anh
250
45
205
Cụm CN thực phẩm Lệ Chi – Gia Lâm
120
20
100
Cụm CN Phú Minh – Từ Liêm
110
20
90
Cụm CN Phú Thị – Gia Lâm
15
1,2
13,8
Cụm CNSX vật liệu xây dựng
120
20
100
Cụm CN Từ Liêm
120
19,36
100,64
14
Cụm CN Ninh Hiệp – Gia Lâm
250
40
210
Tổng cộng
1.432,868
313,503
1.119,365
Nguồn : Phòng công nghiệp – Sở KH&ĐT Hà Nội
Như vậy, 14 khu – cụm này có tổng vốn đầu tư là 1.432,868 tỷ đồng. Trong đó vốn ngân sách là 313,503 tỷ đồng, chiếm 21,8% trong tỷ trọng tổng vốn, vốn huy động (từ dân, từ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh… ) chiếm tỷ lệ cao 78,516%. Vốn huy động gấp 3 lần vốn ngân sách, với tỷ lệ 2,57 : 1. ở tất cả các khu – cụm tỷ lệ huy động vốn ngoài ngân sách Nhà nước cấp đều cao hơn nhiều so với vốn ngân sách, chứng tỏ việc đầu tư vào các cụm – khu CNV & N hấp dẫn mọi thành phần kinh tế ngoài nhà nước.
* Khu công nghiệp tập trung :
- Cho đến nay, Hà Nội đã được Nhà nước cấp giấy phép hoạt động cho 5 KCN mới đó là: KCN Sài Đồng B, KCN Nội Bài, KCN DAEWOO – HANEL, KCN Thăng Long, KCN Hà Nội. Đầu tư các KCN này hoạt động dưới sự quản lý trực tiếp của Ban quản lý KCN – KCX Hà Nội.
Nhìn chung tình hình đầu tư vào khu công nghiệp cho đến nay đã có 4 trong 5 KCN tiếp nhận các dự án vào SXCN, đó là: KCN Sài Đồng B, KCN Nội Bài, KCN Thăng Long, KCN Hà Nội. Đầu tư với tổng số 64 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 639.7 triệu USD.
Biểu 2.3. Tình hình đầu tư cấp giấy phép vốn đăng ký dự án ĐTTTNN.
(Năm 1997 – 2003)
Đơn vị: triệu USD, %.
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Tổng
Số dự án
15
3
2
11
9
15
9
64
Vốn đăng ký
315,6
4,4
9,7
23,8
150,2
90,4
45,6
639,7
Nguồn: Ban quản lý dự án KCN và KCX
Từ bảng trên, ta thấy số giấy phép đầu tư là 64 dự án. Với tổng số vốn đăng ký 639,7 triệu USD. Đây là thành quả của quá trình thu hút FDI mà công nghiệp Hà Nội đạt được.
Đánh giá tổng quát về trình độ phát triển công nghiệp Hà Nội.
* Tỷ trọng giá trị công nghiệp trong tổng GDP.
* Nộp ngân sách nhà nước .
* Thu hút vốn
* Thu hút lao động
Tỷ trọng công nghiệp trong GDP còn khá khiêm tốn, năm 2002 tỷ trọng công nghiệp trong GDP đạt 26,71% thấp hơn của Thành Phố Hồ Chí Minh (46,6%) và mức chung của cả nước (32,66%). Tốc độ tăng tỷ trọng công nghiệp trong GDP giai đoạn 1995 – 2002 chỉ đạt khoảng 0,37% mỗi năm. Hệ số giữa nhịp độ tăng GDP công nghiệp và nhịp độ tăng trưởng GDP của toàn bộ nền kinh tế còn thấp, chỉ đạt mức khoảng trên dưới 1,31 lần (trong khi hệ số này của cả nước bằng khoảng 1,49 lần trong giai đoạn 1996 – 2002).
Năm 2002, công nghiệp đóng góp 4.422 tỷ đồng vào ngân sách thành phố, chiếm 24,76% tổng nguồn thu trên địa bàn. Với mức đóng góp như vậy công nghiệp tuy đã thể hiện được vai trò của mình nhưng vẫn còn thấp hơn so với tiềm năng.
Về đầu tư nước ngoài, mức vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chưa nhiều, chỉ chiếm khoảng 15 – 20% so với toàn bộ vốn FDI vào địa bàn thủ đô, mức thu hút này thấp hơn nhiều so với trung bình cả nước là 50,3%. Nhìn chung, các dự án đầu tư nước ngoài vào công nghiệp thủ đô đã đi đúng hướng. Khai thác các thế mạnh của Hà Nội là kỹ thuật điện, điện tử, công nghiệp sản xuất thiết bị máy móc, công nghiệp chế biến, lương thực – thực phẩm, may mặc, da giầy…
Ngành công nghiệp Thủ đô mới chỉ thu hút được hơn 220.000 lao động. Tức là khoảng 14 – 15% số lao động trong độ tuổi có khả năng lao động. Như vậy mức thu hút lực lượng lao động xã hội vào các doanh nghiệp công nghiệp còn thấp. Tuy nhiên số lao động thu hút thêm vào lĩnh vực công nghiệp có ý nghĩa quan trọng vì số này chủ yếu đang làm việc trong các doanh nghiệp có trang bị kỹ thuật và công nghệ tương đối hiện đại.
2.2.4. Thực trạng thu hút FDI vào Hà Nội.
USD.
Theo thống kê hàng năm của Sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội từ số dự án được thực hiện như sau:
Biểu 2.4. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội
giai đoạn 1989 - 2003.
Đơn vị tính: dự án, triệu USD
Năm
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Dự án
4
8
13
26
43
62
59
45
50
46
45
41
41
60
66
Vốn đăng ký
48,2
295,1
126,4
301
856,9
989,8
1.058
2.641
913
673
345
100
200
360
183,3
Nguồn: Phòng ĐTNN – Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội.
Biểu đồ 2.1: Biểu đồ về số dự án đầu tư vào Hà nội qua các năm
Nguồn: Phòng ĐTNN – Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội.
Năm 1989 Hà Nội có 4 dự án đầu tư với tính chất thăm dò là chủ yếu thì sau 14 năm triển khai đến năm 2003 trên địa bàn Hà Nội đã có 612 dự án hợp tác đầu tư với nước ngoài được cấp phép và đạt tỷ lệ tăng hàng năm là 12,15%.
Riêng năm 2003, Hà Nội thu hút được 89 dự án đầu tư nước ngoài. Trong đó có 66 dự án cấp mới và 23 dự án bổ sung tăng vốn với tổng số vốn đăng ký là 162,5 triệu USD. Trong đó: Cấp mới là 126,4 triệu USD, bổ sung tăng vốn 56,9 triệu
Ngoài việc tăng số dự án thì hình thức đầu tư nước ngoài ngày càng phong phú hơn. Thời kỳ (1989 – 1997) các nhà đầu tư nước ngoài đa phần chọn hình thức đầu tư là liên doanh (chiếm khoảng 78% so với các dự án được cấp phép đầu tư), nhưng giai đoạn (1998 – 2001) hình thức đầu tư dần được chuyển sang loại hình 100% vốn nước ngoài (chiếm 46%). Đặc biệt năm 2001 số dự án 100% vốn nước ngoài chiếm 65%. Năm 2002, có 41 dự án 100% vốn nước ngoài trên 60 dự án chiếm 68%. Năm 2003 có 45 dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài trên 66 dự án chiếm 68%. Vì vậy hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài ngày càng có xu hướng tăng lên và chiếm tỷ trọng lớn.
Biểu 2.5. Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội.
TT
Loại hình
Số dự án
Tỷ lệ (%)
1
100% vốn nước ngoài
200
32%
2
Liên doanh
337
55%
3
Hợp doanh
75
13%
4
Tổng số
612
100%
Nguồn: Phòng ĐTNN – Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội.
