Như vậy, bệnh nhân báo cáo cũng được điều
trị theo đúng phác đồ trên thế giới đang áp dụng.
Trong 4 tuần đầu tiên, bệnh nhân được điều trị
nội khoa với liệu trình nhịn ăn, nuôi dưỡng đường
tĩnh mạch và duy trì octreotid liên tục đường tĩnh
mạch. Tuy nhiên sau 4 tuần dùng octreotid liên
tục, lượng dịch dưỡng chấp màng phổi không
hết. Và chúng tôi đã hội chẩn với chuyên khoa
ngoại để tiến hành thắt ống ngực cho bệnh nhân
nhằm giải quyết triệt để dịch màng phổi. Thắt
ống ngực là phẫu thuật thường được đặt ra đầu
tiên nếu không đáp ứng với điều trị nội khoa. Tỷ
lệ thành công của phẫu thuật này là 95%. Nếu
như ống ngực không được xác định rõ khi tiến
hành mở ngực thì việc thắt cả khối vùng trung
thất sau được tiến hành [3]. Mặc dù tỷ lệ thành
công là cao, nhưng bệnh nhân của chúng tôi
vẫn còn dịch dưỡng chấp màng phổi. Duy trì
tiếp octreotid liều 10 mcg/kg/giờ theo khuyến
cáo của các y văn trên thế giới vẫn không cải
thiện được lượng dịch màng phổi. Chúng tôi đã
đặt ra khả năng phải gây dính màng phổi cho
bệnh nhân. Tuy nhiên tại bệnh viện chúng tôi, kỹ
thuật này không được tiến hành thường quy và
kỹ thuật này cũng sẽ ảnh hưởng đến chức năng
hô hấp của bệnh nhân sau này. Vì thế chúng tôi
quyết định tăng octreotid liều cao gấp đôi liều
của y văn thế giới, là liều 20 mcg/kg/giờ. Chúng
tôi tiếp tục theo dõi và đánh giá đáp ứng với
thuốc ở liều cao này. Một báo cáo tại Nhật năm
2016 ghi nhận 3 trường hợp trẻ sơ sinh đáp ứng
điều trị với octreotid liều cao 20 mcg/kg/giờ [5].
Tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào sử dụng
octreotid liều 20 mcg/kg/giờ để điều trị bệnh lý
tràn dịch dưỡng chấp màng phổi.
Cả somatostatin và octreotid đều được ghi
nhận là an toàn và ít tác dụng phụ. Một số tác
dụng phụ bao gồm giảm glucose máu, buồn nôn,
tiêu chảy, suy thận viêm ruột hoại tử, rối loạn
chức năng gan, giảm chức năng tuyến giáp thứ
phát[4]. Trên bệnh nhân của chúng tôi, octreotid
có thể đã làm rối loạn chức năng gan và đường
mật. Một vài trường hợp dùng octreotid làm tăng
bilirubin kết hợp và phosphatase kiềm, gamma -
glutamyl transpeptidase và tăng transaminase ở
mức độ thấp. Sau khi dừng thuốc, chức năng gan
có thể trở lại bình thường [8].
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của Octreotid trong bệnh lý tràn dịch dưỡng chấp màng phổi ở trẻ em: Báo cáo trường hợp bệnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạp chí nhi khoa 2018, 11, 2
60
Vai trò của octreotid trong bệnh lý
tràn dịch dưỡng chấp màng phổi ở trẻ em:
báo cáo trường hợp bệnh
trịnh thị hiền, Đậu Việt hùng, trịnh thị dung, nguyễn thị lê
Đơn nguyên Hồi sức hô hấp - Hồi sức tích cực - Bệnh viện Nhi Trung ương
tÓm tẮt
Tràn dịch dưỡng chấp màng phổi lần đầu tiên được mô tả bởi Bartolet vào năm 1633 và đã
có rất nhiều nguyên nhân được tìm ra. Dịch dưỡng chấp trong khoang màng phổi bao gồm
chylomicron và lipoprotein tỷ trọng rất thấp (VLDL). Đây là hậu quả của một tắc nghẽn cơ học
của ống ngực và/hoặc một sự phân bố lại các các mạch bạch huyết chính. Cho đến nay, nhiều
tác giả đã tìm ra biện pháp điều trị bệnh. Điều trị nội khoa bao gồm nhịn ăn, nuôi dưỡng đường
tĩnh mạch và duy trì octreotid liên tục đem lại hiệu quả 80% các trường hợp bệnh. Chúng tôi
báo cáo một ca bệnh tràn dịch dưỡng chấp màng phổi vô căn dai dẳng điều trị thành công với
octreotid liều cao 20mcg/kg/giờ.
abStract
oUtcome oF octreotid in treatment oF chYlothoraX in children - caSe StUdY
Chylothorax was first described by Bartolet in 1633 and there were many reasons for its discovery.
