- Về định hướng chính sách
(i) Ban hành các biện pháp quyết liệt để
chấm dứt hiện tượng chủ sử dụng lao động
trốn đóng bảo hiểm cho người lao động.
(ii) Nghiên cứu và xây dựng các văn
bản quy định tham gia BHXH đối với
những người lao động làm việc trong khu
vực ngoài quốc doanh, doanh nghiệp
nhỏ,. để có thể thực hiện các chế độ cho
mọi đối tượng lao động.
(iii) Cần xây dựng một đạo luật riêng
về bảo hiểm thất nghiệp (chứ không đặt
BHTN là một cấu thành trong Luật
BHXH như hiện nay) để điều chỉnh thị
trường lao động có quy mô tương đối lớn
ở Việt Nam, trong đó thiết lập một bộ
máy quản lý đủ mạnh để giải quyết vấn đề
việc làm và chống thất nghiệp.
(iv) Tăng cường các hoạt động thanh
tra, kiểm tra nhằm đảm bảo thực thi một
cách có hiệu quả và tích cực các quy định
của pháp luật về BHXH, BHTN đối với
người lao động.
(v) Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia giải quyết
việc làm, trong đó cần có chính sách thu
hút nguồn vốn đầu tư từ ngân sách địa
phương và từ các doanh nghiệp vào Quỹ
quốc gia về việc làm. Đồng thời đẩy
mạnh việc thực hiện dự án cho vay vốn
tạo việc làm với lãi suất thấp từ Quỹ quốc
gia, cho các cơ sở sản xuất kinh doanh sử
dụng nhiều lao động được vay vốn ưu đãi
và đặc biệt ưu tiên cho các đối tượng
nhóm yếu thế vay vốn.
(vi) Tăng cường cơ chế phối hợp với
các tổ chức, hiệp hội (Đòan thanh niên
cộng sản HCM, Hội phụ nữ, các tổ chức
Công đoàn,.) trong việc triển khai thực
hiện các chương trình, Đề án, dự án.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 321 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển của thị trường lao động Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II - 2011
12
Vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển của
thị trường lao động Việt Nam
Ths. Trần Thị Thu Hương
Ban Pháp luật – Viện Quản lý kinh tế Trung Ương
rên thế giới, xu hướng đổi mới
chung vai trò của Nhà nước là
Nhà nước không nên chỉ tập
trung vào công việc quản lý, mà nên
đóng vai trò là người tạo lập, khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi và công
bằng để các thành thành viên của xã hội
phát huy khả năng, tự phát triển. Ở Việt
Nam, vai trò của Nhà nước cũng đang dần
hoàn thiện theo hướng Nhà nước can thiệp
vào thị trường thông qua luật pháp, chính
sách, cơ chế và các công cụ điều tiết.
Thời gian qua, trong quá trình phát
triển thị trường lao động ở Việt Nam,
Nhà nước đã thể hiện tốt hơn vai trò điều
hành của mình, giảm dần sự can thiệp
trực tiếp vào quan hệ lao động, chỉ giữa
lại vai trò chủ yếu là xây dựng và ban
hành, theo dõi thực thi pháp luật, chính
sách về thị trường lao động, về quản lý
nguồn nhân lực, hướng dẫn các bên xây
dựng mối quan hệ lao động hài hoà và ổn
định. Bài viết này sẽ tập trung phân tích
những ưu điểm, tồn tại và đồng thời đề
xuất một số định hướng giải pháp nhằm
nâng cao hơn nữa vai trò của nhà nước
trong việc thúc đẩy thị trường lao động
Việt Nam phát triển hiệu quả theo ba nội
dung sau: (i) Bảo đảm khung khổ pháp
lý, chính sách thuận lợi cho thị trường
lao động hoạt động hiệu quả; (ii) Đổi
mới quản lý nhà nước nhằm đảm bảo
thực hiện có hiệu quả chính sách thị
trường lao động; và (iii) Thực hiện vai
trò ‘bà đỡ’ hỗ trợ trực tiếp cho thị trường
lao động.
1. Tạo dựng khung khổ pháp lý, chính
sách thuận lợi cho thị trường lao động
hoạt động
* Sự đổi mới trong hệ thống văn bản
pháp luật
Sau hơn hai thập kỷ chuyển đối sang
nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, Việt nam đã chứng kiến nhiều
đổi mới về chất trong quan điểm và cách
nhìn nhận về thị trường lao động. Các
đổi mới mang tính quan điểm này đã lần
lượt được thể chế hoá trong một số văn
bản pháp lý quan trọng. Trước hết đó là
Bộ Luật lao động (ban hành năm 1994 và
sửa đổi, bổ sung qua các năm 2002, 2004
và 2006)11, Luật Bảo hiểm xã hội12, Luật
dạy nghề (2006), Luật người lao động
Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng (2006), Luật Cư trú (2007) và
các Nghị định, Thông tư liên quan tới lao
động, thị trường lao động và việc làm.
