Vai trò của Nhà nước chủ nghĩa xã hội Việt Nam với nền kinh tế thị trường

Vai trò của Nhà nước CHXHCN VN với nền KTTTI. Lí luận về Nhà nước và vai trò của Nhà nước với nền kinh tế theo lí luận triết học Mac - Lênin 1. Lí luận về bản chất và chức năng của Nhà nước a. Bản chất của Nhà nước Nhà nước là một phạm trù lịch sử. Nhà nước không đồng nghĩa với xã hội. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển lịch sử và nhà nước sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa. Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước.Trong xã hội nguyên thủy, do kinh tế còn thấp kém chưa có sự phân chia giai cấp cho nên chưa có nhà nước.Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là các tộc trưởng do nhân dân bầu ra, quyền lực của những người đứng đầu thuộc về uy tín và đạo đức, việc điều chỉnh quan hệ xã hội được thực hiện bằng những quy tắc chung. Trong tay họ không có và không cần một công cụ cưỡng bức đặc biệt nào. Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu, xã hội phân chia thành những giai cấp đối kháng. Quan hệ người áp bức bóc lột người thay thế quan hệ bình đẳng, hợp tác tương trợ. Mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột ngày càng sâu sắc, cuộc đáu trnh giữa các giai cấp đó không ngừng diễn ra và ngày càng quyết liệt không thể điều hòa được. Đển bảo vệ lợi ích giai cấp ích kỉ của mình, đàn áp sự ohanr kháng của giai cấp nô lệ, bắt họ phải phục tùng tuân theo những trật tự do mình đặt ra, giai cấp chủ nô đã lập ra bộ máy bạo lực,trấn áp.Bộ máy đó là nhà nước. Vậy nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ.Nhà nước này xuất hiện trong cuộc đấu tranh không điều hòa giữa giai cấp chủ nô và nô lệ.Tiếp đến là nhà nước phong kiến.Nhà nước tư bản cũng xuất hiện từ mâu thuẫn đối kháng vốn có của mọi xã hội ấy. ở đâu có mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa thì ở đó nhà nước xuất hiện.Lênin nhận định: nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào, chừng nào mà về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện.Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được. Như vậy, nhà nước không phải là cái bẩm sinh sẵn có, không phải là cái được sinh ra từ bên ngoài xã hội áp đặt vào xã hội, cũng không phải do ý muốn chủ quan của một cá nhân hay một giai cấp nào, sự ra đời và tồn tại của nó là một tất yếu khách quan “từ nhu cầu phải kiềm chế sự đối lạp giữa các giai cấp”, làm cho cuộc đấu tranh giữa “những giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó, không thể đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn xã hội . và giữ cho sự xung đột đó nằm trong “vòng trật tự”. Trật tự đó hoàn toàn cần thiết để duy trì chế độ kinh tế trong đó giai cấp này bóc lột giai cấp khác.Đương nhiên, giai cấp lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước là giai cấp có thế lực nhất, giai cấp nắm trong tay sức mạnh kinh tế, là người chủ tư liệu sản xuất (suy cho cùng thì địa vị ấy củng do lịch sử quy định).