Pleural effusion includes chylomicron and very low density lipoprotein (VLDL). This is the result of a
mechanical obstruction of the thoracic duct and/or a re-distribution of the major lymphatic vessels.
So far, many authors have found treatment methods. Conservative treatment includes complete
parenteral nutrition, continuous octreotid intravenous, success rate about 80% cases. We reported a
case of persistent chylothorax that successful treatment with high dose octreotid 20 mcg/kg/h.
Nhận bài: 10-3-2018; Thẩm định: 20-4-2018
Người chịu trách nhiệm chính: Trịnh Thị Hiền
Địa chỉ: Khoa Hồi sức tích cực - Bệnh viện Nhi Trung ương
61
phần nghiên cứu
1. báo cáo ca bệnh
Trẻ nữ, 47 ngày tuổi, vào viện vì khó thở. Bệnh
diễn biến 3 ngày với các triệu chứng thở nhanh,
khó thở, không sốt, không ho, không nôn. Bệnh
nhân nhập viện trong tình trạng suy hô hấp, thở
nhanh, khó thở, rút lõm lồng ngực, Sp02 90% với
oxy khí trời. Khám lâm sàng thấy giảm thông khí
phổi trái. Hệ tuần hoàn ổn định, thần kinh bình
thường. Các xét nghiệm ban đầu khẳng định
bệnh nhân bị tràn dịch màng phổi trái với lượng
dịch 32mm trên siêu âm, đường cong Damoiseau
trên Xquang ngực thẳng. Bệnh nhân không có
tình trạng nhiễm trùng, bạch cầu máu ngoại vi
là 6,3 G/l, tỷ lệ trung tính 35%, protein phản ứng
C là 0,26mg/l. Tiền sử của trẻ và tiền sử thai sản
không phát hiện gì đặc biệt.
Bệnh nhân được tiến hành chọc dịch màng
phổi trái ra 85ml dịch màu trắng sữa. Xét nghiệm
dịch thấy dày đặc tế bào với 68% tế bào lympho;
36,3 mmol/l triglyceride; 1,5mmol/l cholesterol;
32,1 g/l protein. Bệnh nhân được khẳng dịch
là tràn dịch dưỡng chấp màng phổi. Chúng tôi
không tìm thấy nguyên nhân gây bệnh khi chụp
CTscaner ngực không phát hiện bất thường
trong lồng ngực. Chụp xạ hình bạch mạch được
làm hai lần, tuy nhiên thuốc cũng không ngấm
đến ống ngực nên không khẳng định được có sự
bất thường cấu trúc ống ngực hay không. Các
xét nghiệm tìm một số marker gây bệnh cũng
âm tính. Trẻ bị bệnh tim bẩm sinh với tổn thương
thông liên thất kích thước 9,7mm shunt hai chiều,
chủ yếu là shunt T-P. Khi làm công thức nhiễm sắc
thể phát hiện đa hình nhiễm sắc thể số 1,15,22
nhưng không ảnh hưởng đến kiểu hình: 46XX,
1qh+, 15ps, 22pstk+.
Quá trình điều trị ban đầu bao gồm nhịn ăn
đường miệng, nuôi dưỡng đường tĩnh mạch, duy trì
liên tục octreotid với liều ban đầu là 2 mcg/kg/giờ,
tăng dần vào các ngày sau do lượng dịch dưỡng
chấp tiếp tục tăng dần. Sau 1 tháng điều trị với liệu
trình trên và duy trì octreotid liều 6,5mcg/kg/giờ,
lượng dịch màng phổi vẫn còn dai dẳng. Trong thời
gian này, bệnh nhân vẫn dùng các thuốc tim mạch
do thông liên thất: lopril, aldacton, lasix và thuốc
chống loạn nhịp flecanid. Như vậy, sau 1 tháng điều
trị nội khoa, lượng dịch dưỡng chấp màng phổi
không hết. Chúng tôi đặt ra khả năng phải tiến hành
thắt ống ngực cho bệnh nhân để giải quyết vấn đề
dịch dưỡng chấp màng phổi.