Các văn bản pháp luật này đã tạo nền
tảng pháp lý, chính sách tương đối toàn
diện cho thị trường lao động qua các quy
định về quyền tự do tìm việc làm và
quyền lựa chọn người lao động (hai yếu
tố cơ bản tạo ra quan hệ cung - cầu cho
thị trường lao động), quyền thỏa thuận,
thương lượng, ký kết hợp đồng lao động,
thỏa ước lao động tập thể (yếu tố xác lập
11
Lần sửa đổi, bổ sung Bộ Luật lao động năm 2006
chủ yếu tập trung vào sửa đổi Chương 14 về quan
hệ lao động.
12
Bước tiến của Luật Bảo hiểm xã hội (2006) là
việc mở rộng sự tham gia của khu vực phi chính
thức vào hệ thống bảo hiểm xã hội và ban hành chế
độ bảo hiểm thất nghiệp.
T
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II - 2011
13
sự bình đẳng trong quan hệ lao động giữa
người sử dụng lao động và người lao
động), các chế độ về tiền lương, thu
nhập, trợ cấp (các nhân tố chi phối, ảnh
hưởng tới quyết định mua và bán sức lao
động). Nhờ đó, sức lao động được giải
phóng, người lao động được quyền tự do
tìm kiếm việc làm hoặc chủ động tạo
việc làm cho mình và cho người khác, kể
cả ngoài phạm vi lãnh thổ của Việt Nam.
* Một số tồn tại liên quan tới hệ
thống văn bản pháp luật
Nhìn chung, các chính sách phát triển
thị trường lao động hiện vẫn chưa theo
kịp yêu cầu phát triển kinh tế trong nước
và hội nhập kinh tế quốc tế. Trước hết,
chưa tạo lập được cơ chế, điều kịên và
môi trường để hình thành giá cả tiền
công lao động thực sự trên thị trường lao
động. Mặc dù, các quy định pháp luật về
đổi mới cơ chế tiền lương đã theo hướng
giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp
trong xác định chi phí tiền lương và trả
lương cho người lao động dựa trên cơ sở
năng suất lao động, không hạn chế mức
thu nhập tối đa đối với người lao động
chuyên môn, kỹ thuật cao, các tài năng
có nhiều cống hiến vào hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp. Tuy vậy, thực tế
cho thấy tiền lương/tiền công chưa đảm
bảo người hưởng lương sống chủ yếu
bằng lương. Một bộ phận đáng kể người
lao động có thu nhập ngoài lương chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập, làm cho
quan hệ tiền lương bị méo mó.
Hiện tại, các quy định trong hệ thống
thang bảng lương khu vực nhà nước còn
rườm rà và phức tạp; hệ thống thang
bảng lương trong khu vực DNNN do
Nhà nước quy định chưa phù hợp với
điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, do chưa xây dựng
được cơ chế đối thoại xã hội về tiền
lương, nên nhiều doanh nghiệp (đặc biệt
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)
thường sử dụng mức lương tối thiểu Nhà
nước quy định làm mốc tham chiếu trả
lương cho người lao động. Rất ít doanh
nghịêp xây dựng bảng lương, thang
lương dựa trên mức cải thiện về năng
suất lao động và hiệu quả sản xuất của
doanh nghiệp.
Quy định về mức tiền lương tối thiếu
mặc dù đã được điều chỉnh liên tục và
với tốc độ tăng khá nhanh, song thực tế
mới chỉ đáp ứng 60-65% nhu cầu cơ bản
của người lao động và rất gần với
ngư
ư
.
Thứ hai, mặc dù Luật Cư trú cùng với
các chính sách tự do hoá di cư, chính
sách phát triển đô thị, các vùng kinh tế
trọng điểm,... đã có tác động tích cực,
kích thích sự di chuyển lao động trong
phạm vi nội địa, đặc biệt là dòng di cư từ
nông thôn ra thành thị, đến các trung tâm
kinh tế, thương mại, khu công nghiệp tập
trung. Tuy vậy, việc di chuyển lao động
vẫn phần lớn mang tính chất tạm thời và
còn nhiều vướng mắc. Nguyên nhân là
do chế độ hộ khẩu vẫn tiếp tục gây ra
nhiều sự phân biệt đối xử với người lao
động di cư, đặc biệt rõ nhất là những
phân biệt đối xử trong tiếp cận cơ hội
việc làm, cơ hội tín dụng, hưởng thụ các
dịch vụ y tế, giáo dục cho bản thân người
lao động và gia đình họ.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II - 2011
14
Ngoài ra, các văn bản quy phạm pháp
luật cũng đã quy định quyền tự do tìm
việc làm và tự do lựa chọn người lao
động, tuy vậy, tình trạng “khập khễnh”,
mất cân bằng cung-cầu lao động hiện nay
còn khá lớn, đặc biệt ở các khu sản xuất
tập trung và các vùng kinh tế động lực.