Biểu đồ 2.2. Biểu đồ tỷ lệ hình thức đầu tư.
Nguồn: Phòng ĐTNN – Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội
Qua phân tích những năm gần đây, tuy số dự án 100% vốn nước ngoài tăng lên nhanh chóng nhất là các năm 2001 đến 2003, nhưng nhìn chung loại hình liên doanh vẫn chiếm tỷ trọng tương đối lớn. Tính đến ngày 31/12/2003, loại hình này chiếm khoảng 55% tổng số các dự án đầu tư.
Biểu 2.6. Kết quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 14 năm qua ở Hà Nội
Số dự án cấp GPĐT
612
Tổng vốn đầu tư đăng ký
9,1 tỷ USD
Vốn đầu tư thực hiện
3,7 tỷ USD
Kim ngạch xuất khẩu
1,142 tỷ USD
Các quốc gia, lãnh thổ đầu tư
42
Thu hút lao động
25.000 người
Nộp ngân sách
984 triệu USD
Tổng doanh thu của các doanh nghiệp FDI
6,4 tỷ USD
Nguồn: Phòng ĐTNN – Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội
2.3. Thực trạng thu hút FDI vào công nghiệp Hà Nội
2.3.1. Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào công nghiệp Hà Nội.
Với mục tiêu xây dựng một nền công nghiệp hiện đại, thực hiện thành công công cuộc CNH – HĐH, công nghiệp Thủ đô là ngành kinh tế tiên phong, đi đầu trong việc tạo ra những tiền đề, thời cơ thuận lợi cho việc thu hút FDI. Cho đến nay, sau 14 năm triển khai luật đầu tư nước ngoài đã làm cho công nghiệp Hà Nội phát triển có tính vượt bậc.
Nhìn nhận một cách tổng quát: Từ khi công nghiệp Hà Nội có sự bổ sung của nguồn vốn FDI thì đã có sự phát triển vượt bậc, đó là sự ra đời của hàng loạt các Nhà máy sản xuất công nghiệp chế tạo các sản phẩm đạt tiêu chuẩn, chất lượng cao. Quy trình công nghệ sản xuất hiện đại đã tạo điều kiện đánh thức tiềm năng phát triển công nghiệp Thủ đô. Mặt khác, FDI đã làm cho cơ cấu doanh nghiệp Hà Nội ngày càng hợp lý, đó là sự ra đời lần lượt các khu công nghiệp tập trung. Từ năm 1994 đến nay 5 khu công nghiệp mới được thành lập, các khu công nghiệp này đều có cơ cấu tổ chức hợp lý, phương tiện kỹ thuật hiện đại, cơ cấu quản lý hiệu quả. Điều đó không thể phủ nhận vai trò của FDI vì thực tế các khu công nghiệp này được thành lập với số vốn FDI chiếm tỷ trọng lớn hơn 60%.
Do đó, đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào công nghiệp Hà Nội trong 14 năm qua (1989 – 2003) thì ta cần xem xét và nghiên cứu các chỉ tiêu, kinh tế đặc thù sau:
* Số lượng dự án:
Cho đến nay, trên địa bàn Hà Nội đã thu hút được khoảng 234 dự án đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp chiếm khoảng 38% tổng số các dự án đầu tư trên địa bàn. Các dự án đầu tư được tiến hành ở tất cả các ngành công nghiệp. Nhưng nhìn chung vẫn tập trung vào các lĩnh vực chủ yếu như: Sản xuất các thiết bị lắp ráp ô tô - xe máy, công nghiệp phần mềm, công nghệ thông tin, máy móc, da giầy, chế biến thực phẩm và vật liệu xây dựng. Các dự án đầu tư vào sản xuất công nghiệp đều là những dự án có vốn đầu tư tương đối lớn, thời gian hoạt động lâu dài (20 – 50 năm). Chủ yếu được đầu tư dưới 2 hình thức là dự án 100% vốn nước ngoài và các dự án liên doanh.
Biểu 2.7. Số dự án và số vốn đăng ký đầu tư vào công nghiêp Hà Nội trong 14 năm qua (1989 - 2003).
Đơn vị tính: dự án, triệu USD
Năm
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Dự án
-
5
3
6
14
12
12
15
12
14
10
7
18
51
55
Vốn đăng ký
3,2
23,6
14,5
46,7
137,1
187,2
190,4
475,4
228,3
235,6
141,5
48
110
325
165
Nguồn: Phòng ĐTNN – Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội.
Đặc biệt vốn đầu tư nước ngoài vào công nghiệp Hà Nội đã góp phần quan trọng thúc đẩy việc thành lập 5 khu công nghiệp mới tập trung. Các dự án đầu tư vào khu công nghiệp hầu hết là những dự án 100% vốn nước ngoài. Đây là điều kiện thuận lợi làm nền tảng, đầu tầu cho công nghiệp Hà Nội phát triển. Riêng trong 2 năm (2002 – 2003) số lượng các dự án đầu tư vào khu công nghiệp lần lượt là 15 dự án và 9 dự án. Các dự án này đều được đầu tư dưới hình thức 100% vốn nước ngoài.
* Hình thức đầu tư :
Hiện nay, các dự án đầu tư vào phát triển công nghiệp hầu hết được thực hiện dưới dạng 100% vốn nước ngoài và hình thức liên doanh.
Biểu 2.8. Hình thức đầu tư vào công nghiệp Hà Nội.
Loại hình
Năm
1989 - 1996
1997 - 2001
2002
2003
Liên doanh
54
45
10
10
100% vốn nước ngoài
13
16
41
45
Tổng
67
61
51
55
Nguồn: Phòng ĐTNN – Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội.
Giai đoạn 1989 – 1996 hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đạt 20% (chiếm13 dự án), hình thức đầu tư liên doanh đạt 60%(chiếm54 dự án), còn lại là các hình thức khác.
Giai đoạn 1997 – 2001 hình thức vốn đầu tư 100% vốn nước ngoài chiếm khoảng 25% chiếm16 dự án), hình thức liên doanh chiếm 55%(chiếm 45 dự án). Đặc biệt năm 2002, thu hút được 51 dự án thì có 41 dự án thực hiện dưới hình thức 100% vốn nước ngoài. Năm 2003, số dự án thu hút vào công nghiệp là 55 dự án, thì có 45 dự án được đầu tư dưới hình thức 100% vốn nước ngoài, chiếm tỷ lệ 80%. Ngoài ra còn có các hình thức khác như hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng kinh doanh theo từng lô hàng nhưng các hình thức này chiếm tỷ trọng không đáng kể.
* Tỷ trọng vốn đầu tư FDI vào công nghiệp Hà Nội:
Tỷ trọng vốn FDI vào các năm tuỳ theo thời kỳ có sự thay đổi đáng kể, nếu chia kinh tế Hà nội thành 3 nhóm ngành lớn là lĩnh vực kinh doanh bất động sản (bao gồm khách sạn, văn phòng, căn hộ...) công nghiệp bao gồm (công nghiệp nặng, công nghiệp xây dựng, công nghiệp nhẹ...) và lĩnh vực dịch vụ bao gồm (các ngành dịch vụ công nghiệp, dịch vụ văn hoá, du lịch, y tế, và các ngành dịch vụ khác). sự chuyển dịch vốn FDI thời gian qua được phân định theo các ngành như sau
Biểu 2.9 Tỷ trọng vốn FDI đầu tư vào công nghiệp và các ngành khác.
Công nghiệp : Có nhịp độ tăng trưởng qua các năm ổn định ở mức tăng trưởng trung bình là 16% (giai đoạn 1989 – 1996) và 26% (giai đoạn 1997 – 2001) nhưng tỷ trọng công nghiệp vốn đầu tư FDI tăng từ 6.5% lên đến 58%.