hình 1. Quá trình điều trị nội khoa của bệnh nhân
tạp chí nhi khoa 2018, 11, 2
62
Sau khi hội chẩn, bệnh nhân được phẫu thuật
thắt ống ngực và mổ vá thông liên thất cùng
trong một cuộc mổ vào ngày thứ 50 sau vào viện.
Sau khi thắt ống ngực, lượng dịch màng phổi vẫn
tiếp tục ra khoảng 10-20 ml/ ngày. Sau khi duy
trì lại octreotid liều 10 mcg/kg/giờ trong 15 ngày,
lượng dịch dưỡng chấp màng phổi vẫn còn ra
trung bình 20ml/ngày trong thời gian này. Sau
đó, chúng tôi quyết định tăng dần liều octreotid
mỗi 2,5mcg/kg/giờ trong 5 ngày. Ở giai đoạn liều
octreotid 15 - 17,5mcg/kg/giờ, lượng dịch dưỡng
chấp dẫn lưu vẫn duy trì ở mức 20 ml/ngày. Trẻ
đạt liều 20 mcg/kg/giờ ở thời điểm ngày thứ 32
sau thắt ống ngực. Sau 1 tuần duy trì octreotid
liều cao 20 mcg/kg/giờ, dịch dưỡng chấp màng
phổi không còn ra nữa. Bệnh nhân được ăn sữa
pregestmilk vào ngày thứ 42 sau khi thắt ống
ngực. Trong thời gian ăn đường miệng với lượng
sữa từ từ tăng dần, chúng tôi vẫn duy trì octretid
liều cao. Trẻ được ăn hoàn toàn sữa pregestmilk
vào ngày thứ 60 sau thắt ống ngực và dừng
octreotid liều cao sau 30 ngày duy trì (ngày thứ
112 sau vào viện). Trẻ khỏe mạnh và được ra viện
sau 120 ngày điều trị.
Khi duy trì octreotid duy trì đường tĩnh mạch,
đặc biệt là trong khoảng thời gian dùng octreotid
liều 20 mcg/kg/giờ, chúng tôi phát hiện trẻ có
biểu hiện vàng da và phân nhạt màu dần dần. Xét
nghiệm cho thấy nồng độ bilirubin toàn phần
là 100 mmol/l, trong đó nồng độ bilirubin trực
tiếp là 52,9 mmol/l và bilirubin gián tiếp là 37,8
mmol/l, nồng độ GGT 1169 mmol/l, ALP là 308
mmol/l, GOT là 64,9 UI/L, GPT là 25 UI/L. Siêu âm
có hình ảnh sỏi bùn túi mật. Chúng tôi đã loại trừ
bệnh lý teo mật bẩm sinh và một số bệnh lý gây
tổn thương gan do virus lây truyền qua đường
máu bao gồm viêm gan A, B, C, virus CMV, EBV,
HIV. Tuy nhiên, chúng tôi không định lượng được
nồng độ octreotid trong máu. Sau dừng octreotid 1
tuần, triệu chứng vàng da và phân bạc màu cải
thiện dần. Chúng tôi cũng khẳng định biểu hiện
vàng da là một trong các tác dụng phụ của octreotid
mà đã được báo cáo trong một số y văn.
2. bàn lUẬn
Tràn dịch dưỡng chấp màng phổi là một bệnh
lý hiếm gặp. Nguyên nhân của bệnh bao gồm
các dị tật bẩm sinh, biến chứng sau mổ, huyết
khối tĩnh mạch dưới xương đòn, giãn bạch bạch
bẩm sinh, chấn thương ống ngực và khối u vùng
ngực. bệnh được chia thành 2 nhóm bẩm sinh
và mắc phải [1], [2]. Bệnh biểu hiện với sự thoát
bạch huyết vào khoang màng phổi, gây mất một
lượng lớn các tế bào lympho, protein, các kháng
thể, các yếu tố đông máu và gây tình trạng rối
loạn điện giải. Nhiều biện pháp điều trị cũng
được báo cáo là có hiệu quả. Trong đó biện pháp
điều trị nội khoa được coi là biện pháp lựa chọn
điều trị đầu tiên [3].