Có một thực tế không khó nhận ra, đó là
cung lao động giản đơn quá lớn13, trong
khi đó cung lao động có trình độ chuyên
môn, kỹ thuật cao lại rất thiếu, vì vậy
nhiều công việc vẫn phải thuê lao động
nước ngoài. Bên cạnh đó, mức tăng việc
làm (cầu lao động) thời gian qua vẫn
chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Nói một cách khác, tăng trưởng
chưa giúp tạo ra nhiều việc làm cho xã
hội. Nguyên nhân chính của tình trạng
này, bên cạnh việc cần xem xét lại chất
lượng đào tạo/đào tạo nghề tại các cơ sở
đào tạo, tại doanh nghiệp, cũng cần rà
soát lại các chính sách hiện hành, đặc
biệt là cần đưa ra cơ chế, công cụ khuyến
khích mới nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo và tăng cường tỷ lệ lao động qua đào
tạo. Chính sách khuyến khích phát triển
thị trường lao động trình độ cao nhằm thu
hút nhân tài, thu hút lao động trình độ cao
trong nước và nước ngoài còn thiếu.
Thứ ba, khuôn khổ luật pháp ở Việt
nam thời gian qua đã được điều chỉnh
theo hướng vươn tới một thị trường lao
động linh hoạt hơn. Quyền, lợi ích và
nghĩa vụ của mỗi bên cũng được xác
định rõ, trong đó, quan hệ giữa người lao
động và chủ sử dụng lao động là dựa trên
cơ sở thương lượng tự nguyện, bình
13
Năm 2009, khoảng 18,3% lực lượng lao động
chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học. Số lao
động tốt nghiệp phổ thông trung học mặc dù có xu
hướng tăng lên, tuy nhiên năm 2009, mới đạt tỷ lệ
25,6% (tham khảo thêm Đề án “Phát triển thị
trường lao động Việt Nam giai đoạn 2011-2020”-
dự thảo lần 4)
đẳng, hợp tác và tôn trọng quyền, lợi ích
của mỗi bên. Tuy nhiên, các quy định
pháp luật này dường như vẫn chưa đủ
mạnh, chưa tạo điều kịên phát triển mối
quan hệ lao động hài hoà giữa các bên.
Quan hệ lao động (giữa một bên là đại
diện người lao động và một bên là đại
diện chủ sử dụng lao động) còn mang
tính hình thức, mới chỉ thể hiện ở mức độ
bằng luật, chưa mang tính thực tiễn. Mối
quan hệ hợp tác trên cơ sở đối thoại, chia
sẻ thông tin, tham vấn, và thương lượng
chưa trở thành thông lệ, đặc biệt ở khu
vực tư nhân. Các doanh nghiệp thuộc
khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài thường ký hợp
đồng lao động ngắn hạn, nên nhiều lao
động không những không được hưởng
các quyền lợi theo luật định, mà còn bị
đặt trong tình trạng luôn luôn lo lắng vì
có thể bị mất việc.
2. Vai trò quản lý nhà nước nhằm đảm
bảo thực hiện có hiệu quả chính sách
thị trường lao động
Hiện nay, vai trò quan trọng nhất về
quản lý nhà nước đối với thị trường lao
động được giao cho Bộ Lao động-
Thương binh - Xã hội.
Bộ LĐ-TB-XH là cơ quan Chính phủ
có ảnh hưởng lớn nhất đối với vấn đề
hình thành và vận hành thị trường lao
động, chịu trách nhiệm quản lý nhà nước
về việc làm, dạy nghề, lao động, tiền
lương, bảo hiểm xã hội, an toàn lao
động Những năm gần đây, Bộ đã thực
hiện nhiều đổi mới, đặc biệt là có những
thay đổi về chức năng, nhiệm vụ và cơ
cấu các bộ phận hợp thành của Bộ, ví dụ:
hình thành Cục quản lý lao động ngoài
nước, Trung tâm quốc gia dự báo và
thông tin thị trường lao động, Tổng cục
Dạy nghề, Trung tâm Hỗ trợ phát triển
Quan hệ lao động Đồng thời, tuỳ thuộc
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II - 2011
15
vào tính chất đặc thù của từng chương
trình, dự án mà các bộ phận khác trong
Bộ Lao động-thương binh và xã hội (ví
dụ các bộ phận có chức năng nghiên cứu
và triển khai) cũng có phần đóng góp,
chẳng hạn, hình thành Ban điều hành
chương trình mục tiêu quốc gia về việc
làm, về giáo dục, dạy nghề. Những bộ
phận này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến
động thái của thị trường lao động. Các
Sở/ phòng LĐ-TB-XH ở cấp tỉnh và
huyện hiện đang được giao phó thực hiện
chứ năng điều phối, thực hiện các chính
sách liên quan tới thị trường lao động tại
các địa phương theo sự phân công, phân
cấp của Bộ LĐTB&XH.