Dịch vụ : Trong đó có dịch vụ công nghiệp nhịp độ tăng trưởng đều, ổn định, phù hợp với chính sách HĐH trong các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là dịch vụ. Tỷ trọng dịch vụ chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư FDI từ 2% tăng lên 16%. Mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 12%.
Riêng lĩnh vực bất động sản (khách sạn, căn hộ, văn phòng) tăng trưởng nhanh trong giai đoạn 1989 – 1996, mức tăng bình quân hàng năm là 32%, chiếm tỷ trọng > 45% trong cơ cấu FDI. Tuy nhiên, do nhu cầu chuyển hoá thị trường lĩnh vực bất động sản giảm mạnh, giai đoạn 1997 – 2003 mức giảm bình quân là 22% vào lĩnh vực bất động sản chỉ chiếm tỷ trọng trong cơ cấu FDI là 12%
Năm
Tỷ lệ % trong cơ cấu
Công nghiệp
Bất động sản
Dịch vụ
Viễn thông
Nông nghiệp
Khác
1989
6.5
90
-
-
-
3.5
1990
8
31
2
5.5
0.3
3.7
1991
11.5
57
4
22
0.5
5
1992
15.5
44
6
27.5
0.5
6.5
1993
16
55
6.5
16
0.5
6
1994
18
56
7
13
0.5
5.5
1995
18
55
7
13
0.5
5.5
1996
18
58
8
10
0.5
5.5
1997
25
31
10
28
0.8
5.5
1998
35
25
11
22
1
6
1999
41
22
13
16
1.5
6.5
2000
48
18
15
11
1.5
6.5
2001
55
12
16
9
1.5
6.5
2002
90
-
-
-
-
2003
58
21
5
10
0.5
4.5
Nguồn: Phòng ĐTNN – Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội
Như vậy, qua bảng trên tỷ trọng vốn đầu tư vào công nghiệp năm 1989 là 6,5%. Nhưng những năm sau đó, tỷ trọng này đã có sự tăng lên đáng kể. Đặc biệt đạt kỷ lục vào năm 2002, nguồn vốn đầu tư vào công nghiệp chiếm 90% trong tổng số FDI đầu tư vào Hà Nội. Sự thay đổi tương quan này chứng tỏ công nghiệp Hà Nội ngày càng phát triển theo hướng phù hợp với sự phát triển chung.
Riêng năm 2002, công nghiệp Hà Nội đã thu hút được 325,8 triệu USD chiếm 90% so với tổng số vốn đầu tư. Đến năm 2003, số vốn là 165 triệu USD chiếm 58 % tổng số vốn đầu tư và thời gian gần đây nhất là quý I/2004, số vốn đầu tư vào công nghiệp Hà Nội đạt 20 triệu USD chiếm 56%.
2.3.3 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một số lĩnh vực công nghiệp chủ yếu.
Hiện nay đầu tư trực tiếp nước ngoài vào công nghiệp hà nội chủ yếu là.
- Ngành công ghiệp cơ khí hoá chất, ô tô - xe máy, và vật liệu xây dựng.
- Công nghiệp điện tử, điện lạnh, tin học, công nghệ phần mềm và công nghệ thông tin.
- Công nghiệp may mặc.
- Công nghiệp chế biến.
* Ngành công nghiệp cơ khí hoá chất, ô tô - xe máy, vật liệu xây dựng
Biểu 2.9. Ngành công nghiệp cơ khí – hoá chất - ô tô xe máy và
vật liệu xây dựng
Đơn vị tính: Dự án, triệu USD.
Ngành
Cơ khí hoá chất
Ô tô xe máy
Vật liệu xây dựng
Tổng
Dự án
19
13
24
56
Vốn (triệu USD)
68
198
70
336
Nguồn: Phòng ĐTNN – Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội
Hiện nay, Hà Nội có 56 dự án hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp này. Trong đó dự án vào lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng là 24 dự án chiếm 43%; lĩnh vực cơ khí hoá chất là 19 dự án chiếm 34%, lĩnh vực ô tô - xe máy 13 dự án chiếm 23%. Đồng thời trong lĩnh vực này, đến nay đã thu hút được lượng vốn là 337 triệu USD. Trong đó lượng vốn đầu tư vào sản xuất ô tô - xe máy là 198 triệu USD. Bình quân trên 1 dự án đạt 15,3 triệu USD. Lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng có số vốn 70 triệu USD, bình quân là 3 triệu USD/1 dự án. Vốn đầu tư vào lĩnh vực cơ khí hoá chất là 68 triệu USD bình quân trên 1 dự án là 3,6 triệu USD.
* Ngành công nghiệp điện tử, điện lạnh, tin học, công nghệ phần mềm và công nghệ thông tin.
Đây là ngành công nghiệp rất cần đến 2 yếu tố là vốn, chất xám và công nghệ. Hiện nay Hà Nội có 54 dự án đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư tính đến 31/12/2003 đạt 1.241,5 triệu USD. Trong đó, lĩnh vực bưu chính viễn thông chiếm phần lớn với gần 1.200 triệu. Phần còn lại phân bổ cho các ngành điện tử - điện lạnh, công nghệ thông tin, .
Biểu 2.10. Số vốn và số dự án đầu tư vào Ngành công nghiệp điện tử, điện lạnh, tin học, công nghệ phần mềm và công nghệ thông tin
Đơn vị tính: Dự án, triệu USD
Ngành công nghiệp
Nghiệp điện tử, điện lạnh
Tin học
Công nghệ phần mềm và công nghệ thông tin
Tổng
Dự án
8
10
36
54
Vốn (triệu USD)
22.8
18.7
1200
1241.5
Nguồn: Phòng ĐTNN – Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội
Nhóm sản xuất các thiết bị và linh kiện viễn thông tăng 19%. Nhóm sản xuất hàng điện tử - điện lạnh tăng mạnh như Công ty DAEWOO – HANEL tăng 38%; Công ty sản xuất đèn hình ORION – HANEL tăng 15%; Công ty máy tính IBM tăng 121%. Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thì sản phẩm của họ chủ yếu được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sang một số nước thuộc khu vực Đông Nam á.
2.3.4.1 Đánh giá kết quả thu hút đầu tư nước ngoài vào công nghiệp.
Cho đến nay, Hà Nội đã thu hút được 234 dự án FDI vào phát triển công nghiệp.
Thu hút vốn FDI không những có vai trò làm cho quy mô sản xuất công nghiệp lớn mạnh mà bên cạnh đó FDI góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế thủ đô bằng cách các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực như cơ khí – hoá chất, công nghệ thông tin, dệt may da giầy. Đặc biệt đã thu hút lượng lớn lao động việc làm cho các doanh nghiệp có vốn FDI.
Đi đôi với việc xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp mới tạo công ăn việc làm vốn FDI còn đào tạo cho cán bộ kỹ năng quản lý sản xuất hiệu quả. Chuyển giao công nghệ là yếu tố quan trọng. Một trong những ví dụ điển hình là hoạt động chuyển giao công nghệ tại Công trình xây dựng Ever Fortune Plaza (83B Lý Thường Kiệt- Hà Nội). Việc thi công móng của một khách sạn bằng phương pháp tiên tiến là nén tĩnh cọc móng với sức chịu đựng được tải trọng 2.500 tấn/cọc. Đây là một bước ngoặt lớn trong công nghiệp – xây dựng.
Hàng năm, giá trị sản xuất công nghiệp thuộc lĩnh vực FDI hàng năm tăng cao. (Phụ lục 1)
Hàng năm giá trị sản xuất công nghiệp thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng khá nhanh. Năm 1995 đạt 1.614.042tr, đến năm 2000 đạt 5.979.308tr.
Xét trong cơ cấu thì năm 1995, khu vực này chiếm 19,06%; đến năm 2000 chiếm 34,78%.
Ngoài ra, FDI còn có vai trò trong việc xây dựng các khu công nghiệp tập trung. Điều này tạo cho Hà Nội có vị thế mới trong chiến lược phát triển. Vì đây là những KCN có quy mô lớn, trang thiết bị, quy trình công nghệ hiện đại, phương thức tổ chức quản lý tiên tiến, cụ thể như:
- KCN Nội Bài: Tổng vốn đầu tư: 30 triệu USD. Vốn pháp định: 11,7 triệu USD. Trong đó bên Việt Nam góp 30%; bên nước ngoài góp 70%). Malaysia
- KCN Thăng Long: Tổng vốn đầu tư xây dựng công trình là 63,3 triệu USD. Vốn pháp định là 16,87 USD. Trong đó bên Việt Nam đóng góp 42%. Bên nước ngoài đóng góp 58%. Nhật Bản
- KCN Daewoo - Hanel (Sài Đồng A): Công ty xây dựng hạ tầng là Công ty liên doanh giữa Công ty điện tử Hà Nội và tập đoàn Daewoo (Hàn Quốc).
- KCN Hà Nội - Đài Tư: Xây dựng hạ tầng bằng 100% vốn của Đài Loan. Tổng vốn đầu tư cho công trình là 12 triệu USD. Vốn pháp định là 3,6 triệu USD. Đây là Công ty phát triển hạ tầng kỹ thuật 100% vốn ngước ngoài duy nhất của Việt Nam.
Kết quả này đạt được không thể phủ nhận vai trò FDI đầu tư vào công nghiệp. Đây là nguồn lực to lớn cổ vũ cho công nghiệp Thủ đô. Tuy nhiên, những năm gần đây Hà Nội vẫn không phải là địa phương đi đầu trong việc thu hút FDI và đó là một thách thức mới
2.3.4.2. Kết quả hoạt động của các doanh nghiệp công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Tính đến tháng 9/2002, giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 391 triệu USD, tăng 38,5% so với cùng kỳ năm 2001 (Đạt 282 triệu USD). Tập trung tăng cao ở một số ngành như sản xuất ô tô - xe máy tăng 48,5% (Đặc biệt sản xuất lắp ráp ô tô tăng 75%, sản xuất điện - điện tử tăng 45%, sản xuất các thiết bị và linh kiện viễn thông tăng 55%, sản xuất vật liệu xây dựng tăng 38%,…) và đã thu hút được 13 dự án đầu tư vào khu công nghiệp tăng 115% số dự án so với cùng kỳ.
Giá trị sản xuất công nghiệp của cả năm 2002 tăng khoảng 35% so với năm 2001, do nhiều doanh nghiệp mới đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh và các Công ty tăng quy mô và mở rộng diện tích, tăng công suất sản xuất như Công ty Cannon (Nhật Bản), sản xuất thiết bị in màu; Công ty United Motor (Trung Quốc) sản xuất phụ tùng xe máy; Công ty VINAX sản xuất sứ vệ sinh; Stanley sản xuất phụ tùng cho xe máy và các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô…
Trong năm 2003, giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng 38,5%. Tuy một số doanh nghiệp có sản lượng giảm từ 20 - 25%. Đặc biệt là các doanh nghiệp xuất xứ từ các khu vực xuất hiện dịch bệnh SARS nhưng thay vì các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động có sản lượng và doanh thu lớn bù đắp lại phần giá trị bị giảm sút như Công ty Canon Việt Nam; Công ty Sumitomo Bakelite Việt Nam,... Một số các Công ty có sản lượng cao như: Ô tô Hoà Bình, Vidamco, Hinno, Yamaha, Inax, Vineco, Sumi Hanel…
Vốn đầu tư thực hiện năm 2003 tăng 11% so với năm 2002, tổng doanh thu tăng 9%, kim ngạch xuất nhập khẩu cũng tăng mạnh, nhập khẩu tăng 66%, đặc biệt là giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 143% (Do Công ty Canon Việt Nam mới đi vào hoạt động và đạt kim ngạch xuất khẩu trên 200 triệu USD. Chiếm > 53% tổng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài).
2.3.5. Những đóng góp cho xã hội của các doanh nghiệp công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hà nội.
* Nộp ngân sách Nhà nước
* Thu hút lao động – tạo việc làm.
* Chuyển giao công nghệ – đào tạo nhân lực
Trong thời gian 14 năm (1989 – 2003) thực hiện luật đầu tư nước ngoài tại Hà Nội, số thuế nộp vào ngân sách Nhà nước thuộc lĩnh vực này là 984 triệu USD. Trong đó lĩnh vực công nghiệp chiếm 62%, đạt 610 triệu USD, được phân bổ qua các năm như sau:
Biểu 2.11. Tình hình nộp ngân sách của các doanh nghiệp công nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đơn vị tính: triệu USD
Năm
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Tổng số nộp (Triệu USD)
0.5
2.5
4
9
14
26
39
50
88
93
98
105
128
155
172
Công nghiệp nộp (Triệu USD)
0.31
1.55
2.48
5.58
8.68
16.12
24.18
31
54.56
57.66
60.76
65.1
79.63
96.1
106.65
Biểu đồ 2.3: Tỷ trọng nộp NSNN của các ngành có vốn đầu tư nước ngoài
Tỷ trọng nộp ngân sách
trong lĩnh vực sản xuất
kinh doanh có vốn
đầu tư nước ngoài
Nguồn: Phòng ĐTNN – Sở kế hoạch đầu tư Hà Nộ
* Thu hút lao động – tạo việc làm.
Những năm qua, trong lĩnh vực công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Hà Nội đã thu hút được 17 nghìn lao động tại các ngành kinh tế công nghiệp, đã và đang đào tạo và tiếp nhận với trình độ kỹ thuật, quản lý tiên tiến. Do vậy, khu vực này không chỉ giải quyết việc làm đối với một phần đáng kể lực lượng lao động có kỹ thuật mà còn tác động hình thành nên một đội ngũ lao động quản lý kỹ thuật có đủ năng lực, trình độ điều hành quản lý kinh doanh theo cơ chế thị trường và đáp ứng được những yêu cầu mới của sự nghiệp CNH – HĐH.
* Chuyển giao công nghệ – đào tạo nhân lực.
Những năm qua cho thấy các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đưa vào Hà Nội những công nghệ hiện đại vào loại bậc nhất. Điều này giữ một vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực công nghệ và kỹ thuật cho Hà Nội.
Hệ thống các Nhà máy, xí nghiệp sản xuất phần mềm, điều khiển học đã góp phần quan trọng tạo ra bộ mặt mới cho công nghiệp Thủ đô. Bên cạnh công nghiệp điện tử hiện đại, phải kể đến vai trò của một số nhà máy chế biến thực phẩm, đồ uống (Rượu - bia - nước giải khát),
Đi đôi với chuyển giao công nghệ là quá trình đào tạo nhân lực nhằm nâng cao trình độ khoa học và trình độ quản lý tiên tiến của các nước. Hầu hết, đây lực lượng lao động đều có hàm lượng chất xám cao, chịu áp lực công việc lớn, là điều kiện thuận lợi cho việc ngày càng nâng cao trình độ lao động, kỹ năng nghề nghiệp của Việt Nam.
2.4. Những tồn tại và nguyên nhân trong quá trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào công nghiệp Hà Nội.
2.4.1. Những tồn tại
Thực tế quá trình triển khai, thực hiện hoạt động của các dự án công nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội hiện nay cho thấy có những hạn chế sau:
* Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp chuwa cao.