doc14 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1820 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của Nhà nước chủ nghĩa xã hội Việt Nam với nền kinh tế thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Lí luận về Nhà nước và vai trò của Nhà nước với nền kinh tế theo lí luận triết học Mac - Lênin Lí luận về bản chất và chức năng của Nhà nước a. Bản chất của Nhà nước Nhà nước là một phạm trù lịch sử. Nhà nước không đồng nghĩa với xã hội. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển lịch sử và nhà nước sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa. Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước.Trong xã hội nguyên thủy, do kinh tế còn thấp kém chưa có sự phân chia giai cấp cho nên chưa có nhà nước.Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là các tộc trưởng do nhân dân bầu ra, quyền lực của những người đứng đầu thuộc về uy tín và đạo đức, việc điều chỉnh quan hệ xã hội được thực hiện bằng những quy tắc chung. Trong tay họ không có và không cần một công cụ cưỡng bức đặc biệt nào. Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu, xã hội phân chia thành những giai cấp đối kháng. Quan hệ người áp bức bóc lột người thay thế quan hệ bình đẳng, hợp tác tương trợ. Mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột ngày càng sâu sắc, cuộc đáu trnh giữa các giai cấp đó không ngừng diễn ra và ngày càng quyết liệt không thể điều hòa được. Đển bảo vệ lợi ích giai cấp ích kỉ của mình, đàn áp sự ohanr kháng của giai cấp nô lệ, bắt họ phải phục tùng tuân theo những trật tự do mình đặt ra, giai cấp chủ nô đã lập ra bộ máy bạo lực,trấn áp.Bộ máy đó là nhà nước. Vậy nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ.Nhà nước này xuất hiện trong cuộc đấu tranh không điều hòa giữa giai cấp chủ nô và nô lệ.Tiếp đến là nhà nước phong kiến.Nhà nước tư bản cũng xuất hiện từ mâu thuẫn đối kháng vốn có của mọi xã hội ấy. ở đâu có mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa thì ở đó nhà nước xuất hiện.Lênin nhận định: ‘nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào, chừng nào mà về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện.Và ngược lại: ‘sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được’. Như vậy, nhà nước không phải là cái bẩm sinh sẵn có, không phải là cái được sinh ra từ bên ngoài xã hội áp đặt vào xã hội, cũng không phải do ý muốn chủ quan của một cá nhân hay một giai cấp nào, sự ra đời và tồn tại của nó là một tất yếu khách quan “từ nhu cầu phải kiềm chế sự đối lạp giữa các giai cấp”, làm cho cuộc đấu tranh giữa “những giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó, không thể đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn xã hội... và giữ cho sự xung đột đó nằm trong “vòng trật tự”. Trật tự đó hoàn toàn cần thiết để duy trì chế độ kinh tế trong đó giai cấp này bóc lột giai cấp khác.Đương nhiên, giai cấp lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước là giai cấp có thế lực nhất, giai cấp nắm trong tay sức mạnh kinh tế, là người chủ tư liệu sản xuất (suy cho cùng thì địa vị ấy củng do lịch sử quy định). Ăng_ghen chỉ rõ “chẳng qua chỉ là một bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với một giai cấp khác, điều đó, trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ vậy”. Với tư cách “là một bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với một giai cấp khác”, nhà nước của giai cấp bóc lột không phải là kẻ “công bằng’ bảo vệ lợi ích cho các giai cấp, cho cả giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Nhà nước chính là kiểu tổ chức xã hội có giai cấp, nó là một bộ máy, một hệ thống tổ chức chặt chẽ tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội do giai cấp thống trị thiết lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần chúng lao động. Đó là bản chất của nhà nước theo nguyên nghĩa _Nhà nước của giai cấp bóc lột. Theo đó, nhà nước là một bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp. Tất cả những hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội do nhà nước tiến hành xét cho đến cùng đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, cho dù được che giấu dưới hình thức tinh vi như thế nào, cho dù có bị khúc xạ qua những lăng kính phức tạp ra sao, nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Ăng-ghen viết: “nhà nước nói chung chỉ là sự phản ánh, dưới hình thức tập trung của những nhu cầu kinh tế của giai cấp thống trị trong sản xuất”. Tuy nhiên cũng có trường hợp, nhà nước giư một mức độ độc lập nào đó đối với cả hai giai cấp đối địch, khi cuộc đấu tranh giữa chúng đạt tới thế cân bằng nhất định; hoặc nhà nước cũng có thể thực hiện sự thỏa hiệp về quyền lợi tạm thời giữa những giai cấp để chống lại một giai cấp khác. nhà nước trường hợp trên là có tính chất ngoại lệ và tạm thời. Sự phát triển của nền kinh tế xã hội nói chung và của cuộc đấu tranh giai cấp nói riêng sẽ phá vỡ thế cân bằng giữa các giai cấp