Mặc dù vậy, vai trò quản lý của Nhà
nước về lao động ở một số khâu vẫn còn
nhiều hạn chế và bất cập. Quản lý xuất
khẩu lao động, quản lý đào tạo, dạy nghề
và công tác hài hòa quan hệ lao động
giữa hai bên (người lao động và người sử
dụng lao động) là một trong những khâu
gây nhiều tranh cãi. Đối với công tác
quản lý xuất khẩu lao động: các yếu kém
có thể thấy rõ nhất là số lượng các bộ
thiếu, trình độ và năng lực của cán bộ
quản lý lao động xuất khẩu, đặc biệt là
năng lực giải quyết các tranh chấp phát
sinh còn yếu. Điều này đã ảnh hưởng tiêu
cực đến việc mở rộng sự tiếp cận và đa
dang hóa thị trường xuất khẩu lao động,
làm giảm hiệu lực của các biện pháp về
bảo vệ quyền lợi của người lao động ở
nước ngoài. Đối với công tác quản lý đào
tạo, dạy nghề, hiện nay có hai cơ quan
quản lý Nhà nước cùng đảm nhiệm vai
trò quản lý nhà nước về đào tạo, dạy
nghề, đó là Bộ Giáo dục-Đào tạo và Bộ
Lao động-Thương binh và xã hội. Do cơ
chế phối hợp giữa hai Bộ còn lỏng lẻo,
thiếu tính hợp tác, vì vậy việc quản lý
đào tạo, dạy nghề còn có nhiều bất cập.
Đối với công tác hài hòa quan hệ hai
bên: Hiện nay, cơ chế ba bên của Việt
Nam mới chỉ ở giai đoạn sơ khai, chủ
yếu được hình thành ở cấp quốc gia, còn
mang nhiều tính “tình thế” hơn là tính hệ
thống. Ở cấp vùng và các địa phương còn
chưa có các cơ chế này. Hơn nữa, ngay ở
cấp quốc gia, mặc dù đã thành lập Ủy
ban quan hệ lao động14, nhưng cơ cấu tổ
chức còn chưa hợp lý, thành phần các
bên tham gia còn quá thiên lệch về phía
đại diện Chính phủ. Theo quy định hiện
hành, bộ máy giúp việc cho Ủy ban là bộ
máy của Bộ Lao động-thương binh và xã
hội, vì vậy khó tránh khỏi các quyết định
của Ủy ban sẽ mang quan điểm và cách
nhìn của Chính phủ. Điều này sẽ làm
giảm vai trò của cả bên đại diện người
lao động và bên chủ sử dụng lao động.
Ngoài ra, công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát hoạt động của thị trường lao
động ở các cấp (cả trung ương và địa
phương) chưa thực sự được coi trọng, do
vậy dẫn tới tình trạng nhiều doanh
nghiệp “buông lơi” việc tuân thủ các quy
định về chính sách lao động và an toàn
lao động. Bộ máy quản lý, theo dõi, giám
sát hoạt động của thị trường lao động
vừa thiếu hụt về số lượng, về công cụ và
nguồn lực để hỗ trợ cho hoạt động thanh
tra, giám sát có hiệu quả.
3 .Vai trò “bà đỡ” hỗ trợ trực tiếp của
Nhà nước vào thị trường lao động
Ngoài nhiệm vụ bảo đảm khung pháp
lý, chính sách cho thị trường lao động,
trong những trường hợp cần thiết, Nhà
nước Việt Nam còn có những can thiệp
14
Theo Quyết định 68/2007/QĐ-TTg ngày
17/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ.Uỷ ban Quan
hệ lao động có chức năng tư vấn cho Thủ tướng
Chính phủ về cơ chế, chính sách, giải pháp xây
dựng quan hệ lao động lành mạnh, xây dựng cơ chế
phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức liên quan trong
việc phòng ngừa, giải quyết tranh chấp lao động.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II - 2011
16
trực tiếp vào thị trường lao động. Các
can thiệp này trước hết thông qua những
biện pháp hỗ trợ như: cung cấp thông tin
việc làm (qua mạng lưới trung tâm giới
thiệu việc làm), hỗ trợ dạy nghề (qua
mạng lưới cơ sở dạy nghề), hỗ trợ tín
dụng (qua Chương trình mục tiêu quốc
gia về việc làm, các dự án, đề án,),
Quỹ quốc gia giải quyết việc làm (hay
còn gọi là Quỹ 71-trong Chương trình
mục tiêu Quốc gia về việc làm) được
thành lập nhằm mục đích: (i) cung cấp
các khoản vay với lãi suất ưu đãi cho
người lao động để tự họ tạo ra việc làm
cho bản thân, quỹ còn khuyến khích cho
vay để xuất khẩu lao động; (ii) thành lập
các trung tâm lao động nhằm hỗ trợ tìm
vịêc làm, đào tạo nghề và nghiên cứu thị
trường lao động; và (iii) hỗ trợ giáo dục,
đào tạo nghề. Từ khi được thành lập tới
nay, Quỹ quốc gia giải quyết vịêc làm
được đánh giá là đã hỗ trợ đắc lực cho
