Vai trò của oda nhật bản với nền kinh tế một số nước Asean

Nhật Bản là một quốc gia nằm ở Đông Bắc Á, có diện tích khoảng 377.810 km2, dân số 125.700.000 người. Với điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, hầu hết lượng tài nguyên khoáng sản sử dụng trong các nghành công nghiệp phải nhập khẩu từ nước ngoài, thêm vào đó nền kinh tế bị tàn phá nặng nề sau Chiến Tranh thế giới II, nhưng bất chấp những điều kiện hạn chế này Nhật Bản đã không những có thể xây dựng lại nền kinh tế của mình mà còn trở thành một trong những quốc gia công nghiệp hàng đầu trong hệ thống các nước tư bản. Hiện nay Nhật Bản là một trong 3 trung tâm kinh tế- tài chính lớn nhất thế giới. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) của Nhật năm 2001 đạt 4800 tỷ USD, chiếm 19,1% GNP toàn thế giới, bằng khoảng 70% GNP của Đông Á và gấp 10 lần GNP của các nước ASEAN. GNP tính theo đầu người đạt khoảng 39000 USD.

doc90 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của oda nhật bản với nền kinh tế một số nước Asean, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à 382,55 triệu USD, trong đó tài trợ tín dụng là 217,84 và viện trợ không hoàn lại là 164,72 triệu USD. So với năm 1993 thì tổng ODA đã tăng lên 22,45 triệu USD. Cac dự án nhận tài trợ tín dụng khối lượng lớn là: Dự án thủy lợi Lang Taklong: 182,42; củng cố hệ thống phân phối điện (giai đoạn II): 21223; khôi phục đường giao thông: 7651; cải thiện giao thông khu vực: 16029; củng cố chương trình giáo dục và phát triển kỹ thuật: 7806 (Đơn vị: Triệu yên) Trong thời giai từ 1995-1997 viện trợ ODA của Nhật Bản cho nước này có xu hướng giảm, đặc biệt giảm mạnh vào 1997, vì năm đó xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ, Thái Lan là một nước chịu ảnh hưởng rất nặng nề, đồng Bạt của Thái bị mất giá. Cho nên các nhà đầu tư cũng như các nhà cung cấp ODA đã giảm lượng đầu tư vào Thái Lan. Những năm sau đó nền kinh tế của nước này dần dần ổn định, Nhật Bản tiếp tục viện trợ cho Thái Lan. Cụ thể như sau Vào năm 1998, có 8 chương trình viện trợ không hoàn lại được thực hiện ở Thái Lan, đó là: Dự án phát triển nguồn nhân lực; dự án xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp; dự án xây dựng đại học Chiang Mai; dự án phát triển nông nghiệp- nông thôn ở khu vực ngoại ô thủ đô Băng Kốc; dự án đào tạo kỹ thuật chăm sóc sức khỏe cộng đồng; dự án nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm thủy hải sản để xuất khẩu; dự án xây dựng công trình thủy lợi- cải tạo đất khu vực Đông- Nam Thái Lan; Dự án phát triển công nghiệp ở Bang Sa Phan. Năm 1999 có tất cả 17 dự án được nhận viện trợ ODA của Nhật Bản. Sau đây là một số dự án tiêu biểu: Dự án xây dựng trung tâm đào tạo viễn thông; cung cấp thiết bị cho học viện kỹ thuật quốc gia; cung cấp thiết bị hợp tác phát triển nông nghiệp; dự án tăng năng suất lương thực; Xây dựng nâng cấp sân bay quốc tế Băng Kốc; Dự án cải thiện môi trường ở Băng Kốc Năm 2000 có 36 dự án được nhận viện trợ ODA từ Nhật Bản, đây là một con số rất cao điều này chứng tỏ nền kinh tế Thái Lan đã thực sự phục hồi sau khủng hoảng, vì thế Nhật Bản nói riêng và các nước khác nói chung lại bắt đầu tiếp tục đầu tư , cung cấp ODA cho nước này. Dưới đây là một số dự án lớn trong năm 2000: Dự án xây dựng viện kỹ thuật công nghiêp; dự án cải tạo môi trường và sử lý chất thải ở thành phố lớn; hiện đại hóa hệ thống cung cấp nước ở Thái Lan; dự án cung cấp thiết bị cho sản xuất thức ăn gia súc; dự án nâng cấp hệ thống giao thông; xây dựng hệ thống thủy lợi ở vùng nông thôn; dự án phát triển lâm nghiệpvv... Nói tóm lại nhờ có nguồn ODA của Nhật Bản mà Thái lan đã xây dựng được một hệ thống cơ sở hạ tầng khá đồng bộ và thuận lợi tạo điều kiện phát triển kinh tế ổn định, thu hút đầu tư nước ngoài vào Thái Lan ngày một tăng. Nhưng ngược lại lĩnh vực y tế và văn hóa chưa được đầu tư nhiều vì vậy hai lĩnh vực này hiện nay vẫn đang gặp phải một số khó khăn cần phải giải quyết ngay. Một điểm cần nhấn mạnh ở đây đó là quan hệ ODA của Nhật bản và Thái Lan đã được thực hiện trong nhiều thập kỷ, nói chung tiến triển khá thuận lợi vì nó mang lại lợi ích cho cả hai bên. Song trên thực tế cũng còn tồn tại một số khó khănvướng mắc cần giải quyết. 2.Một số hạn chế trong sử dụng ODA của Nhật Bản ở Thái Lan. Kể từ khi thay đổi chính sách kinh tế để phát triển đất nước Thái Lan đầu tư quá nhiều vào các nghành công nghiệp vì tư tưởng nóng vội tiến lên công nghiệp hóa. Nhưng chúng ta đều biết rằng điều gì cũng phải trả giá, sau một thời gian Thái Lan đã đạt tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ, sản phẩm thuộc khu vực công nghiệp chiếm 40% tổng sản phẩm trong nước, trong khi đó khu vực nông nghiệp chỉ chiếm 10%. Trong thập kỷ 90 nghành công nghiệp chế biến của Thái Lan tăng mạnh nhất, bình quân mỗi năm tăng 10%. Với tốc độ tăng trưởng mạnh như vậy, Thái Lan đã gặp phải không ít khó khăn khi môi trường xuống cấp quá nghiêm trọng. Môi trường bị ô nhiễm ảnh hưởng rất xấu đến bầu không khí, gây hại cho