* Số lượng các dự án đầu tư tương đối nhiều song khá dân trải
* Sở kế hoạch đầu tư và Ban quản lý các khu công nghiệp và khu chế xuất chưa có sự phối hợp chặt chẽ.
Theo thống kê của sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội thì hàng năm tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đi vào lĩnh vực công nghiệp thành phố chỉ chiếm từ 15 – 20% tổng vốn đầu tư.
Ngoài một số dự án có vốn đầu tư cao lên đến hàng chục triệu USD như: Orion - HaNel; Daewoo - HaNel, Canon - Việt Nam thì các dự án khác chỉ đạt từ 1 - 3 triệu USD thậm chí có những dự án chỉ 0,2 - 0,3 triệu USD.
Tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký vào lĩnh vực công nghiệp có tăng (năm 2002 là 90%; năm 2003 là 58%) nhưng tình hình thực hiện (vốn thực hiện) lại còn nhiều hạn chế, thậm chí có 1 số dự án khi đăng ký với số vốn tương đối lớn nhưng trong quá trình thực hiện đã nảy sinh những khó khăn nhất định vì vậy dự án không đi vào hoạt động được hoặc không thể triển khai như (Công ty CTLD – AUS – Bình Minh, vốn đăng ký là 52 triệu USD) nhưng không thể triển khai do không giải phóng mặt bằng được phải rút giấy phép ngày 24/2/ 2003.
2.4.1.2. Số lượng các dự án đầu tư tương đối nhiều song khá dân trải ít chú trọng vào các lĩnh vực công nghiêp chủ chốt, phần lớn được đầu tư vào các ngành tận dụng được nhiều yếu tố lao động và nguyên liệu rẻ như may mặc, chế biến.
Bên cạnh đó Hà Nội hiện nay có 5 khu công nghiệp nhưng sức hút đầu tư rất hạn chế so với một số khu công nghiệp ở địa phương khác trong cả nước. Cho đến nay trong 5 khu vực công nghiệp chỉ thu hút được khoảng 64 dự án, bình quân 1 khu công nghiệp thu hút chỉ đạt 13 dự án đây là con sốchưa nhiều so với tiềm năng.
2.4.1.3. Sở kế hoạch đầu tư và Ban quản lý các khu công nghiệp và khu chế xuất chưa có sự phối hợp chặt chẽ. Trong việc giúp đỡ các Doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn trong khâu tổ chức triển khai thực hiện. Do vậy 1 số dự án đã được cấp giấy phép đầu tư như trong quá trình thực hiện các dự án này đã chuyển hướng đầu tư sang một số địa phương khác. Tính trong quý I/2004 đã có 6 dự án chuyển sang đầu tư các địa phương khác:
1. SEASAFICO (vốn đầu tư 15 triệu USD) Hải Phòng
2. Công ty AFC (Vốn đầu tư 15 triệu USD) Hải Dương
3. Công ty Động Lực (Vốn đầu tư 3,8 triệu USD) Hưng Yên
4. Công ty Lipan (vốn đầu tư 4,2 triệu USD) Hưng Yên
5. Công ty Global (vốn đầu tư 0,85 triệu USD) Hà Tây
6. Công ty điện lạnh Xuân Thiên (vốn đầu tư 1 triệu USD) Hưng Yên
2.4.2. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thu hút đầu tư nước ngoài chưa tốt vào công nghiệp tại Hà Nội thời gian qua. Nhưng nhìn chung có 2 nguyên nhân cơ bản là nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
Nguyên nhân khách quan
* Khủng hoảng tài chính tiền tệ
* Nạn dịch SARS và dịch cúm gà cuối năm 2003
Tháng 7/1997 cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra khi phần lớn các nhà đầu tư đăng ký vào Hà Nội với số vốn lớn nhất từ trước đến nay, nhưng trước tình thế khó khăn về kinh tế tài chính của các nước khu vực và một số Công ty đa quốc gia đã làm cho tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam nói chung và vào công nghiệp Hà Nội nói riêng chững lại trong 1 thời gian dài. Các nhà đầu tư gặp khó khăn về vốn đã xin tạm hoãn thời hạn đầu tư (mặc dù dự án đã được cấp phép), ví dụ như công ty DAEWOO – HANEL.
Mặt khác ngoài khó khăn về tài chính vốn của các Công ty đa quốc gia đầu tư quốc tế, thì về chính sách các chính phủ trong thời kỳ khủng hoảng là thắt chặt các quan hệ đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp. Nhằm giữ lại phần ngoại tệ quan trọng để thực hiện chiến lược phục hồi kinh tế trong nước, vì vậy mặc dù những năm sau đó (năm 2000 – 2003) khi nền kinh tế đã dần phục hồi thì các quốc gia này lại thực hiện chiến lược đẩy mạnh sản xuất trong nước nhằm tăng cường xuất khẩu và tìm kiếm thị trường.
Một nguyên nhân khách quan không kém phần quan trọng là nạn dịch SARS xảy ra vào khoảng tháng 10/2003 và dịch cúm gà cuối năm 2003 đã làm cho sự giao lưu tìm kiếm cơ hội đầu tư bị hạn chế. Do vậy đây là nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiếp xúc, tìm hiểu đối tác giữa các bên, điều này đã hạn chế không nhỏ đến việc tìm hiểu gặp gỡ nhau giữa nhà đầu tư và tiếp nhận đầu tư. Thực tiễn cho thấy những nguyên nhân khách quan này đãn làm vốn FDI đầu tư vào Hà Nội này càng giảm kể từ năm 1997 đạt mức kỷ lục là 57% thì đến năm 2003 chỉ đạt 17% đây là điều đáng lo ngại.
Nguyên nhân chủ quan
* Sự chỉ đạo các cấp, chính quyền địa phương chưa thật sự sát sao
* Những hạn chế về mặt quản lý Nhà nước
* Chưa có chính sách đặc biệt ưu tiên khuyến khích cho các dự án đầu tư về công nghiệp.
* Sự cạnh tranh thu hút đầu tư giữ các địa phương ngày càng rõ nét. - * Chưa có chiến lược thu hút FDI vào công nghiệp và khu công nghiệp
* Giá thuê đất để thực hiện các dự án còn quá cao
- Sự chỉ đạo các cấp, chính quyền địa phương, các ngành liên quan nơi có các dự án được cấp phép và triển khai chưa thật sự sát sao. Đặc biệt là trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng, tổ chức quản lý thiếu đồng bộ. Nguyên nhân việc chậm trễ trong giải phóng mạng bằng là do chính sách đền bù của Nhà nước chưa được luật hoá, nhiều nơi nhiều lúc còn mang tính cảm tính là nhiều. Do đó một số bộ phận cán bộ, và dân cư nhiều lúc đòi mức đền bù quá cao đã ngây trở ngại không nhỏ đến tiến độ triển khai của các dự án .
- Uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội chưa có chính sách đặc biệt ưu tiên khuyến khích cho các dự án đầu tư về công nghiệp. Mặc dù đã có những chính sách ưu tiên về chế độ thuế đất, ưu đãi về giá nước....Nhưng về cơ bản các dự án đầu tư vào công nghiệp chỉ được hưởng những ưu đãi theo các qui định của luật đầu tư Nhà nước ban hành đây là điều dẫn đến việc các nhà đầu tư chưa tìm thấy sự hấp dẫn với công nghiệp Hà Nội.