việc tạo và tự tạo việc làm cho người lao
động. Quỹ đã góp phần tạo việc làm cho
khoảng 350.000 lao động mỗi năm, trong
đó lao động thanh niên chiếm 40%. Cho
đến nay, đã xuất hiện nhiều mô hình tạo
vịêc làm có hiệu quả từ nguồn vốn vay
này. Bên cạnh đó, Quỹ 71 cũng đóng vai
trò tích cực trong việc lồng ghép với các
Chương trình phát triển kinh tế - xã hội
chung của địa phương, đặc biệt góp phần
đáng kể tạo việc làm ở khu vực phi kết
cấu, tạo điều kiện cho các nhóm đối tượng
yếu thế hơn trong xã hội, chẳng hạn người
tàn tật, người dân tộc, lao động nữ, lao
động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp,.. có cơ hội vay vốn phát
triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm,
tạo thu nhập cho bản thân và cộng đồng,
góp phần xóa đói giảm nghèo. Ở khu vực
nông thôn, Quỹ 71 và các chương trình hỗ
trợ tín dụng đã và đang thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu lao động không những trong
nội bộ ngành nông nghiệp, mà thúc đẩy
chuyển dịch từ lao động nông nghịêp sang
lao động phi nông nghiệp ở nông thôn.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt
được, trong quá trình triển khai, Quỹ quốc
gia giải quyết việc làm đã bộc lộ một số
tồn tại, hạn chế. Nguồn ngân sách Trung
ương hàng năm phân bổ cho Quỹ khoảng
250 tỷ đồng. Trong khi đó, nguồn vốn địa
phương huy động cho Quỹ cũng không
lớn và hiện chỉ có 30 tỉnh, thành phố
thành lập Quỹ việc làm địa phương. Với
nguồn vốn này, hiện mới chỉ đáp ứng
được khoảng 35-40% nhu cầu vay vốn
của nhân dân. Bên cạnh đó, các dự án cho
vay giải quyết việc làm chủ yếu là trong
lĩnh vực nông nghiệp (chiếm trên 50%),
trong khi đó đối tượng cho vay là các cơ
sở sản xuất kinh doanh chỉ chiếm tỷ lệ
thấp (dưới 10%), nên nhìn chung chưa tạo
thêm nhiều việc làm mới. Một số dự án
cho vay sai mục đích, không đúng đối
tượng.
Ngoài hỗ trợ tín dụng thông qua Quỹ
quốc gia giải quyết việc làm, rất nhiều
chương trình hỗ trợ khác được triển khai
(đặc biệt trong thời kỳ suy giảm kinh tế từ
2007 đến nay) giúp cho nhiều doanh
nghịêp, các hộ sản xuất kinh doanh vượt
qua giai đoạn khó khăn, duy trì sản xuất,
trả lương cho người lao động, đóng bảo
hiểm xã hội. Một số biện pháp hỗ trợ cần
kể đến là: miễn, giảm thuế cho doanh
nghiệp, giãn thời gian nộp một số loại
thuế, khuyến khích xuất khẩu, ứng trước
kế hoạch đầu tư ngân sách nhà nước của
các năm sau, đã có tác động trực tiếp
tới vấn đề đảm bảo duy trì việc làm và thu
nhập cho người lao động.
4. Một số định hướng giải pháp nhằm
nâng cao vai trò của nhà nước đối với
sự phát triển của thị trường lao động
giai đoạn 2011-2020
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II - 2011
17
Một là, hoàn thiện thể chế để kết nối
chặt chẽ hơn giữa bên cung với bên cầu
trên thị trường lao động.
- Về quan điểm: (i) Tiếp tục coi giáo
dục, đào tạo và dạy nghề là quốc sách
hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta; nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực để đảm
bảo lao động thực sự là yếu tố chính
đóng góp vào quá trình tăng trưởng kinh
tế, phát triển xã hội và thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất
nước; (ii) Tiếp tục đảm bảo quyền được
có việc làm chính đáng và quyền được
lựa chọn, tự do di chuyển đến những nơi
mà pháp luật không ngăn cấm.
- Về định hướng giải pháp:
(i) Tiếp tục thực hiện chính sách cho
người lao động vay vốn với lãi suất ưu
đãi để học nghề, học trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng và đại học.
(ii) Từng địa phương cần có chính
sách phát triển mạng lưới các cơ sở dạy
nghề để đào tạo lao động tại chỗ trên cơ
sở dự báo nhu cầu lao động của các
doanh nghiệp trên địa bàn. Đưa đào tạo
nghề vào quy hoạch phát triển kinh tế xã
hội và quy hoạch của các ngành có liên
quan ở địa phương. Mở rộng thêm chức
năng dạy nghề cho các trung tâm giáo
dục thường xuyên ở các huyện, thị xã.