sức khỏe nhân dân, dẫn đến xuất hiện rất nhiều bệnh truyền nhiễm khó chữa. Đây chính là bài học không thành công của Thái Lan trong việc thu hút và sử dụng ODA. Thái Lan và nhà tài trợ Nhật Bản xảy ra một số bất đồng trong quá trình thực hiện các dự án cụ thể như sau: Phía nhà tài trợ Nhật Bản luôn áp đặt là phải dùng nguyên vật liệu của Nhật Bản xong phía Thái Lan lại muốn dùng nguyên liệu của mình, tuy nhiên phía Nhật luôn giành phần thắng vì họ có quyền quyết định như vậy. Hơn nữa trong việc đấu thầu thực hiện các công trình luôn ưu tiên cho các doanh nghiệp Nhật Bản, các doanh nghiệp Thái Lan luôn cảm thấy không công bằng. Chính vì thế xảy ra một số mâu thuẫn làm giảm hiệu quả thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản ở Thái Lan. 3.Bài học kinh nghiệm thành công của Thái Lan. ăNgay từ đầu Thái Lan biết xác định rõ ràng các lĩnh vực ưu tiên để thu hút nguồn vốn ODA của Nhật Bản. Những lĩnh vực được chọn để ưu tiên có cơ cấu hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh xã hội cũng như điều kiện kinh tế của Thái Lan, đó là : Phần viện trợ không hoàn lại được sử dụng vào các lĩnh vực hạ tầng xã hội hoặc vào những lĩnh vực có tác động lớn đến đại đa số quần chúng nhân dân; Phần viện trợ tín dụng sử dụng để đầu tư cho các lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài, không hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước như các dự án thuộc hạ tầng kinh tế: Giao thông, viễn thông, năng lượng, thủy lợi... ăThái Lan được đánh giá là quốc gia sử dụng có hiệu quả nhất nguồn vốn ODA của Nhật Bản trong 4 nước Asean cũ (Thái Lan, Inđônêxia, Philippin, Malaysia). Bởi vì nước này đã sử dụng vốn vay một cách mạnh mẽ cho giao thông trong những năm 1980.Trong khi Philippin đã sử dụng vốn đó cho nghành năng lượng và vốn vay hàng hóa, đây chính là sai lầm cơ bản của Philippin. ăThái Lan đã sử dụng nhiều vốn vay Nhật Bản cho phát triển công nghiệp và nông nghiệp trong những năm 1980 vì đây là hai nghành kinh tế then chốt của một quốc gia bình thường trong khi đó Philippin lại đầu tư ít cho hai nghành này. ăThái Lan rất chú trọng việc chuẩn bị tốt dự án xin viện trợ: Việc chuẩn bị các dự án trước khi xin viện trợ sẽ giúp cho Thái Lan chủ động định hướng nguồn vốn là lĩnh vực đầu tư ưu tiên. Từ đó có kế hoạch sử dụng đúng mục đích và kế hoạch trả nợ hợp lý. Khi đề xuất với bên cấp viện trợ, Chính phủ Thái Lan thường tiến hành xem xét để xác định trước những vấn đề sau: Tính cấp thiết của dự án Nên vay nước ngoài hay huy động vốn trong nước. Định rõ mức vốn cần vay và mức huy động trong nước. Hiệu quả sử dụng và khả năng hoàn trả trong tương lai. Sau đó tiến hành đàm phán ở cấp Chính Phủ để lựa chọn nguồn vay với mức lãi suất cũng như các điều kiện ưu đãi khác. Khi chưa có phê duyệt của Chính Phủ, các chủ dự án không được tiếp xúc với đối tác nước ngoài để tránh những cuộc vận động ngầm không khách quan. ăThái Lan là một quốc gia có chính sách thận trọng trong việc vay tín dụng ODA, nhất là vay từ Nhật Bản. Sự thận trọng này cũng rất tốt bởi vì với một quốc gia còn nghèo thì rất sợ đi vay nợ , khả năng trả nợ của họ rất hạn chế. Nếu một quốc gia nào đó mà bị khủng hoảng kinh tế- xã hội, thực hiện vay tín dụng tràn lan, thiếu căn cứ khoa học, không tính toán chắc chắn lại rơi vào tình trạng khó khăn hơn. ăQui định rõ ràng nguyên tắc sử dụng vốn ODA. Các điều khoản khi sử dụng vốn vay được quy định khá chặt chẽ. Mỗi dự án bắt buộc phải có khoản chi về tư vấn chiếm từ 4-5% trị giá dự án và phải được thực hiện bởi các công ty tư vấn có trình độ, có năng lực thực sự về thiết lập luận chứng kinh tế- kỹ thuật, thiết kế chi tiết thực hiện dự án, mua sắm thiết bị với tính năng kỹ thuật hiện đại, giá cả hợp lý.. Phần thi công công trình và mua sắm thiết bị phải được tiến hành đấu thầu theo nguyên tắc: Nếu trong nước đảm đương được thì thực hiện đấu thầu trong nước; nếu đấu thầu quốc tế phải tham khảo chi tiết về giá, tính năng kỹ thuật để chọn nhà thầu tốt nhất. ăMột bài học thành công nổi bật của Thái Lan đó là qui định rõ hạn mức vay và trả nợ hàng năm. Đây là một trong những biện pháp giúp Thái Lan không bị sa lầy vào vòng nợ nần như một số nước khác do xác định rõ "trần vay, trả" hàng năm. Mọi khoản vay không được tính là nguồn thu ngân sách, nhưng các khoản trả nợ lại phải tính vào các khoản chi để cân đối ngân sách quốc gia hàng năm. Chính phủ Thái Lan thường khống chế như sau: Mức vay nợ không quá 10% thu ngân sách. Mức trả nợ bằng 9% kim ngạch xuất khẩu hoặc 20% chi ngân sách, nhằm cân đối khả năng vay- trả và mức xuất khẩu phù hợp với đất nước. Nhiều dự án có nguồn vay phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của Thái Lan, nhưng do các chỉ tiêu lại vượt quá mức cho phép nên bị gác lại. Chính biện pháp này giúp Thái Lan luôn là nước trả nợ đúng hạn mặc dù là nước vay nợ nước ngoài cao: Từ 1980 Thái Lan vay nợ bình quân 1,75 tỷ USD/năm. ăTrong thời gian từ 1975 đến 1989 quan hệ thương mại Nhật- Thái phát triển mạnh, do đó ở Thái Lan