Somatostatin là một hormone nội sinh với
nhiều tác dụng trên đường tiêu hóa đã được
chứng minh là có hiệu quả trong điều trị tràn
dịch dưỡng chấp màng phổi. Cơ chế hoạt động
của somatostatin cũng chưa rõ ràng. Có nhiều khả
năng cho rằng somatostatin làm giảm lưu lượng
tưới máu đường ruột bằng cách co các mạch máu
và giảm sản xuất dịch lympho. Somatostatin cũng
làm giảm nhu động dạ dày, giảm sản xuất các
men tụy và quá trình bài tiết mật. Do đó, nó làm
giảm lưu lượng bạch huyết trong ống ngực.
Octreotid có lợi thế hơn somatostatin vì thời gian
bán hủy dài hơn, hiệu lực lớn hơn và có thể dùng
đường dưới da [4]. Tuy nhiên chưa có đồng thuận
về khoảng thời gian dùng loại hormone này. Một
số tác giả cho rằng việc sử dụng octreotid càng
sớm thì càng giúp giảm lượng dịch màng phổi và
hạn chế các biến chứng do tràn dịch dưỡng chấp
màng phổi gây ra như giảm albumin máu, giảm
protein máu, mất các kháng thể vào dịch dưỡng
chấp và tình trạng rối loạn điện giải [5].
Somatostatin và octreotid có thể được dùng
dưới dạng truyền tĩnh mạch liên tục hoặc liều
bolus tiêm tĩnh mạch hoặc đường dùng dưới
da. Nghiên cứu của Roehr và cộng sự năm 2006
cho thấy nhóm bệnh nhân được dùng octreotid
đường tĩnh mạch có thời gian điều trị ngắn hơn
so với đường dùng dưới da. Liều dùng có thể
63
phần nghiên cứu
bắt đầu từ 0,5 mcg/kg/giờ, tăng dần liều lên
10 - 12 mcg/kg/giờ. Thời gian giảm dịch dưỡng
chấp màng phổi thường thấy từ ngày thứ 3 đến
ngày thứ 6 sau điều trị octreotid [6]. Biện pháp
điều trị nội khoa được báo cáo thành công
khoảng 80% các trường hợp. Nếu sau 4 tuần
điều trị nội khoa không đáp ứng, các chỉ định
phẫu thuật sẽ được cân nhắc bao gồm có thắt
ống ngực, gây dính màng phổi, tạo shunt trong
phổi [7].
Như vậy, bệnh nhân báo cáo cũng được điều
trị theo đúng phác đồ trên thế giới đang áp dụng.
Trong 4 tuần đầu tiên, bệnh nhân được điều trị
nội khoa với liệu trình nhịn ăn, nuôi dưỡng đường
tĩnh mạch và duy trì octreotid liên tục đường tĩnh
mạch. Tuy nhiên sau 4 tuần dùng octreotid liên
tục, lượng dịch dưỡng chấp màng phổi không
hết. Và chúng tôi đã hội chẩn với chuyên khoa
ngoại để tiến hành thắt ống ngực cho bệnh nhân
nhằm giải quyết triệt để dịch màng phổi. Thắt
ống ngực là phẫu thuật thường được đặt ra đầu
tiên nếu không đáp ứng với điều trị nội khoa. Tỷ
lệ thành công của phẫu thuật này là 95%. Nếu
như ống ngực không được xác định rõ khi tiến
hành mở ngực thì việc thắt cả khối vùng trung
thất sau được tiến hành [3]. Mặc dù tỷ lệ thành
công là cao, nhưng bệnh nhân của chúng tôi
vẫn còn dịch dưỡng chấp màng phổi. Duy trì
tiếp octreotid liều 10 mcg/kg/giờ theo khuyến
cáo của các y văn trên thế giới vẫn không cải
thiện được lượng dịch màng phổi. Chúng tôi đã
đặt ra khả năng phải gây dính màng phổi cho
bệnh nhân. Tuy nhiên tại bệnh viện chúng tôi, kỹ
thuật này không được tiến hành thường quy và
kỹ thuật này cũng sẽ ảnh hưởng đến chức năng
hô hấp của bệnh nhân sau này. Vì thế chúng tôi
quyết định tăng octreotid liều cao gấp đôi liều
của y văn thế giới, là liều 20 mcg/kg/giờ. Chúng
tôi tiếp tục theo dõi và đánh giá đáp ứng với
thuốc ở liều cao này. Một báo cáo tại Nhật năm
2016 ghi nhận 3 trường hợp trẻ sơ sinh đáp ứng
điều trị với octreotid liều cao 20 mcg/kg/giờ [5].
Tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào sử dụng
octreotid liều 20 mcg/kg/giờ để điều trị bệnh lý
tràn dịch dưỡng chấp màng phổi.
Cả somatostatin và octreotid đều được ghi
nhận là an toàn và ít tác dụng phụ. Một số tác
dụng phụ bao gồm giảm glucose máu, buồn nôn,
tiêu chảy, suy thận viêm ruột hoại tử, rối loạn
chức năng gan, giảm chức năng tuyến giáp thứ
phát[4]. Trên bệnh nhân của chúng tôi, octreotid
có thể đã làm rối loạn chức năng gan và đường
mật. Một vài trường hợp dùng octreotid làm tăng
bilirubin kết hợp và phosphatase kiềm, gamma -
glutamyl transpeptidase và tăng transaminase ở
mức độ thấp. Sau khi dừng thuốc, chức năng gan
có thể trở lại bình thường [8].
Tình trạng sỏi mật liên quan đến sử dụng
octreotid cũng được báo cáo trong một vài
nghiên cứu. Octreotid làm tăng độ tập trung
bilirubin trong đường mật, đẫn đến ứ mật, ứ calci
và thành phần muối mật. Sự thay đổi. trong thành
phần muối mật có thể tăng khả năng cô đặc
cholesterol và calci bilirubin. Có thể giải thích tình
trạng tăng hình thành sỏi mật ở bệnh nhân dùng
octreotid lâu dài. Với tình trạng như vậy, bệnh
nhân của chúng tôi vần được ra viện và hẹn khám
lại để theo dõi mức độ tổn thương đường mật.
tạp chí nhi khoa 2018, 11, 2
64
hình 2. Tác dụng phụ của octreotid trên cơ quan gan mật[8]
3. KẾt lUẬn
Sự ra đời và ứng dụng của octreotid trong y
học lâm sàng giúp cải thiện đáng kể trong điều
trị bệnh lý tràn dịch dưỡng chấp màng phổi. Liều
lượng dùng thuốc còn chưa được khuyến cáo cụ
thể. Liều octreotid 20 mcg/kg/giờ đã được báo
cáo điều trị thành công bệnh lý tràn dịch dưỡng
chấp màng phổi. Tuy nhiên, cần nhiều nghiên
cứu hơn để đánh giá hiệu quả của octreotid liều
cao. Cũng nên theo dõi và đánh giá tác dụng phụ
của octreotid trên cơ quan tiêu hóa.
tài liệU tham KhẢo
1. Skouras V. et Kalomenidis i. (2010).
Chylothorax: diagnostic approach, Curr Opin
Pulm Med, 16(4), 387-393.
2. helin r.d. , angeles S.t. et bhat r. (2006).
Octreotide therapy for chylothorax in infants and
children: A brief review, Pediatr Crit Care Med,
7(6), 576-579.
3. John e heffner et al (2017). Management of
chylothorax, https://www.uptodate.com.
4. Soto-martinez m et massie J. (2009).
Chylothorax: diagnosis and management in
children, Paediatr Respir Rev, 10(4), 199-207.
5. tomohiro Kamoda, makoto Saito, daigo
Kajikawa (2016). High Dose Octreotide for the
Treatment of Chylothorax in Three Neonates,
Journal of Neonatal Biology.
6. roehr c.c., Jung a. , proquitte h. et al.
(2006). Somatostatin or octreotide as treatment
options for chylothorax in young children: a
systematic review, Intensive Care Med, 32(5),
650-657.
7. tutor J.d. (2014). Chylothorax in infants and
children, Pediatrics, 133(4), 722-733.
8. harris a.S. (2003). The clinical development
of the somatostatin analogue octreotide.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
vai_tro_cua_octreotid_trong_benh_ly_tran_dich_duong_chap_man.pdf