- Sự cạnh tranh thu hút đầu tư giữ các địa phương ngày càng rõ nét. Đó là việc các địa phương trong nước tăng cường các giải pháp ưu đãi (ngoài luật) nhằm thu hút đầu tư nước ngoài. Ngoài những quy định ưu đãi của chính phủ thì các địa phương có các quy định ưu đãi riêng, điều này dẫn đến mặt bằng chung về đầu tư không giống nhau là nguyên nhân dẫn đến hạn chế phần nào thu hút đầu tư vào Hà Nội. Thực tế thời gian qua một số dự án ban đầu đã làm thủ tục và cấp phép đầu tư tại Hà Nội, nhưng sau đó lại chuyển địa điểm đầu tư sang một số địa phương lân cận khác như Hà Tây, Hải Dương ...
- Ngoài ra còn phải kể đến là những hạn chế về mặt quản lý Nhà nước như vấn đề thống nhất giữa các văn bản pháp lý, cơ chế phân cấp, uỷ quyền thiếu đồng bộ, chưa nhất quán, giải quyết các thủ tục hành chính phát sinh còn chậm, đã gây ra trở ngại về tâm lý thiếu tin tưởng của các nhà đầu tư đối với nhà quản lý.
- Giá thuê đất để thực hiện các dự án còn quá cao. Nhất là giá thuê đất trong các khu công nghiệp giá bình quân trong khu công nghiệp Hà nội là: 1,6 USD/m2/năm, chi phí quản lý hạ tầng 0,5 - 0,8 USD m2/năm. Đây là giá tương đối cao so với khu công nghiệp trong nước. (Ví dụ: khu công nghiệp Tân Tạo TP. Hồ Chí Minh giá thuê đất là 0,1 - 0,5 USD/m2/năm).
- Chưa có chiến lược thu hút FDI vào công nghiệp và khu công nghiệp trong khi khu công nghiệp và KCX được coi là những thực thể kinh tế có thể thu hút được nhiều dự án thì lại chưa phát huy được vai trò của mình. Do đó hiện nay diện tích bỏ trống của các khu công nghiệp còn quá lớn.
chương III
3.2. pháp tăng cường thu hút đầu tư FDI vào công nghiệp Hà Nội.
3.2.1. Nhóm giải về khung pháp lý.
3.2.1.1. Nhà nước .
a, Hoàn thiện chính sách pháp lý.
Thực hiện triển khai hoạt động đầu tư nước ngoài thời gian qua cho thấy thể chế là khâu quan trọng tạo khuôn khổ pháp lý để hình thành và triển khai các hoạt động xúc tiến, tiếp nhận và thẩm định các dự án đầu tư. Chính phủ cần ban hành một số chính sách ưu tiên thông thoáng hơn đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp, từng bước tháo gỡ khó khăn, trở ngại hạn chế hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp hoạt động trong cùng một lĩnh vực trên cùng một địa bàn (không phân biệt doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp ngoài nước). Cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán và các kênh tín dụng khác...
Việc ban hành sớm thống nhất các quy định về tiếp nhận, quản lý đầu tư có ý nghĩa to lớn trong việc tạo ra sự thống nhất đồng bộ, tránh được những tiêu cực, tình trạng cố ý gây khó khăn cho các doanh nghiệp, tạo được niềm tin cho nhà đầu tư. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, công nghiệp đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Vì vậy Chính phủ cần có những quy định riêng, phù hợp cho đầu tư trực tiếp nước ngoài khi đầu tư vào lĩnh vực này được hưởng những ưu đãi nhất định và đặc biệt là các ngành công nghiệp đầu tàu, mũi nhọn cần được quan tâm.
b, Mở rộng lĩnh vực đầu tư.
Lĩnh vực đầu tư là điều mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm hơn cả. Vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Mở rộng lĩnh vực là tạo thêm cơ hội đầu tư thúc đẩy quá trình thu hút vốn, tạo động lực cho sự phát triển. Nhìn chung hiện nay ngành công nghiệp đã thu hút được các dự án vào tất cả các lĩnh vực tuy nhiên mức độ đầu tư vào một số ngành vẫn còn hạn chế. Như ngành điện lực, ngành bưu chính viễn thông…Như vậy quá trình thu hút đầu tư nước ngoài vẫn chưa được như mong muốn và còn nhiều hạn chế. Vì vậy để tạo sức mạnh phát triển công nghiệp thời gian tới chính phủ cần có quy có những quy định "mở rộng" lĩnh vực mức độ đầu tư của một số ngành.
3.2.1.2 Với thành phố Hà Nội.
a, Tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục cấp giấy phép.
Hiện nay mặc dù Hà Nội có 2 cơ quan chủ quản về thẩm định, dự án và cấp phép đầu tư nhưng vẫn chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện nhất là việc hướng dẫn, các nhà đầu tư làm thủ tục. Trong thời gian tới cải cách hành chính nhằm tạo thuận lợi thu hút đầu tư vào công nghiệp được tập trung vào các hướng sau.
- Thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư gồm đại diện của các cơ quan liên quan có thẩm quyền để hướng dẫn và giải quyết nhanh (mang tính một đầu mối) về các thủ tục xúc tiến hình thành đự án, thẩm định cấp Giấy phép đầu tư và quản lý dự án FDI.
- Thông báo công khai và hướng dẫn cụ thể các quy định về nộp và tiếp nhận hồ sơ đối với các dự án đầu tư nước ngoài. Tiến hành việc xem xét, thẩm định dự án đầu tư chỉ tập trung vào 5 tiêu chí cơ bản, đó là: Tư cách pháp lý, năng lực tài chính của nhà đầu tư; Mức độ phù hợp của dự án với qui hoạch; Lợi ích kinh tế - xã hội; Trình độ kỹ thuật của công nghệ; Tính hợp lý của việc sử dụng đất.
- Rút ngắn thời gian xét duyệt thẩm định cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án phân cấp cho Hà Nội:
+ Đối với dự án thẩm định thuộc B: 20 ngày làm việc (quy định là 30 ngày).
+ Đối với dự án nhóm khuyến khích đầu tư: 15 ngày làm việc (quy định là 20 ngày).
+ Đối với dự án nhóm đặc biệt khuyến khích đầu tư: 10 ngày làm việc (quy định là 15 ngày) có nhiều dự án đã cấp Giấy phép đầu tư trong vòng 2 ngày.
b, Giải pháp quản lý, giúp đỡ các nhà đầu tư.
Quản lý, giúp đỡ các dự án đã được cấp phép đầu trên địa bàn là yêu cầu quan trọng cần được quan tâm. Hầu hết các dự án sau khi được cấp phép đầu tư thì tự thực hiện triển khai và hoàn thành các thủ tục hành chính khác như thuê đất; giải phóng mặt bằng tổ chức bộ máy... là quá trình ban đầu còn khó khăn bỡ ngỡ của các nhà đầu tư. Ngoài ra đối với các dự án đã đi vào hoạt động thì lĩnh vực ngành nghề đăng ký kinh doanh và thực tiễn thực hiện còn có những khoảng cách nhất định vì vậy để hệ thống các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động và hoạt động đúng với ngành nghề chức năng của mình một cách thuận lợi thì không thể không có vai trò quản lý và giúp đỡ nhất định từ phía các cơ quan ban ngành hữu quan.
3.2. 2. Nhóm giải pháp tài chính và dịch vụ.
3.2.2.1 Chính sách và ưu đãi tài chính, tín dụng.
- Việc Bộ tài chính và Hải quan khẩn trương hoàn thiện và đơn giản hóa hệ thống thuế, thủ tục hành chính, trong nghiệp vụ thuế và hải quan bảo đảm tính ổn định, có thể dự báo trước được của hệ thống thuế (nhất là hệ thống báo hộ) cung cấp thông tin cập nhật hệ thống chính xác và thuận tiện cho các doanh nghiệp biết.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu của các biện pháp ưu đãi tài chính như tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển lợi nhuận về nước và cho góp vốn được dễ dàng. Đặc biệt là nên hạn chế những quy định bắt buộc các nhà đầu tư nước ngoài phải góp vốn bằng tiền mặt khi họ đang gặp khó khăn về vốn.