xảy ra hiện tượng thiếu hụt mậu dịch rất lớn, năm 1975 là: 425 triệu USD, tới năm 1989: 4,46 tỷ USD, tuy nhiên chính khoản thiếu hụt mậu dịch này trở thành một trong những nhân tố thúc đẩy Nhật Bản mở rộng ODA cho Thái Lan. Bởi vì dựa vào sự tài trợ này, nghành công nghiệp Thái Lan có thêm cơ hội phát triển, từng bước mở rộng xuất khẩu và thiếu hụt mậu dịch sẽ được khắc phục. Như vậy trong trường hợp này thiếu hụt mậu dịch- một bất lợi trong thương mại, nhưng lại trở thành một lợi thế trong việc mở rộng tài trợ ODA. ăThái lan là một quốc gia có chính sách thu hút tài trợ nước ngoài phù hợp với xu hướng chung của thế giới, cho nên nó mang lại hiệu quả kinh tế xã hội rất cao. Chương III Một số gợi ý đối với việt nam trong việc thu hút và sử dụng oda của nhật bản I. Thực trạng thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản ở Việt Nam. 1. ODA của Nhật bản với Việt Nam. Nhật Bản bắt đầu cung cấp ODA cho Việt Nam vào năm 1975, so với 4 nước đã nêu ở trên thì muộn hơn cả. Tuy nhiên trước 1975 chính phủ Nhật bản cũng đã cung cấp tín dụng ODA cho chính quyền Sài Gòn với khối lượng rất nhỏ bên cạnh khoản bồi thường chiến tranh trị giá 13 tỷ Yên. Sau một thời gian dài thực hiện chính sách "đóng băng" đến 1992 Nhật Bản nối lại hoàn toàn viện trợ cho Việt Nam, ODA của Nhật Bản tăng dần và hiện nay đang đứng đầu các nhà tài trợ cho Việt Nam kể từ 1995. 1.1.Giai đoạn 1975-1978: Trong giai đoạn này hoạt động ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam chỉ gồm các khoản viện trợ không hoàn lại dưới dạng máy móc, thiết bị, vật tư, hàng hóa. Trong hai năm 1975-1976, chính phủ Nhật Bản quyết định cung cấp viện trợ không hoàn lại đầu tiên cho Việt Nam thông qua việc cung cấp máy đào, xúc, san nền trị giá 8,5 tỷ yên. Sang năm 1976, Nhật Bản tiếp tục tài trợ không hoàn lại cho Việt Nam 5 tỷ yên dưới hình thức cung cấp thiết bị và nguyên liệu cho một nhà máy sản xuất xi măng có tổng trị giá là 5 tỷ yên. Tổng số 13,5 tỷ yên này là không lớn và theo các nhà nghiên cứu khoản viện trợ này chính là khoản bồi thường chiến tranh cho Việt Nam, mà có lẽ nó phải được thực hiện trước đó rất lâu. Mặc dù khi các nhà kinh tế đưa ra những nhận định như trên Chính phủ Nhật Bản không chính thức thừa nhận như vậy. Song điều quan trọng hơn cả là chương trình tài trợ trong hai năm 1975-1976 đã có ý nghĩa như là điểm mốc đánh dấu sự khởi đầu cho mối quan hệ Nhật- Việt. Tháng 8/ 1977 học thuyết Fukuda được công bố, đưa ra chính sách ngoại giao Đông Nam á mới của Nhật Bản. Cùng với sự mở rộng và củng cố hợp tác ngoại giao kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội với khu vực ASEAN, Nhật Bản tiếp tục mở rộng ảnh hưởng nhiều mặt của họ ra các nước Đông Dương thông qua sự đóng góp về kinh tế, giúp các nước này tái thiết đất nước sau chiến tranh và Nhật Bản chủ trương duy trì một vai trò chính trị trông qua hành động như là chiếc cầu nối giữa ASEAN và các quốc gia Đông Dương. Tháng 4/ 1978, Chính phủ Nhật Bản tài trợ không hoàn lại số thiết bị và hàng hóa (sợi bông, sợi tổng hợp, thiết bị phân phối điện) trị giá 4 tỷ yên cho Chính phủ Việt Nam. Đồng thời Nhật Bản muốn gắn trách nhiệm hoàn trả 15,5 tỷ yên mà chính quyền Sài Gòn vay trước đó cho Chính phủ Việt Nam. Sau hai năm thương lượng, bàn cãi, cuối cùng hai nước cũng đã đạt đến một thoả thuận, ký kết một ghi nhớ về "hoàn trả tín dụng và nợ". Sau khi bản ghi nhớ này được ký kết tình hình diễn ra rất thuận lợi. Tháng 7/1978 một khoản tín dụng hàng hóa 10 tỷ yên cho Chính Phủ Việt Nam đã được thực hiện dưới dạng phân bón, sợi, thiết bị điện tử, dụng cụ sản xuất, thuốc, xi măng, hóa chất và cao su.Thế nhưng việc Việt Nam giúp nhân dân Campuchia tiến hành cuộc chiến tranh xóa bỏ chế độ diệt chủng Pônpốt là lý do trì hoãn việc cung cấp ODA của Nhật Bản cho Việt Nam. Biểu 12:ODA Nhật Bản dành cho Việt Nam giai đoạn 1975-1978: Đơn vị: tỷ yên Năm Tài trợ không hoàn lại Tài trợ tín dụng 1975 8,5 0 1976 5 0 1977 0 0 1978 4 10 ( Nguồn: Japan Annual Report : 1978) Như vậy trong 4 năm tổng ODA Nhật Bản cho Việt Nam chỉ đạt 27,5 tỷ yên, con số này rất thấp so với 3 nước đã nêu trên. Điều này chứng tỏ giai đoạn đầu cung cấp ODA cho Việt Nam, Nhật Bản rất "dè chừng" có rất nhiều lý do giải thích nhưng lý do khách quan nhất là bởi vì Việt Nam vừa mới thống nhất, nền kinh tế còn nghèo nàn, Nhật bản chưa rõ hướng đi của Việt Nam, vì vậy Nhật Bản chưa tin tưởng vào sức phát triển của Việt Nam trong tương lai. 1.2. Giai đoạn 1979- 1991. Chính phủ Nhật Bản thực hiện chính sách "đóng băng" hoạt động cung cấp ODA cho Việt Nam. Tuy nhiên trong suốt giai đoạn này, Nhật Bản vẫn duy trì cung cấp cho Việt Nam thông qua các khoản viện trợ nhân đạo với khối lượng rất nhỏ. Thực chất các khoản viện trợ nhân đạo này mang tính chất "duy trì" các quan hệ ngoại giao nhiều hơn. Dẫu sao thì các khoản viện trợ nhân đạo và việc duy trì các cuộc tiếp xúc ngoại giao giữa hai nước trong suốt hơn một thập kỷ trước khi nối lại viện trợ ODA chính thức vẫn là những chất xúc tác