(iii) Nhà nước cần nâng cao tỷ lệ đầu
tư cho đào tạo nghề trong tổng vốn đầu
tư cho giáo dục và đào tạo nhằm tạo cơ
sở vật chất, trang thiết bị đủ mạnh cho
các trung tâm giáo dục thường xuyên,
trung tâm kỹ thuật - tổng hợp - hướng
nghiệp, phát triển hệ thống các trường
trung cấp, cao đẳng nghề; khuyến khích
các tổ chức, cá nhân mở trung tâm dạy
nghề, trường trung cấp, cao đẳng tư thục
thông qua các chính sách ưu đãi.
(iv) Xây dựng các cơ chế, chính sách
để tạo mối liên kết chặt chẽ giữa đào tạo
(ở nhà trường) và sản xuất (tại doanh
nghiệp), thông qua một số hình thức sau:
o Quy định các doanh nghiệp với quy
mô nhất định phải có trách nhiệm đào
tạo thực hành cho học sinh/sinh viên ở
các trường trung cấp, cao đẳng, học
viên các cơ sở dạy nghề.
o Có chính sách khuyến khích các
trường nghề, các cơ sở dạy nghề phát
triển sản xuất.
o Khuyến khích phát triển mô hình nhà
trường trong doanh nghiệp: Cho phép
các doanh nghiệp có quy mô lớn, nếu
muốn, có thể mở các trường nghề. Nhà
nước hỗ trợ thông qua chính sách miễn
thuế đất, cho vay vốn để đầu tư mở
trường, hỗ trợ đào tạo, cho thuê cơ sở
vật chất để mở trường với giá ưu đãi.
(v) Xây dựng các chương trình, dự án
quốc gia về dạy nghề và các quy định
hướng dẫn thực hiện các chương trình,
dự án: Chương trình dạy nghề trình độ
cao; Chương trình dạy nghề cho thanh
niên, nhất là thanh niên nông thôn, vùng
chuyển đổi mục đích sử dụng đất, thanh
niên dân tộc thiểu số, bộ đội xuất ngũ;
Chương trình đào tạo lại, chuyển nghề
cho người lao động mất việc làm, thất
nghiệp; Chương trình dạy nghề cho
nhóm yếu thế còn khả năng lao động.
(vi) Tiếp tục các nỗ lực nhằm “tự do
hoá” chế độ hộ khẩu ở các thành phố
theo hướng giảm dần các tiêu chí gây
phân biệt đối xử giữa các nhóm xã hội.
Việc tự do hoá này có thể được tiến hành
dần từng bước, bắt đầu bằng các thử
nghiệm với các biện pháp cho phép loại
bỏ sự phân biệt về kinh tế; tiếp đến là
loại bỏ dần các rào cản tiếp cận các dịch
vụ công không chỉ đối với người lao
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II - 2011
18
động di cư dài hạn, mà cả con cái người
lao động.
(vii) Tiếp tục hoàn thiện khung pháp
luật chính sách liên quan tới thủ tục
thành lập và điều kiện họat động của các
tổ chức giới thiệu việc làm, quy định về tổ
chức và cơ chế vận hành sàn giao dịch
việc làm, thông tin thị trường lao động, cơ
sở dữ liệu quốc gia về lao động, việc làm.
(viii) Phát triển và nâng cao năng lực
hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm
công, chuyển sang đơn vị cung cấp dịch
vụ công tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự
trang trải, được nhà nước hỗ trợ.
Hai là, hoàn thiện thể chế về nâng cao
giá trị sức lao động gắn với hiệu quả và
sức cạnh tranh trên thị trường lao động.
- Về quan điểm:
(i) Tiền lương, tiền công trả cho
người lao động phải đảm bảo đủ sống,
góp phần hình thành thị trường lao động
lành mạnh, thu hút được lao động có chất
lượng cao vào những khu vực quan trọng
của đất nước; (ii) Trong doanh nghiệp,
tiền lương, tiền công phải do thị trường
quyết định, nhưng phải đảm bảo nguyên
tắc công. Tiền lương, tiền công trả cho
người lao động phải tương xứng với sự
đóng góp của lao động, trả đúng giá trị
lao động theo quan hệ cung – cầu lao
động, song việc xác định tiền lương phải
dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên
trong quan hệ lao động thông qua ký kết
hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập
thể; (iii) Nhà nước quản lý tiền lương bằng
pháp luật, hướng dẫn tiêu chuẩn lao động,
điều tiết thu nhập, kiểm tra, thanh tra và xử
lý những khiếm khuyết của thị trường,
không can thiệp trực tiếp và quá sâu vào
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Về định hướng giải pháp: (i) Tiếp
tục hoàn thiện khung pháp luật, chính
sách về tiền lương tối thiểu. Mức lương
tối thiểu phải được điều chỉnh sao cho
bảo đảm đủ chi tiêu tối thiểu hàng ngày
của người lao động, đảm bảo sức mua đủ
các mặt hàng thiết yếu cho người lao
động ngay cả trong trường hợp có biến
động về giá hàng tiêu dùng. Khi có biến
động giá cả, chỉ số giá tiêu dùng tăng tới
10% so với thời điểm công bố mức tiền
lương tối thiểu hiện hành thì phải công
bố mức tiền lương tối thiểu mới để bảo
đảm thu nhập thực tế cho người lao
động. Hoặc khi năng suất lao động tăng
lên bao nhiêu % thì doanh nghiệp phải
điều chỉnh tăng tiền lương. Việc xây
dựng thang lương, bảng lương, quy chế
trả lương (trả lương theo sản phẩm/trả
lương theo thời gian), trả thưởng tại
doanh nghiệp là việc bắt buộc.