- Cho các dự án đã được cấp giấy phép đầu tư được hưởng những ưu đãi của các qui định mới về thuế lợi tức, giá thuê đất mới; xem xét để giảm thuế thu nhập đối với những doanh nghiệp thực sự lỗ vốn.
- Xoá bỏ ấn định tỷ lệ nguồn vốn trong các dự án và lĩnh vực cần phát triển mà trong nước không đủ, không có khả năng hoặc không muốn đầu tư.
- Cho phép các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cổ phần hoá để tăng vốn kinh doanh. Đồng thời kiến nghị Bộ tài chính ban hành quy chế quản lý tài chính của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ban hành chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư.
- Phát triển thị trường vốn trên địa bàn Hà Nội cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp cận rộng rãi thị trường vốn (được phát hành cổ phiếu và kinh doanh chứng khoán như các nhà đầu tư trong nước), được vay tín dụng (kể cả trung và dài hạn) tại các tổ chức tín dụng thực tế hiện nay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện nay rất khó khăn tiếp cận nguồn vốn tín dụng tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam.
3.2.2.2. Chính sách giá dịch vụ.
Hiện nay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang "gồng mình" chịu giá về các dịch vụ phục vụ sản xuất tại Hà Nội. Như giá điện, thắp sáng, điện sản xuất, điện thoại, nước.... đều có mặt bằng giá cao hơn so với các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong cùng lĩnh vực (mặc dù họ vẫn thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ nộp thuế). Do vậy để nâng cao khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào công nghiệp Hà Nội thì thành phố cần có sự phối hợp giữa các cơ sở ngành như Sở kế hoạch sở vật giá, Sở công nghiệp từng bước xem xét các chi phí trung gian này nhằm hạ thấp chi phí và nâng cao sự hấp dẫn trong môi trường thu hút đầu tư của thành phố.
- Bên cạnh những dịch vụ hỗ trợ trực tiếp sản xuất kinh doanh thành phố Hà Nội cần quan tâm đúng mức hơn nữa một số lĩnh vực đầu tư thuộc ngành công nghiệp. Cần có những ưu đãi riêng mang tính chiến lược để thu hút vốn và công nghệ.
- Việc thu hút được nhiều các dự án đầu tư sản xuất công nghiệp sẽ từng bước cải thiện được tình hình sản xuất công nghiệp nâng cao năng lực sản xuất của ngành từ đó góp phần vào sự phát triển của thành phố.
- Thành phố cần chủ động có các chính sách hỗ trợ cho các hoạt động xuất khẩu của nhóm sản phẩm công nghiệp, cùng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiến hành xúc tiến thương mại, tổ chức các diễn đàn với doanh nghiệp và nhà quản lý trong quá trình hoạt động để từng bước tháo gỡ khó khăn, cho các doanh nghiệp.
3.2.2.3. Giải pháp về đất đai giải phóng mặt bằng phục vụ nhà đầu tư.
Việc giải phóng mặt bằng đối với các nhà đầu tư nước ngoài hiện đang là một trở ngại vì một bộ phận các khu vực dân cư chưa thực sự muốn chuyển nơi ở. Mặt khác đòi giá đền bù cao, trong khi đó các cơ quan chính quyền đóng ở địa bàn giải quyết còn nhiều hạn chế. Mặc dù Hà Nội đã quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp nhưng việc thuê mặt bằng đối với các nhà đầu tư vẫn chưa dễ dàng. Vì vậy thời gian tới đề nghị thành phố cần có giải pháp khắc phục.
* Chính sách tài chính đối với đất đai và giải phóng mặt bằng phục vụ đầu tư nước ngoài.
Thành phố cần chủ động đề nghị lên Chính phủ sớm chấm dứt cơ chế do các nhà doanh nghiệp Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; chuyển sang thực hiện chế độ cho thuê đất dài hạn (khoảng 50 - 70 năm), thu tiền một lần khi ký hợp đồng thuê đất để bổ sung Quỹ phát triển cơ sở hạ tầng của Thủ đô (ngoài ra vẫn thu tiền thuê đất hàng năm) và các nhà đầu tư có toàn quyền quyết định đoạt, sử dụng, cho thuê, thế chấp… trong thời hạn thuê đất. Đồng thời, cần bãi bỏ quy định buộc các nhà đầu tư nước ngoài phải có địa điểm mặt bằng đầu tư cụ thể mới phê duyệt dự án, vì điều này làm tốn kém thêm cho họ trong chi phí lập dự án đầu tư, trong khi họ không biết dự án có được thông qua hay không.
Thống nhất về các quyền đối với đất và các chi phí về đất trong sản xuất kinh doanh, nhất là tiền cho thuê đất đối với các doanh nghiệp, không phân biệt doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đảm bảo mức tiền thuê đất của Hà Nội không cao hơn các nước trong khu vực.
- Điều chỉnh, sắp xếp lại danh mục các địa bàn khi xác định tiền cho thuê đất phù hợp với thực tế khả năng thu hút đầu tư từ nước ngoài.
- Đối với các khu chế xuất, khu công nghiệp, nên có cơ chế riêng về cho thuê đất, theo nguyên tắc giảm tới mức tối đa tiền cho thuê, trong một số trường hợp đặc biệt, thì có thể không thu tiền thuê đất trong một thời hạn nhất định. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các khu công nghiệp tập trung và các cụm công nghiệp của Thành phố bằng các hình thức, cơ chế về thuế, thời gian miễm giảm, giảm thuế …ưu đãi như các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư (hiện tại các dự án trong khu công nghiệp đang hưởng mức thuế của các doanh nghiệp thuộc diện khuyến khích đầu tư ).
Đề ra các chính sách đặc biệt ưu đãi đầu tư (như miễn, giảm tiền thuê đất, hỗ trợ vốn để đền bù, giải phóng mặt bằng, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp dưới 10%) trong các lĩnh vực Thành phố đang cần phát triển đòi hỏi vốn lớn và công nghệ cao như: công nghiệp điện tử - thông tin, công nghệ sinh học, xây dựng và phát triển các lĩnh vực then chốt….
áp dụng thống nhất một chính sách đền bù khi nhà nước thu hồi đất (không phân biệt dùng cho an ninh quốc phòng hay đầu tư nước ngoài).
Giá đất tính đền bù phải sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường tại thời điểm hiện hành.
Đơn giản hoá các thủ tục giao đất, cho thuê đất. Tổ chức được giao đất, thu đất có trách nhiệm chi trả tiền đền bù cho người có đất bị thu, nhưng phía Việt Nam phải chịu trách nhiệm giải toả măt bằng và chỉ giao đất cho chủ dự án FDI khi đã giải phóng xong mặt bằng.
Đối với một số dự án tồn đọng lâu, khó có khả năng triển khai có thể áp dụng các biện pháp như chuyển nhượng cho các nhà đầu tư nước ngoài khác, hoặc chuyển cho các công ty Việt Nam có khả năng tài chính để triển khai xây dựng dự án nhanh hơn, hoặc cho phép dự án được chuyển đổi mục tiêu phù hợp với điều kiện kinh doanh thực tế, hoặc cho chuyển đổi hình thức đầu tư.
Đề nghị Nhà nước cho phép chuyển giao quyền sử dụng đất từ nhà đầ tư hạ tầng đến các nhà đầu tư vào công nghiệp trong thời hạn quy định tại giấy phép đầu tư. Khẩn trương công bố và cắm mốc thực địa công khai các quy hoạch đất đai toàn Thành phố và phát triển mạnh mẽ thị trường bất động sản ở Hà Nội để kích thích đầu tư xây dựng từ mọi nguồn vốn trong và ngoài nước (trong đó có FDI).