làm ấm một phần quan hệ song phương vốn bị lạnh cóng do chính sách "đóng băng" của Nhật Bản. 1.3.Giai đoạn 1992 đến nay: Đây được coi là giai đoạn phát triển nhất trong suốt quá trình thực hiện ODA của Nhật Bản tại Việt Nam. Nhật Bản và ASEAN có mối quan hệ khá khăng khít về mọi mặt kinh tế- chính trị- văn hóa xã hội. Bộ trưởng ngoại giao Nhật còn tuyên bố trong chuyến đi thăm Inđônêxia rằng "Nhật Bản chỉ nối lại tài trợ cho Việt Nam sau khi tham khảo ý kiến của ASEAN ". Trong những năm cuối thập kỷ 80 và đầu 90 đã có những cuộc thăm viếng đều đặn của lãnh đạo hai nước, điều này thể hiện thiện chí và nỗ lực của cả hai phía nhằm nối lại hoạt động cung cấp ODA cho Việt Nam. Sự kiện quân đội Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, là một dấu hiệu đáng mừng để rút ngắn khoảng cách quan hệ Việt Nam- ASEAN, quan hệ ngoại giao của Việt Nam ngày càng được cải thiện rõ rệt, đặc biệt là sau khi Thủ tướng Thái Lan Chatichai Choonhavan nêu cao khẩu hiệu ủng hộ các nước Đông Dương, và còn đề nghị Nhật Bản nối lại hoạt động cung cấp ODA cho Việt Nam vào tháng 4/ 1990. Đây cũng chính là thời điểm công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ cụ thể là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,2%, thoát khỏi tình trạng lạm phát kéo dài...Từ 1992-2000 viện trợ của Nhật Bản cho Việt Nam gia tăng đều đặn, tổng gía trị ODA đạt 744 tỷ yên (số cam kết), giá trị này gồm vốn vay ODA: 525 tỷ yên; viện trợ không hoàn lại: 59 tỷ yên; hỗ trợ kỹ thuật: 33 tỷ yên. Chương trình hỗ trợ cho Việt Nam đặt ưu tiên để tạo điều kiện phát triển bền vững và hỗ trợ xóa đói giảm nghèo. Để theo đuổi mục tiêu trên, đã đề ra năm lĩnh vực ưu tiên như sau: Phát triển nguồn nhân lực và thể chế. Phát triển cơ sở hạ tầng. Phát triển nông nghiệp và nông thôn Phát triển giáo dục và y tế. Bảo vệ môi trường. Với việc hoạch định rõ ràng năm lĩnh vực như trên vào năm 1992 Nhật Bản tài trợ cho Việt Nam tổng số là 46,7 tỷ yên, đưa Nhật Bản lên vị trí số 1 trong số các nước cung cấp viện trợ ODA cho Việt Nam. Trong đó tài trợ không hoàn lại là 1,2 tỷ yên và tài trợ tín dụng là 45,5 tỷ yên. Một số dự án lớn được cấp tài trợ không hoàn lại là: Dự án phục hồi và nâng cấp bệnh viện Chợ Rẫy- thành phố Hồ Chí Minh: 840 triệu yên; dự án cung cấp thiết bị y tế cho bệnh viện Hai Bà Trưng Hà Nội: 351 triệu yên; dự án trồng rừng ở Đắc Lắc: 333 triệu yên; dự án cung cấp thiết bị thể dục cho bộ văn hóa: 49 triệu yên; và 4 dự án nhỏ khác trị giá 14 triệu yên. Năm 1993 có tổng số 16 dự án- chương trình được nhận tài trợ ODA của Nhật Bản.Trong đó có 8 dự án được cấp tín dụng đó là: Xây dựng nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ (giai đoạn I): 26942; xây dựng nhà máy nhiệt điện Phả Lại: 730; Xây dựng nhà máy thủy điện Hàm Thuận- Đa Mi: 1463; Nâng cấp đường quốc lộ số I (giai đoạn I): 3870; khôi phục cầu trên tuyến đường sắt Hà Nội- thành phố Hồ Chí Minh (giai đoạnI): 4042; Nâng cấp cảng Hải Phòng (giai đoạn I): 3975; Tín dụng hàng hóa: 2500. Ngoài ra có 8 dự án được nhận viện trợ không hoàn lại: Tiếp tục khôi phục và nâng cấp bệnh viện chợ Rẫy: 803; cải thiện hệ thống cung cấp nước ở khu vực Gia Lâm- Hà Nội (giai đoạnI): 984; cung cấp thiết bị dạy học cho khoa Nông nghiệp thuộc Đại học Cần Thơ: 788; cải thiện hệ thống cung cấp nước khu vực Gia Lâm- Hà Nội (giai đoạnII): 65; Tài trợ không dự án: 3000; cải thiện thiết bị y tế cho thành phố Hà Nội: 565; các dự án nhỏ khác: 19 (Đơn vị : triệu yên). Năm 1994 tổng tài trợ không hoàn lại là 79,64 ttriệu USD. Tài trợ tín dụng vẫn tiếp tục cung cấp cho các dự án từ năm trước. Trong đó có 9 dự án nhận tài trợ không hoàn lại với tổng trị giá là 5672 triệu yên: Tiếp tục khôi phục và nâng cấp bệnh viện Chợ Rẫy: 877; cải thiện thíêt bị y tế cho bệnh viện Hà Nội: 1126; cải thiện hệ thống cung cấp nước cho khu vực Gia Lâm- Hà Nội (giai đoạnIII): 1512; xây dựng các trường tiểu học (giai đoạn I): 1446; xây dựng cảng cá Vũng Tàu: 379; cung cấp thiết bị âm nhạc cho nhạc viện Hà Nội: 43; cung cấp hệ thống thực nghiệm ngôn ngữ cho đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh: 42; một số dự án nhỏ khác: 12 (Đơn vị: triệu yên). Từ năm 1995 đến nay Chính phủ Nhật Bản đã tài trợ không hoàn lại cho Việt Nam với tổng trị giá là : 11947 triệu yên. Phân bổ cho xây dựng cảng cá Vũng Tàu (giai đoạnII): 238 triệu yên; dự án tiêm chủng mở rộng toàn quốc. Đồng thời là khoản tín dụng 70 tỷ yên để xây dựng các công trình thuộc hạ tầng kinh tế. Nhật Bản luôn đứng ở vị trí số một trong số các nhà tài trợ ODA cho Việt Nam. Biểu13:Tổng ODA của Nhật Bản cho Việt Nam giai đoạn 1992 – 2000 (Nguồn:Văn phòng JICA Việt Nam, báo cáo tóm tắt hoạt động của JICA Việt Nam). Cần phải nhấn mạnh rằng, những thành công trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, trên thực tế đã tạo ra một hình ảnh tích cực và một niềm tin cho các đối tác của Việt Nam, trong đó có Nhật Bản. Thêm vào đó là việc Việt Nam thực hiện chính cách đổi mới, mở cửa nền kinh tế, đa phương hóa trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Đây là chính sách mang tính hai mặt hỗ trợ cho nhau. Mở rộng đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại là một chính sách phù hợp với xu thế của toàn cầu hóa đang diễn ra trên thế giới, bởi chính hướng đi này đã phá tan chính sách bao vây cấm vận từ bên ngoài, thiết lập từng bước quan hệ hiểu biết và phụ thuộc lẫn nhau tạo môi trường thuận lợi để hợp tác phát triển kinh tế. 2. Những thành tựu đạt được từ nguồn ODA của Nhật Bản. Kể từ khi chính thức nối lại viện trợ cho Việt Nam vào năm 1992. Nhật Bản đã có những đóng góp quan trọng vào công cuộc chuyển đổi đất nước sang nền kinh tế thị trường cũng như vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Đất nước. Tính theo tổng vốn ODA, Nhật Bản trở thành nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam kể từ năm 1995. Đồng thời với quan hệ hợp tác kinh tế Nhật Bản, Việt Nam cũng trở thành nước tiếp nhận viện trợ chiến lược quan trọng nhất. Tính theo số liệu giải ngân dòng, Việt Nam đứng vào hàng thứ tư (Sau Inđônêxia, Trung Quốc và Thái Lan) trong các nước tiếp nhận ODA của Nhật Bản vào năm 1999 và đứng thứ hai sau Inđônêxia vào năm 2000. Khi so sánh Nhật Bản với các nhà tài trợ khác thì nét nổi bật nhất của hỗ trợ Nhật Bản cho Việt Nam được thể hiện ở những điểm sau: Hợp tác mạnh mẽ trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở giao thông và điện năng; tích cực hỗ trợ cho quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường cùng với chiến lược phát triển dài hạn thông qua nghiên cứu chính sách, xây dựng thể chế và phát triển nhân lực. Nhật Bản là nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam trong nghành giao thông và điện lực, vượt cả viện trợ của Ngân hàng thế giới và Ngân hàng phát triển Châu á về tổng vốn đầu tư. Nguồn vốn ODA của Nhật Bản trong những năm qua đã góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam. ODA được sử dụng trong nhiều lĩnh vực:từ cơ sở hạ tầng kinh tế đến hạ tầng xã hội (Các nghành công nghiệp, nông nghiệp , tài chính tín dụng) nâng cấp và xây dựng mới hàng loạt các dự án có qui mô lớn trong các lĩnh vực giao thông, điện, thủy lợi, cấp thoát nước, y tế, giáo dục đào tạo. Một loạt các đường quốc lộ ( QL15, QL18, QL10, QL 10, QL1A) được xây dựng và đưa vào sử dụng đem lại hiệu quả kinh tế rất cao. Bên cạnh đó cải cách hầu hết các loại hình đào tạo chủ yếu: Tiểu học, trung học, cao đẳng, đại học, dạy nghề, cải thiện các dịch vụ y tế, kế hoạch hóa gia đình, phát triển dân số, cải tạo và phát triển các nhà máy cấp thoát nước ở hầu hết các thành phố, thị xã... Đó là những lĩnh vực đầu tư có tính "xúc tác" vừa có tác dụng trước mắt, đồng thời là cơ sở lâu dài cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện nay sử dụng nguồn vốn ODA của Nhật Bản chú trọng hơn vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn nhờ vậy đã góp phần gia tăng sản lượng nông nghiệp với nhịp độ phát triển tương đối cao trong thời gian qua Thông qua viện trợ không hoàn lại Chính phủ Nhật Bản đã giúp Việt Nam xây dựng một số công trình hạ tầng kinh tế- xã hội có qui mô lớn như: Khôi phục bệnh viện chợ Rẫy, xây dựng cảng cá Cát Lở (Vũng Tàu), nâng cấp bệnh viện Bạch Mai, xây dựng hệ thống cấp nước Gia Lâm, xây dựng các cầu nhỏ ở nông thôn, xây dựng hơn 200 trường tiểu học vùng bão, mở rộng hệ thống cấp nước tỉnh Hải Dương, xây dựng hệ thống thủy lợi Tân Chi, xây dựng trung tâm hợp tác nguồn nhân lực tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh... Với các dự án hợp tác kỹ thuật, Chính phủ Nhật Bản hỗ trợ lập các qui hoạch tổng thể phát triển các nghành như: điện lực, giao thông, nghiên cứu khả thi, lập thiết kế chi tiết, khảo sát về môi trường... Đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý tại Nhật Bản, cử chuyên gia tư vấn, cán bộ tình nguyện...Trong những năm gần đây,Chính phủ Nhật Bản chú trọng sử dụng hỗ trợ kỹ thuật để hỗ trợ quá trình chuyển đổi kinh tế, xây dựng pháp luật, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, tăng cường năng lực thể chế... Ngoài các khoản viện trợ theo dự án nói trên, trong 7 năm tài khóa 1993á2001. Chính phủ Nhật Bản còn cung cấp khoản viện trợ phi dự án với tổng số 17 tỷ yên để hỗ trợ trực tiếp cân đối ngân sách của Chính phủ ta. Đây là trường hợp đặc biệt mà Chính phủ Nhật Bản dành cho Việt Nam vì cho đến nay, chỉ có Việt Nam và Mông Cổ là 2 nước nhận trên 6 lần khoản viện trợ này. Về tín dụng ưu đãi, kể từ khi Chính phủ Nhật Bản chính thức nối lại việc cung cấp ODA cho Việt Nam tháng 11/1992 cho đến năm 2001, hai Chính phủ đã ký 69 hiệp định vay tín dụng ưu đãi của Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC). Tổng số tín dụng, bao gồm cả tín dụng ưu đãi thường niên và tín dụng đặc biệt đồng Yên, tín dụng Miyazawa mà phía Nhật Bản đã cam kết cho đến nay là 726,3 tỷ Yên. Trong số đó 45,5 tỷ Yên tín dụng bắc cầu để thanh toán nợ cũ (của chính quyền Sài Gòn), phần còn lại để triển khai thực hiện 38 công trình và chương trình phát triển kinh tế lớn của nước ta trong các lĩnh vực chủ yếu sau: Năng lượng (xây dựng các nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 1, nhiệt điện Phả Lại 2, cụm thủy điện Hàm Thuận- Đami, nhiệt điện Ô môn, phục hồi các nhà máy nhiệt điện Cần Thơ và thủy điện Đa Nhim, xây dựng đường dây tải điện 500 KV Phú Mỹ- Nhà Bè- Phú Lâm), Giao thông vận tải. ODA của Nhật Bản đóng vai trò lớn trong quá trình hỗ trợ nghiên cứu chiến lược phát triển của Việt Nam theo kinh tế thị trường phát triển hạ tầng cơ sở là nét đặc thù chính của hợp tác phát triển của Nhật Bản tại Việt Nam, đó là: Thừa nhận ba nhiệm vụ chiến lược Việt Nam phải đối mặt , cụ thể là (i) phát triển dài hạn với vị thế một nước phát triển sau; (ii) chuyển đổi có hệ thống sang nền kinh tế thị trường;(iii) tham gia một cách tích cực và hiệu quả vào mạng lưới sản xuất năng động của Đông Nam á. Cùng với sự tôn trọng ý chí và lòng quyết tâm của nhân dân và Chính phủ Việt Nam, Nhật Bản mong muốn hỗ trợ quá trình phát triển cân đối của Việt Nam bao gồm thực hiện tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh cùng với tốc độ tăng trưởng đó. Hơn nữa Nhật Bản đã có những đóng góp đáng kể vào quá trình hình thành chiến lược phát triển của Việt Nam đó là: Tư vấn trong quá trình hình thành và thực hiện hai kế hoạch phát triển 5 năm (lần thứ 6 và lần thứ 7) và chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm; Nhật Bản còn tích cực tham gia vào nhóm công tác về xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, đóng vai trò đầu tầu trong các hoạt động đối tác về giao thông, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển khu vực tư nhân. Chúng ta hy vọng rằng Chính phủ Việt Nam sẽ đi sâu vào chiến lược tăng trưởng cân đối, có tính đến đặc thù của đất nước trong khu vực Đông á đầy năng động và dựa trên cách tiếp cận đồng thời phối hợp với tăng trưởng trên diện rộng với xóa đói giảm nghèo. Chính phủ Nhật Bản khẳng định sẽ tiếp tục hỗ trợ cho những nỗ lực trên của Chính Phủ Việt Nam. 3.Một số tồn tại trong thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản ở Việt Nam. ăMặc dù Việt Nam được nhận viện trợ ODA từ Nhật Bản khá sớm, nhưng chỉ thực sự bắt đầu có hiệu quả từ năm 1993, vì vậy chúng ta còn phải từng bước vừa làm vừa tự tìm ra lối đi thích hợp cho mình, cho nên thời gian rút vốn thường bị kéo dài, tốc độ giải ngân chậm so với các nước khác trên thế giới. Trong thời gian gần đây mức độ giải ngân ODA có xu hướng tăng lên. ă Khó khăn trong việc tiếp nhận nguồn ODA một phần xuất phát từ bên cung cấp viện trợ. Đôi khi nhà tài trợ đặt ra quá nhiều những yêu cầu chi tiết và chuẩn mực trong khi Việt Nam lại vừa mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, chưa có đủ kinh nghiệm tiếp nhận và kỹ thuật cần thiết để đáp ứng những nhu cầu đó. Hoặc thủ tục giải ngân do các nhà tài trợ đề ra khá phức tạp: Các khoản vay đều có ràng buộc về mua sắm, đấu thầu, chọn tư vấn...Đồng thời một số dự án do các nhà tài trợ thiết kế không sát với tình hình thực tế ở Việt Nam, nênphía Việt Nam lại phải mất nhiều thời gian để điều chỉnh cho phù hợp hơn. ăNgoài ra những qui trình, thủ tục pháp lý của nước chủ nhà (Việt Nam) và nhà tài trợ có nhiều vấn đề còn "chênh" nhau, nhiều khi phải điều chỉnh nhiều lần mới di đến thống nhất , đặc biệt đối với những vấn đề nhạy cảm như: di dân, tái định cư bắt buộc... ă Những nguyên nhân trên làm cho tiến độ giải ngân ODA bị chậm lại; đây là một thiệt thòi trong quá trình vận động nguồn vốn từ nước ngoài khi chúng ta còn trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng, mặt khác còn ảnh hưởng đến niềm tin của các nhà tài trợ về khả năng thu hút vốn ODA của Việt Nam. Do đó việc nâng cao mức độ giải ngân, tăng khả năng hấp thụ nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA đang là vấn đề quan trọng và cấp bách đặt ra trước mắt chúng ta. ăNgoài ra quá trình tiếp nhận và sử dụng ODA ở Việt Nam còn đang mới mẻ, chúng ta vừa học tập- vừa thực hành trong điều kiện có nhiều khác biệt về qui định giữa trong nước và nước ngoài, có nhiều điều khác biệt trong thủ tục cung cấp ODA giữa các nhà tài trợ... chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót trong khâu tiếp nhận và sử dụng ODA nói chung và ODA Nhật Bản nói riêng. ăCơ chế quản lý và sử dụng nguồn viện trợ còn nhiều điểm chồng chéo, rườm rà nên đôi lúc dẫn đến tình trạng chậm chễ trong việc thành lập các Ban quản lý dự án. Ví dụ như một dự án thuộc lĩnh vực lâm nghiệp khi đã có hiệu lực ba tháng mà vẫn không mở được tài khoản do thiếu nhân sự, sau 5 tháng dự án này mới rút được một khoản tiền tạm ứng để hoạt động. Hoặc dự án "Xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn" do thiếu cán bộ gửi đi đào tạo nên thời gian triển khai dự án bị chậm lại. Theo các chuyên gia nước ngoài, sự thống nhất giữa các cơ quan liên quan với cấp Bộ và Ban quản lý dự án chưa được chú trọng; từng hiệp định cụ thể thì do rất nhiều bộ, nghành ký nhưng Bộ tài chính lại không theo dõi chung được các nguồn vốn vay hoặc