Làm rõ và tách bạch chính sách tiền
lương tối thiểu đối với khu vực hành chính
sự nghiệp phụ thuộc vào ngân sách nhà
nước và tiền lương tối thiểu khu vực sản
xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Xem xét, ban hành Luật lương tối thiểu.
(ii) Từng bước nâng cao thu nhập của
người lao động thông qua khuyến khích
bản thân người lao động phải không
ngừng ra sức nâng cao trình độ học vấn,
nghiệp vụ và tay nghề, qua đó tăng năng
suất lao động. Chỉ có tăng năng suất lao
động không ngừng người lao động mới có
thể cải thiện được thu nhập.
(iii) Xây dựng cơ chế tiền lương đảm
bảo quyền tự chủ thực sự cho doanh nghiệp
và cơ chế đối thoại, thương lượng, thoả
thuận về tiền lương, nhất là tiền lương tối
thiểu ở doanh nghịêp và ngành15.
15
Các cải cách về cơ chế tiền lương thế giới hiện
theo hướng chuyển từ can thiệp của Chính phủ sang
khuyến khích thương lượng hai bên (giữa đại diện
doanh nghiệp và người lao động). Một số nước đã
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II - 2011
19
(iv) Xây dựng cơ chế tiền lương phải
xem xét đến các yếu tố về mức độ phức tạp
của lao động, điều kiện lao động, vị trí quan
trọng của các ngành nghề khác nhau, ...
(v) Tăng cường công tác quản lý nhà
nước trong việc tuyên truyền, phổ biến
pháp luật lao động, các chính sách lao
động tiền lương mới ban hành cho người
lao động và người sử dụng lao động.
(vi) Xem xét, trình Quốc hội bổ sung,
sửa đổi Bộ Luật Lao động, trong đó cần
đặt vấn đề có tính bắt buộc trong quy
định đối với việc các doanh nghiệp phải
xây dựng thang bảng lương theo quy
định về nguyên tắc của Chính phủ.
Ba là, hoàn thịên thể chế về tăng cường
tính linh hoạt của thị trường lao động.
- Về quan điểm: Trong nền kinh tế thị
trường, các doanh nghiệp luôn theo đuổi
mục tiêu tối thượng là lợi nhuận. Việc
theo đuổi mục tiêu lợi nhuận của doanh
nghiệp thường đòi hỏi có sự “đánh đổi”
bằng quyền và lợi ích của người lao động
trong doanh nghiệp. Vì vậy, khi xây dựng
chính sách thị trường lao động, cần phải
xem xét, cân nhắc sao cho một mặt có thể
bù đắp những hạn chế và khiếm khuyết,
làm giảm thiểu/khắc phục các “thất bại”
mang tính bản chất của cơ chế này, một
mặt không làm ảnh hưởng tới mục tiêu
làm giàu chính đáng của doanh nghiệp.
- Về định hướng giải pháp
(i) Hoàn thiện hệ thống pháp luật lao
động thông qua việc rà soát Bộ luật Lao
thực hiện việc khuyến khích thương lượng tập thể
thông qua tạo lập các nguyên tắc pháp lý cho quá
trình thương lượng tập thể “có thiện chí”. Chẳng
hạn, Đức đã có hơn 8.000 thoả thuận tập thể về tiền
lương với sự phân biệt các mức lương theo kỹ
năng, theo vùng và các ngành nghề khác nhau. Ở
Đức, hơn 80% tổng số người lao động được trả
lương theo cơ chế này.
động về hợp đồng lao động, thỏa ước lao
động tập thể, kỷ luật lao động, trách nhiệm
vật chất và giải quyết tranh chấp lao động
để phục vụ chương trình sửa đổi, bổ sung
tổng thể Bộ luật Lao động.
(ii) Đối với việc ký kết hợp đồng lao
động: cần khắc phục hiện tượng ký hợp
đồng chuỗi thời hạn một năm hoặc dưới
một năm. Đưa ra quy định không được ký
hợp đồng thời hạn một năm hoặc dưới một
năm quá ba lần, đến lần thứ tư phải ký hợp
đồng không xác định thời hạn. Trong mọi
trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động,
phải quy định trình tự thủ tục pháp luật cụ
thể để thuận cho việc kiểm tra và giải
quyết tranh chấp lao động.