3.3. Một số giải pháp khác
* Giải pháp về phát triển nội lực.
Kinh nghiệm các nước đi trước trong việc thu hút đầu tư nước ngoài chỉ ra rằng ngoài nước ưu đãi mang tính trực tiếp như thế; thủ tục.. còn một yếu tố không kém phần quan trọng đó là nội lực bản thân nền kinh tế, hệ thống các sơ sở sản xuất đảm bảo cho việc thêm một dự án nước ngoài đầu tư sẽ trở thành những mắt xích cho quá trình phát triển.
Thực tế hệ thống các doanh nghiệp trong nước đóng vai trò to lớn đối với việc tạo điều kiện thu hút đầu tư. Bởi vì không một dự án đầu tư nào có thể thực hiện được tất cả các công việc cần thiết cho phục vụ sản xuất như: vận chuyển máy móc từ cảng về nhà máy, vận chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá đi tiêu thụ… tất cả những công việc trung gian này đều là nhờ vào các doanh nghiệp đã có sẵn trên địa bàn cung ứng. Mặt khác quá trình chuyên môn hoá và phân công lao động ngày càng diễn ra mạnh mẽ thì một sản phẩm cuối cùng đưa ra tiêu thụ không phải chỉ có một cơ sở sản xuất thực hiện mà là sự kết hợp của các cơ sở sản xuất các chi tiết bộ phận từ đó mới đi đến lắp ráp và cho ra một sản phẩm hoàn thành.
Một hệ thống doanh nghiệp trong nước phát triển, đủ sức hấp dẫn thu hút công nghệ chuyển giao, là đối tác ngày càng hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài, là điều kiện cần thiết để công nghiệp Hà Nội tiếp nhận đầu tư, thu hút được nhiều hơn và hiệu quả hơn luồng vốn nước ngoài. Hệ thống các doanh nghiệp đó phải bao gồm cả những doanh nghiệp sản xuất lẫn dịch vụ ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề và thành thạo các nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, đủ sức giữ được thị phần thích đáng tại thị trường trong nước và ngày càng có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Mạng lưới các doanh nghiệp dịch vụ về tài chính - ngân hàng có vai trò quan trọng trong hệ thống đó, nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc huy động và lưu chuyển vốn trong nước và quốc tế.
Như vậy tính hỗ trợ nhau trong sản xuất của các cơ sở sản xuất công nghiệp là rất to lớn và quan trọng. Vì vậy trong chiến lược thu hút đầu tư vào công nghiệp Hà Nội thì việc phát triển mạnh mẽ hệ thống các cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn nhằm tạo đà cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư cũng là một yêu cầu bức thiết.
* Đổi mới công tác vận động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng cách
- Chuyển phương thức vận động đầu tư nước ngoài từ bị động (đợi các chủ đầu tư đến) sang chủ động hướng các nhà đầu tư nước ngoài tập trung đầu tư theo định hướng phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội tạo nên một nền kinh tế phát triển bền vững.
- Nâng cao chất lượng các tài liệu vận động đầu tư, sử dụng trang web đầu tư nước ngoài trên mạng Internet để giới thiệu danh mục các dự án kêu gọi đầu tư và chính sách ưu đãi đầu tư của Hà Nội (địa chỉ trang website về đầu tư nước ngoài của Hà Nội:
- In ấn, phát hành sách báo, tạp chí, đĩa CD, băng hình, tranh ảnh, giới thiệu, tuyên truyền tiềm năng phát triển công nghiệp của Hà Nội.
- Thành phố chủ động hoặc phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các cơ quan Trung ương, các tổ chức quốc tế để tổ chức diễn đàn (Forum) kêu gọi xúc tiến đầu tư nước ngoài ở trong nước hoặc tại các nước hoặc khu vực có tiềm năng tài chính và công nghệ.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các tập đoàn, các công ty, các tổ chức tài chính quốc tế mở văn phòng đại diện ở Hà Nội.
* Tạo cơ chế ưu đãi đầu tư.
Hà Nội đang xây dựng cơ chế ưu đãi đầu tư:
- Đối với dự án thẩm định nhóm B miễn tiền thuê đất 02 năm đầu (không tính thời gian xây dựng cơ bản), giảm 50% trong 02 năm tiếp theo.
- Đối với dự án khuyến khích đầu tư và đặc biệt khuyến khích đầu tư có quy mô vốn lớn (từ 50 triệu USD trở lên) và sử dụng nhiều diện tích đất (từ 5ha trở lên) miền tiền thuê đất 07 năm đầu (không tính thời gian xây dựng cơ bản) và giảm 50% trong 03 năm tiếp theo.
- Miễn tiền thuê đất trong thời gian dài đối với dự án khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực Hà Nội đang cần để tạo nên những bước đột phá làm động lực cho phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô.
- Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài ứng tiền đền bù, giải phóng mặt bằng để xây dựng công trình dự án, thành phố cho phép trừ số tiền chi phí ứng trước đó vào tiền thuê đất, tương ứng giữa tổng số tiền chi phí với thời gian thuê đất (trên cơ sở giá thuê đất cơ bản).
- Hệ thống hạ tầng ngoài hàng rào được chính quyền Hà Nội hỗ trợ đầu tư.
- Hỗ trợ đào tạo công nhân, cán bộ ở các ngành nghề trình độ cao, công nghệ hiện đại.
* Thu hút các dự án vào khu công nghiệp.
- Các dự án đầu tư vào khu công nghiệp được hưởng chế độ ưu đãi như nhóm các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư.
- Phương thức thanh toán được phân kỳ rộng hơn, tổng số tiền thuê mặt bằng chủ dự án có thể trả tiền thành 3 hoặc 4 lần trong 50 năm thay vì trước đây phải thanh toán 01 lần cho 50 năm.
- Giá kinh doanh cho thuê mặt bằng của các khu công nghiệp cần phải có sự chỉ đạo thống nhất của cơ quan quản lý nhằm giảm thiểu sự tuỳ tiện về cơ cấu định giá kinh doanh của khu công nghiệp thành phần. Tuy nhiên sự chỉ đạo thống nhất giá trước hết phải đứng trên lợi ích của từng doanh nghiệp sau đó mới đến sự điều tiết, quản lý của Nhà nước (hiện tại cơ cấu giá thành kinh doanh của 5 khu công nghiệp là khác nhau, trong đó giá thuê đất đã được nhà nước giảm xuống ở mức thấp nhất, giá cho thuê hạ tầng và giá quản lý còn chênh lệch nhau nhiều giữa các khu công nghiệp với nhau gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn phương án đầu tư vào khu công nghiệp).
* Công tác phát triển và cung ứng nguồn nhân lực.
Tổ chức đào tạo, đào tạo lại và đổi mới công tác bố trí nguồn nhân lực tham gia vào doanh nghiệp công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đội ngũ cán bộ Việt Nam phải có bằng cấp, trình độ quản lý doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, thông thạo ngoại ngữ để điều hành công việc, tránh tình trạng kiêm nhiệm nhiều chức vụ, phân tán, không tập trung trách nhiệm được phân công trong công ty liên doanh.
* Động viên khen thưởng cho các doanh nghiệp công nghiệp
Đề cao vai trò của các tổ chức Việt Nam và quốc tế, các công ty, các cá nhân có công trong việc tư vấn, xúc tiến vận động các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Hà Nội. Có chính sách khen thưởng, động viên kịp thời đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong công tác vận động thu hút vốn FDI, các doanh nghiệp có vốn FDI hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, có tỷ lệ xuất khẩu vượt kế hoạch trong giấy phép đầu tư. Với hình thức khen thưởng như: bằng khen, danh hiệu công dân danh dự của Thủ đô Hà Nội, hiện vật, tiền…
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0024.doc