thù địch với nhau, sẽ phá vỡ sự thỏa hiệp tạm thời giữa các giai cấp với nhau và tất yếu sẽ tập trung quyền lực vào tay một giai cấp nhất định. Bản chất của nhà nước thể hiện ở đặc trưng của nó. Bất kì nhà nước nào cũng có ba đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, nhà nước quản lí dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định. Khác với tính chất thị tộc, bộ lạc thời nguyên thủy được hình thành dựa trên cơ sỏ quan hệ huyết thống, nhà nước được hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ mà họ cư trú. Quyền lực nhà nước có hiệu lực đổi với mọi thành viên trong lãnh thổ không phân biệt huyết thống. Đặc trưng này làm xuất hiện mối quan hệ giữa từng người trong cộng đồng với nhà nước. Mỗi nhà nước được xác định bằng một biên giới quốc gia nhất định. Thứ hai, nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội. Khác với các cơ quan điều hành công việc chung trong thị tộc, bộ lạc, nhà nước của giai cấp thống trị nào cũng có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp. Bộ máy quyền lực đó bao gồm các đội vũ trang đặc biệt (quân đội, cảnh sát, nhà tù...) và bộ máy quản lý hành chình. Nhà nước thực hiện quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật và dùng các thiết chế bạo lực để pháp luật của mình được thực thi trong thực tế. Thứ ba, nhà nước hình thành hệ thống thuế khóa để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị. Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuấ khóa, quốc trái và các hình thức bóc lột khác. Đó là những chế độ đóng góp cưỡng bức để nuôi sống bộ máy cai trị. Hệ thống thuế khóa, cống nạp như vậy hoàn toàn không có trong hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc. Nó chỉ tồn tại gắn liền với hình thái tổ chức nhà nước. Bằng các hình thức khác nhau như vậy, nhà nước của giai cấp bóc lột không những là công cụ trấn áp giai cấp mà còn là công cụ thực hiện sự bóc lột các giai cấp bị áp bức. b. Chức năng cơ bản của Nhà nước Bản chất giai cấp của nhà nước còn được thể hiện ở chức năng của nó. Tùy theo góc độ khác nhau, chức năng của nhà nước được phân chia khác nhau. Dưới góc độ tính chất của quyền lực chính trị, nhà nước có chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội. Dưới góc độ phạm vi tác động của quyền lực, nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Trước hết là chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội. Chức năng thống trị chính trị của giai cấp - chức năng giai cấp - là chức năng nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Chức năng giai cấp của nhà nước bắt nguồn từ lý do ra đời của nhà nước và tạo thành bản chất chủ yếu của nó. Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước. Trong hai chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất, chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị chính trị. Giai cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn chức năng xã hội trong khuôn khổ lợi ích của mình. Song, chức năng giai cấp chỉ có thể được thực hiện thông qua chức năng xã hội. Ph.ăngghen viết “ ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn chực hiện chức năng xã hội đó của nó” Tiếp theo là chức năng đối nội và chức năng đối ngoại của nhà nước. Chức năng đối nội của nhà nước nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp thống trị. Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lợi ích quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị. Ngày nay, trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, việc mở rộng chức năng đối ngoại của nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt. Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất. Tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất chức năng đối ngoại của nhà nước; ngược lại tính chất và những nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội. 2. Vai trò kinh tế của Nhà nước Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế, song ở mỗi chế độ xã hội nhất định vai trò kinh tế của nhà nước có biểu hiện thích hợp với chế độ đó. Các nhà nước trước chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, vai trò kinh tế chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và luật pháp là chủ yếu, ở đây nhà nước chưa ở bên trong quá trình sản xuất mà ở bên ngoài, bên trên theo cách nói của ănghen. Đến chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, với sự xuất hiện khu vức sở hữu nhà nước, làm cho nhà nước tư bản bắt đầu có vai trò kinh tế mới. Nhà nước tư sản ngoài việc can thiệp (điều tiết) nền sản xuất xã hội thông qua thuế và luật pháp, còn vai trò tổ chức quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực quản lý nhà nước. Chỉ đến nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì dân, mới xuất hiện vai trò kinh tế đặc biệt và mới mẻ trong lịch sử phát triển nhà nước xét theo khía cạnh kinh tế. Nói một cách chính xác hơn vai trò kinh tế này đã có mầm mống từ chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, đến nhà nước xã hội chủ nghĩa nó được hoàn thiện hơn, điểm mới được quyết định ở đây là sự khác nhau của tính chất nhà nước. Vai trò kinh tế đó là, tổ chức và quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở tầm vĩ mô, trong đó, quản lý kinh tế vĩ mô nhà nước là chủ yếu. Sở dĩ nhà nước có vai trò kinh tế nói trên là vì: nhà nước với tư cách là người đại diện cho nhân dân, cho tonaf xã hội, có nhiệm vụ quản lý đất nước về mặt hành chính - kinh tế. Nhà nước là người đại diện cho sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, có nhiệm vụ quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế quốc doanh. Trong nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường, bên cạnh mặt tích cực chủ yếu của nó không tránh khỏi những khuyết tật vốn có (thất nghiệp phá sản, khủng hoảng, lạm phát...), vai trò quản lý của nhà nước sẽ góp phần vào việc khắc phục những khuyết tật, phá hủy mặt tích cực của nền kinh tế hàng hóa là một tất yếu khách quan. Nhà nước thực hiện vai trò kinh tế nói trên thông qua hai loại chức năng kinh tế sau: Chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế, để thực hiện chức năng này nhà nước thông qua các công cụ ngân sách, tín dụng ngân hàng, dự trữ quốc gia, khu vực kinh tế quốc doanh; luật pháp kinh tế; các chính sách kinh tế, đòn bẩy kích thích; kế hoạch với tư cách là công cụ đảm bảo nền kinh tế phát triển theo định hướng mục tiêu cân đối vĩ mô... Thông qua đó, nhà nước tác động vào tổng cung và tổng cầu vủa nền kinh tế, tạo môi trường kinh tế (sức mua đồng tiền và giá cả) ổn định hành lang cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế trong từng xí nghiệp và trên phạm vi toàn xã hội trong từng thời kỳ. Chức năng quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực quốc doanh, với tư cách là người sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại biểu, nhà nước có đủ tư cách quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế quốc doanh. Song nhà nước chỉ là người sở hữu đại diện chứ không phải là người sở hữu thực sự (chiếm hữu và sử dụng các điều kiện của sản xuất trong quá trình sản xuất làm cho sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế). Người chử sở hữu thực phải là giảm đốc các xí nghiệp. Sự phân biệt như vậy có tác dụng làm cho trong các xí nghiệp quốc doanh mọi tài sản đều có chủ và góp phần phát huy quyền tự chủ về các mặt của xí nghiệp trên cơ sở xác định đúng chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở. Nhà nước ta ra đời từ cách mạng Tháng Tám năm 1945, ngay từ những ngày đầu, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thể hiện bản chất của một nhà nước gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Bản chất của nhà nước được xác định trong Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001): “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức” (Điều 2). Cũng như các nhà nước khác, nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hai chức năng cơ bản: chức năng đội nội và chức năng đối ngoại. Trong đó chức năng kinh tế là chức năng cơ bản, quan trọng nhất của nhà nước ta. Trong điều kiện nền kinh tế của nước ta hiện nay, chức năng kinh tế của nhà nước ta có những nội dung chủ yếu sau: Một là, phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hai là, thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trông đó hợp tác xã là nòng cốt; tạo môi trường kinh doanh cho kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân phát triển; phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước; tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi. Ba là, thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thịên các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hình thành đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bốn là, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước đối với Trong quá trình xây dựng xã hội ở nước ta, Đảng và nhà nước ta xác định: nền kinh tế. “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chể độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiển trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới”1 Trong xu hướng hiện nay, nền kinh tế vận động phát triển mạnh mẽ như vậy, nhà nước ta định hướng phát triển nền kinh tế thị trường như thế nào? Đối với nền kinh tế nhà nước có vai trò quan trọng trong việc quản lý, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng ra sao? II. Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và vai trò của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nền kinh tế thị trường Nền kinh tế thị trường Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường ở đó, sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai được quyết định thông qua thi trường. Trong nền kinh tế thị trường các quan hệ của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Nền kinh tế thị trường được bắt nguồn từ nước Anh thế kỷ XVIII và sau đó lan sang Tây Bắc châu Âu và Bắc Mỹ. Ngày nay, tất cả các nước đều phải xây dựng và phát triển kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường được sử dụng với mục đích khác nhau. Trong các nước tư bản, đó là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. ở nước ta, “Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận đông theo cỏ chế thị trường có dự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa “2 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, kết quả của quả trình phân công lao động xã hội, đa dạng hóa các hình thức sở hữu đồng thời nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, một mặt vừa có những tính chất chung của nền kinh tế thị trường: Một là, các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Hai là, giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và nó có tác dụng làm cở sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Ba là, nền kinh tế vận động theo những quy luaat vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh... Sự tác động của các quy luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. Bốn là, nếu là nền kinh tế thị trường hiện đại thì còn có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hóa, các chính sách kinh tế. Mặt khác kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dực trên cơ sở và đước dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng bản chất dưới đây: Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất lỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân. Nền kinh tế thị trường nước ta gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thức hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở, hội nhập. Vai trò của Nhà nước Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước sử dụng hàng loạt các công cụ, chính sách kinh tế, pháp chế kinh tế, nhằm can thiệp, điều tiết các quá trình kinh tế để đạt được mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế. Vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước ta trong nền kinh tế mới thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, Nhà nước phải xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta theo các mục tiêu mong muốn. Trong nền kinh tế của nước ta hiện nay các doanh nghiệp được quyền tự do lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, nhà nước không can thiệp vào quyết định của họ về sản xuất cái gì? bằng cách nao? Tiêu thụ ở đâu? Trong khi lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh doanh nghiệp lấy lợi nhuận của mình làm thước đo hiệu quả, đồng thời làm mục tiêu định hướng cho hành vi của họ. Trong nền kinh tế của ta hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau và cạnh tranh có thể dẫn đến sự triệt tiêu các nguồn lực kinh tế làm cho môi trường kinh doanh bị phá hủy và nền kinh tế không thể nào phát triển. Khác với các doanh nghiệp, vai trò quản lý kinh tế của nhà nước là ở chỗ, nhà nước theo đuổi mục tiêu chung của dân tộc là làm cho dân giàu nước mạnh nền kinh tề tăng trưởng một cách ổn định, vững chắc đảm bảo hiệu quả và công bằng xã hội. Bằng việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế nhà nước quản lý và can thiệp vào các doanh nghiệp với mục tiêu làm giàu cho đất nước. Thực chất của việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế là thống nhất các lợi ích khác nhau, quy tụ các lợi ích khác nhau về một lợi ích để sao cho trong khi mỗi người theo đuổi lợi ích cá nhân của mình cũng đồng thời góp phần của mình vào việc theo đuổi lợi ích dân tộc. Chính vì vậy để có thể hoàn thành chức năng định hướng của nền kinh tế nhà nước phải tạo ra được công cụ định hướng để quy tụ hành đông của các doanh nghiệp và người tiêu dùng cá biệt thành véc tơ vận động của nền kinh tế để định hướng nền kinh tế phát triển bền vững. Nhà nước cần phải có: chiến lược phát triển kinh tế, xã hội dài hạn; kế hoạch hóa định hướng. Thứ hai, Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho nền kinh tế hàng hòa nhiều thành phần phát triển. Mỗi cơ chế kinh tế chỉ có thể hoạt động khi có môi trường với những điều kiện kinh tế - xã hội. Nhà nước chủ động sử dụng kiến trúc thượng tầng để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư mở rộng phát triển sản xuất. Để hoàn thành vai trò đó ở nước ta, nhà nước cần phải: tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hóa giá cả, thương mại hóa nền kinh tế; quy định và bảo đảm các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất; đa dạng hóa chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất; xây dựng hệ thống pháp luạt của nền kinh tế thị trường; ổn định về chình trị và xã hội. Thứ ba, Nhà nước phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, hiệu quả tạo ra động lực cho sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, thị trường càng mở rộng sự hoạt động của quy luật càng dẫn đến sự phân hóa thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, chia lẻ dân cư thành các tầng lớp khác