(iii) Đối với thoả ước lao động tập thể:
các nội dung trong thoả ước lao động tập
thể cần được xây dựng cho phép có tính
linh hoạt cao hơn, phù hợp hơn với đặc
điểm của ngành, không nhất thiết gồm đầy
đủ nội dung như hiện nay. Cần ban hành
quy định hướng dẫn doanh nghiệp thực
hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp;
quy định trách nhiệm doanh nghiệp cung
cấp thông tin và các điều kiện cần thiết
giúp công đoàn thực hiện hoạt động chuẩn
bị nội dung, thương lượng và ký kết thoả
ước lao động tập thể.
(iv) Kiện toàn lực lượng thanh tra viên,
tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
việc thực hiện pháp luật lao động ở các
doanh nghiệp, trước hết tập trung ở doanh
nghiệp FDI, doanh nghiệp dân doanh sử
dụng nhiều lao động và có nguy cơ cao
xảy ra tranh chấp lao động; phát hiện và
xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp
luật để hạn chế tình trạng ép tiền công của
người lao động.
(v) Tăng cư ương lư
ư
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II - 2011
20
ư
ư ư
.
Bốn là, hoàn thiện thể chế về đảm bảo
an sinh xã hội và hỗ trợ nhóm yếu thế.
- Về quan điểm: (i) Tiếp tục từng bước
mở rộng và cải thiện hệ thống an sinh xã
hội, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu đa dạng của người dân trong xã hội;
(ii) Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong
việc thực hiện chính sách an sinh xã hội,
đặc biệt hỗ trợ kịp thời các đối tượng yếu
thế trong xã hội (lao động nông thôn, lao
động di cư, lao động bị mất đất, mất việc
làm, người tàn tật,).
- Về định hướng chính sách
(i) Ban hành các biện pháp quyết liệt để
chấm dứt hiện tượng chủ sử dụng lao động
trốn đóng bảo hiểm cho người lao động.
(ii) Nghiên cứu và xây dựng các văn
bản quy định tham gia BHXH đối với
những người lao động làm việc trong khu
vực ngoài quốc doanh, doanh nghiệp
nhỏ,... để có thể thực hiện các chế độ cho
mọi đối tượng lao động.
(iii) Cần xây dựng một đạo luật riêng
về bảo hiểm thất nghiệp (chứ không đặt
BHTN là một cấu thành trong Luật
BHXH như hiện nay) để điều chỉnh thị
trường lao động có quy mô tương đối lớn
ở Việt Nam, trong đó thiết lập một bộ
máy quản lý đủ mạnh để giải quyết vấn đề
việc làm và chống thất nghiệp.
(iv) Tăng cường các hoạt động thanh
tra, kiểm tra nhằm đảm bảo thực thi một
cách có hiệu quả và tích cực các quy định
của pháp luật về BHXH, BHTN đối với
người lao động.
(v) Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia giải quyết
việc làm, trong đó cần có chính sách thu
hút nguồn vốn đầu tư từ ngân sách địa
phương và từ các doanh nghiệp vào Quỹ
quốc gia về việc làm. Đồng thời đẩy
mạnh việc thực hiện dự án cho vay vốn
tạo việc làm với lãi suất thấp từ Quỹ quốc
gia, cho các cơ sở sản xuất kinh doanh sử
dụng nhiều lao động được vay vốn ưu đãi
và đặc biệt ưu tiên cho các đối tượng
nhóm yếu thế vay vốn.
(vi) Tăng cường cơ chế phối hợp với
các tổ chức, hiệp hội (Đòan thanh niên
cộng sản HCM, Hội phụ nữ, các tổ chức
Công đoàn,..) trong việc triển khai thực
hiện các chương trình, Đề án, dự án.
Tài liệu tham khảo
Lê Xuân Bá và nhóm nghiên cứu (2009)
“Nghiên cứu dự báo chuyển dịch cơ cấu
lao động nông nghiệp, nông thônn và các
giải pháp giải quyết việc làm trong quá
tình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và đô thị hoá ở nước ta”. Đề tài
KX.02.01/06-10 (Chương trình khoa học
và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước).
Lê Xuân Bá, Trần Hữu Hân, Nguyên
Thị Kim Dung (2003) ‘Một số vấn đề về
phát triển thị trường lao động ở Việt Nam’.
Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật.
Nguyễn Thanh Hòa (2009) ‘Đẩy mạnh
tạo việc làm trong nước thời gian tới’. Tạp
chí Lao động và xã hội, số 350.
Nguyễn Đại Đồng (2009) ‘Đánh giá giữa
kỳ tình hình thực hiện Chương trình mục
tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2010’.
Tạp chí Lao động và xã hội, số 350.
Các nghiên cứu và thông tin trên các trang
web chính thức của các Bộ, ngành.
Trần Văn Tư (2009) “Chính sách hỗ trợ
đời sống vật chất, tinh thần cho người lao
động tại các khu sản xuất tập trung”
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_cua_nha_nuoc_doi_voi_su_phat_trien_cua_thi_truong_la.pdf