viện trợ cũng như nội dung sử dụng từng nguồn vốn. Thực tế cho thấy các thủ tục xem xét và trình tự duyệt dự án còn phức tạp, phải qua nhiều cấp; nhất là khâu đấu thầu và chấm thầu khiến cho thời gian thực hiện dự án bị chậm lại. Quá trình xem xét và lựa chọn nhà thầu của dự án "Cung cấp nước ở thành phố Hồ Chí Minh "cũng gặp khó khăn khi nhà thầu tham gia không tuân thủ điều kiện của nhà tài trợ. Nhìn chung nhiều dự án đã mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội nhất định; hàng ngàn cán bộ, công nhân Việt Nam được đào tạo hoặc tái đào tạo về những kỹ năng chuyên môn hoặc quản lý thông qua các chương trình, dự án ODA có kết quả cao.Tuy nhiên, nhìn một cách toàn diện nguồn viện trợ không hoàn lại bị phân tán, dàn trải quá nhiều, chưa tập trung vào các lĩnh vực có lợi thế tương đối và có khả năng tác động thúc đẩy sự phát triển các ngành khác của nền kinh tế. Hơn nữa, nhiều người vẫn còn coi viện trợ là của "trời cho" vì vậy việc sử dụng và quản lý các nguồn viện trợ thường không đảm bảo đúng chế độ tài chính, thậm chí còn rất lãng phí và tùy tiện. Chính điều đó cũng góp phần làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA. Nhiều dự án do thiếu vốn đối ứng nên việc cấp vốn của đối tác cho vay chưa phù hợp với tiến độ thực hiện dự án. Ngoài ra, giá đền bù đất để thực hiện công tác giải phóng mặt bằng có thể bị thay đổi vì một lý do nào đó so với tính toán ban đầu càng gây khó khăn cho các dự án khi triển khai, hoặc gây tốn kém thời gian, làm chậm khả năng rút vốn. ăVề năng lực và khả năng làm việc của các nhân viên trong môi trường ODA. Theo đánh giá của nhiều nhà phân tích trong và ngoài nước, mặc dù ta đã qua thời gian khá dài tiếp nhận nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, nhưng nhân sự trong công tác điều hành- sử dụng nguồn vốn ODA ở những cấp khác nhau hiện đang thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, họ còn quá yếu so với yêu quốc tế và yêu cầu của các nhà tài trợ. Đây là một vấn đề đã được nhiều người quan tâm xem xét, nhưng tốc độ khắc phục những yếu kém này còn quá chậm. Dẫn đến hậu quả là các khâu trong quá trình tiếp nhận và sử dụng viện trợ đều có những sai lầm lặp lại nhiều lần, làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn vay và uy tín của Việt Nam trong việc huy động và tiếp nhận ODA. II.Triển vọng thu hút ODA nhật bản trong thời gian tới. 1.Nhu cầu vốn trong thời gian tới. Trong tình hình kinh tế xã hội như hiện nay, nhu cầu vốn ODA mà các nước ASEAN cần là một lượng rất lớn. Bởi vì xu thế toàn cầu hóa yêu cầu các nước đang phát triển phải đạt tới một trình độ nhất định về mọi mặt như: kinh tế- chính trị- văn hóa- xã hội. Vì vậy trong thời gian tới khu vực ASEAN cần một lượng ODA khá lớn để tiếp tục phát triển kinh tế ổn định lâu dài. Tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu này, không chỉ nhờ nguồn ODA Nhật Bản mà cần có sự cung cấp của nhiều nhà tài trợ khác nữa. Như vậy để phát triển kinh tế- xã hội, Việt Nam chủ trương huy động mọi nguồn lực, trong đó nguồn lực trong nước có tính chất quyết định, nguồn lực bên ngoài có ý nghĩa quyết định. Tổng nhu cầu nguồn vốn đầu tư phát triển trong 5 năm 2001-2005 dự kiến khoảng 60 tỷ USD, trong đó nguồn vốn trong nước khoảng 40 tỷ USD, nguồn vốn huy động từ bên ngoài 20 tỷ USD. Trong nguồn vốn ngoài nước, Việt Nam dự kiến thực hiện khoảng 11 tỷ USD FDI và 9 tỷ ODA. Nguồn vốn ODA tiếp tục ưu tiên sử dụng để hỗ trợ đạt được các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ(MDGs), đặc biệt là xóa đói, giảm nghèo, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển thể chế và bảo vệ môi trường... Như vậy, từ nguồn vốn ODA, trong thời kỳ 2001-2005 bình quân hàng năm cần giải ngân khoảng 1,8 tỷ USD. Theo tính toán, để đạt được mức giải ngân này, hàng năm Việt Nam cần có cam kết ODA khoảng trên 2 tỷ USD/năm. Trong hai năm 2001- 2002, bình quân một năm giải ngân được khoảng 1,5 tỷ USD, mới đạt khoảng 80% nhu cầu giải ngân bình quân một năm thời kỳ 2001-2005. Thực tế này đòi hỏi các cơ quan liên quan Việt Nam cần có các biện pháp có hiệu quả để cải thiện tốt hơn tình hình giải ngân nguồn vốn ODA. Trong thời gian qua, Việt Nam đã hợp tác chặt chẽ cùng với các đối tác phát triển nhằm hoàn thiện và đồng bộ hóa các văn bản pháp qui, cải thiện qui trình và thủ tục quản lý, sử dụng ODA. Việc sử dụng ODA sẽ tiếp tục định hướng vào việc thực hiện các mục tiêu sau: dành khoảng 15% vốn ODA cho các ngành nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản, kết hợp với mục tiêu phát triển nông nghiệp- nông thôn và xóa đói giảm nghèo; khoảng 25% cho ngành năng lượng, công nghiệp; khoảng 25% cho ngành giao thông, bưu điện, cấp thoát nước và đô thị. Coi trọng sử dụng nguồn vốn ODA trong các lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, xã hội, y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ và bảo vệ môi trường. Như vậy trong thời gian tới để giải quyết nhu cầu vốn ODA lớn như vậy đòi hỏi Việt Nam nói riêng và các nước ASEAN