nhau trong quan hệ của họ đối với quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị. Tình trạng bất bình đẳng khi vượt qua khuôn khổ cho phép sẽ dẫn đến sự phản ứng của dân cư trong lĩnh vực chính trị xã hội, mâu thuẫn gay gắt về lợi ích giữa các giai cấp có thể dẫn tới sự đe dọa ổn định về mặt chính trị, tạo môi trường xã hội lành mạnh cho các doanh nghiệp làm ăn. Nhà nước phải hoàn thành chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư sao cho thỏa mãn yêu cầu công bằng và hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường sự khác nhau về sở hữu của cải, về năng lực sở trường, trình độ tay nghề và may mắn dẫn đến sự khác nhau trong thu nhập. Nhà nước cần phải biết sự lựa chọn phương án phân phối lại như thế nào đó cho các hoạt động kinh tế có hiệu quả trong sự bất bình đẳng cho phép . Để giải quyết tình trạng bất bình đẳng trong thu nhập cần thiết phải xây dựng lại hệ thống thuế để điều tiết một phần thu nhập của lớp người giàu có. Đồng thời cần giúp đỡ những người nghèo có cơ hội trở thành giàu có. Nhà nước cần phải giúp đỡ họ tạo công ăn việc làm, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, trình độ nghiệp vụ, cho vay vốn ban đầu với chế độ ưu đãi thích đáng. Đồng thời cần phải hình thành các quỹ hỗ trợ cấp bảo hiểm từ nguồn vốn ngân sách và từ nguồn vốn huy động của dân để giúp đỡ cho những người tạm thời thất nghiệp những người già yếu... Cần chú ý rằng phân phối lại thu nhập, hình thành các quỹ trợ cấp là một trong những công cụ có hiệu lực nhất để định hướng xã hội chủ nghiaz của một nền kinh tế. Thể hiện tình cộng đồng dân tộc trong các chương trình phát triển kinh tế xã hội. Thứ tư, Nhà nước can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần thiết. Định hướng, tạo môi trường, phân phối thu nhập là những công việc cần thiết thể hiện vai trò của nhà nước trong một chiến lược dài hạn. Trong quá trình thực hiện hiện các chiến lược đó, dưới ảnh hưởng của cơ chế cung cầu giá cả trong thị trường nội địa, đồng thời dưới ảnh hưởng của quan hệ kinh tế quốc tế, chính vì vậy trong quá trình thực hiện mục tiêu định hướng của các chương trình dài hạn những “cú sốc” làm chệch mục tiêu là điều không tránh khỏi. Trong trường hợp đó nhà nước cần phải sử dụng những công cụ như lãi suất, thuế, khối lượng tiền tệ và chi tiêu ngân sách để làm giảm những chấn động do cú sốc gây ra đưa nền kinh tế đi theo định hướng. Thứ năm, Nhà nước tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý. Trong nền kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta, nhà nước cùng một lúc phải hoàn thành hai nhiệm vụ lơn trong lĩnh vực kinh tế: Điều khiển sự vận động của nền kinh tế bằng cách hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn và ngăn hạn, quyết định các phương án phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân sao cho bình đẳng công bằng, hiệu quả tạo môi trường thuận lợi, hướng dẫn các doanh nghiệp làm ăn. Cung với chức năng điều khiển nền kinh tế nhà nước còn phải đóng vai trò người quản lý tài sản quốc gia, phân bố các nguồn lực của sản xuất một cách hợp lý. Nhà nước ta quản lý các đặc quyền đặc lợi kinh tế trong cương vực quốc gia. Về mặt đối ngoại nhà nước có trách nhiệm bảo vệ các nguồn lực ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngoài đến các vùng trong lòng đất, vùng trời, vùng biển. Về mặt đối nội nhà nước là người chủ sở hữu các nguồn lực này phân bố sử dụng giữa các thành phần kinh tế sao cho hợp lý.Đồng thời, nhà nước còn là chủ sở hữu của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Với tư cách là chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước, nhà nước quản lý trực tiếp và đóng vai trò độc quyền ở các thị trường quan trọn, quyết định sự tồn tại của thể chế. Với tư cách là người chủ quản lý đất nước nhà nước là người trọng tài, là chủ thể của quá trình phân công lại vai trò giữa các thành phần kinh tế không làm triệt tiêu lợi ích chung của toàn xã hội. Như vậy, Nhà nước xuất hiện một cách khách quan, ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhà nước là một bộ phân của kiến trúc thượng tầng của xã hội, là sản phẩm của một chế độ kinh tế - xã hội nhất định. Mỗi nhà nước khác nhau có bản chất và những đặc trưng khác nhau. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà nước có sự thống nhất hữu cơ chức năng giai cấp và chức năng xã hội trong tổ chức, trong hoạt động của mình. Nhà nước quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật, quản lý kinh tế bằng kế hoạch chính sách, bằng những đòn bẩy kinh tế và các công cụ điều tiết khác. Hiện nay nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế hàng hóa. Mô hình kinh tế của Việt Nam được xác định là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời vai trò quản lý của nhà nước. “Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân ” “”.1 1.Sđd, tr. 87-88

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50044.DOC
Tài liệu liên quan