nói chung phải có sự nỗ lực hơn nữa để vừa cải thiện môi trường chính sách cũng như đưa ra biện pháp hợp lý để tăng cường khả năng thu hút và sử dụng nguồn ODA ngày càng hiệu quả hơn. 2.Triển vọng nguồn ODA của Nhật dành cho một số nước trong ASEAN. Qua những phân tích đầy đủ như trên, chúng ta thấy rằng trong tương lai ASEAN vẫn là đối tác quan trọng hàng đầu của Nhật Bản. Hoạt động ODA của Nhật Bản trong những năm tới sẽ hướng tới phạm vi toàn cầu, hay chúng ta có thể nói Nhật Bản hiện đang thực thi chính sách toàn cầu hóa ODA, khuynh hướng này diễn ra sẽ làm giảm khối lượng ODA của Nhật Bản cho ASEAN. Song do tầm quan trọng của đối tác ASEAN và tính đa dạng trong trình độ phát triển kinh tế của các nước thành viên ASEAN, Nhật Bản sẽ thực thi chính sách ODA mang tính phân biệt, tức là Nhật vẫn dành ưu tiên cho các nước có trình độ phát triển thấp hơn như: Việt Nam, Campuchia, Philippin, ....Và Nhật Bản vẫn tiếp tục mở rộng các hình thức tài trợ mới, đặc biệt là họ sẽ ưu tiên các chương trình như như" hỗ trợ cho sáng kiến của khu vực tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng", "trợ giúp cho hợp tác Nam- Nam" và các chương trình hỗ trợ trao đổi văn hóa, trao đổi thanh niên...Kế hoạch cung cấp tín dụng ODA của JBIC có một số nội dung chính như sau: Đông á và khu vực Đông Nam á là khu vực ưu tiên số 1 của Nhật Bản trong chính sách cung cấp tín dụng ODA, bởi các lý do về lịch sử, văn hóa cũng như lợi ích kinh tế, chính trị. Tuy nhiên chính sách cung cấp tín dụng ODA của Nhật Bản đối với từng nước tiếp nhận viện trợ chủ yếu trong khu vực lại khác nhau. Tại Đông á hai nước tiếp nhận chủ yếu là Trung Quốc và Mông Cổ. Tại khu vực Đông Nam á, 5 nước tiếp nhận chủ yếu vẫn là: Việt Nam, Inđônêxia, Thái Lan, Philippin và Malaysia. Trọng tâm cung cấp tín dụng tại các nước này như sau: 1/ Việt Nam: Tập trung phát triển cơ sở hạ tầng (Giao thông, điện, thông tin liên lạc), xóa đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực và hỗ trợ xây dựng chính sách cải tổ cơ cấu. 2/ Inđônêxia. Chủ yếu phát triển cơ sở hạ tầng, ổn định kinh tế, tài chính và hỗ trợ xây dựng chính sách cải cách kinh tế. 3/ Thái Lan: Cải thiện điều kiện dân sinh đô thị, phát triển nông thôn và phát triển nguồn nhân lực. 4/ Philippin: Tập trung chủ yếu vào nâng cấp hạ tầng kinh tế đặc bịêt là giao thông, bảo vệ môi trường nhất là phòng chống thiên tai, xóa đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực. 5/ Malaysia: Bảo vệ môi trường, giảm thiểu khoảng cách giàu nghèo, phát triển nguồn nhân lực và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ tự ưu tiên theo khu vực địa lý tiếp theo là: Nam á, Trung á, Trung Đông, Châu Phi (trọng tâm là Bắc Phi), Mỹ La Tinh, Trung và Đông Âu. III. Một số gợi ý nhằm tăng cường thu hút và sử dụng ODA của Nhật bản ở Việt Nam. 1. Về cơ chế chính sách: Phải tiến hành xây dựng chính sách tổng thể về quản lý, giám sát vay và trả nợ nước ngoài được hoạch định trong mối tương quan chặt chẽ với các chính sách và mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội ở tầm vĩ mô và vi mô; trong việc quản lý vay và trả nợ Nhật Bản phải tính đến các chỉ tiêu cơ bản về nợ nước Nhật như: Khả năng hấp thụ vốn vay Nhật Bản (tổng số nợ/ GDP); chỉ tiêu khả năng hoàn trả nợ (tổng nghĩa vụ trả nợ/ thu nhập xuất khẩu); chỉ tiêu khả năng vay thêm từng năm. Phải nhanh chóng hoàn chỉnh các chính sách, chế độ về vay và quản lý vay nợ của Nhật Bản nói riêng và của nước ngoài nói chung. Hài hòa qui trình và thủ tục ODA là một việc làm rất cần thiết. Bởi vì: Hài hòa trước hết là sự minh bạch về qui trình và thủ tục ODA của cả hai phía- nước tiếp nhận và đối tác tài trợ. Trên cơ sở này, hoạt động hài hòa sẽ diễn ra nhằm tạo ra qui trình và thủ tục ODA thông suốt. Tôn trọng sự đa dạng và tính đặc thù của nhà tài trợ là một yêu cầu đảm bảo tính khả thi của hài hòa qui trình và thủ tục ODA. Trong thực tế hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với các cơ quan hữu quan Việt Nam đang hợp tác với các nhà tài trợ theo 3 cách hài hòa qui trình và thủ tục ODA. -Một là: Hài hòa thủ tục với nhóm các nhà tài trợ đồng chính kiến. -Hai là: Hài hòa thủ tục với 3 ngân hàng (JBIC, WB và ADB). -Ba là: Hài hòa thủ tục với từng nhóm riêng lẻ. Cần rà soát lại định mức, xóa bỏ các định mức lạc hậu, xây dựng các định mức đảm bảo khoa học tiên tiến phù hợp với thực tiễn. Cần xem lại qui trình đấu thầu, xét thầu, giao thầu để giảm sự khác biệt giữa trong và ngoài nước, tuy nhiên nó phải phù hợp với điều kiện Việt Nam, phải đơn giản hóa thủ tục hành chính, không rườm rà, phức tạp ảnh hưởng đến tốc độ giải ngân ODA . Quản lý vay nợ cần xác định rõ trách nhiệm của người vay và người sử dụng vốn vay, chống ỷ lại vào Nhà Nước. Đồng thời phải quản lý chất lượng các khoản vay ODA. Đặc biệt là khâu xây dựng dự án; nâng cao trách nhiệm cá nhân (vật chất, hành chính, hình sự...) của người ra quyết định đầu tư. Cụ thể là: Ban hành các thông tư hướng dẫn thật cụ thể để thực hiện tốt các nghị định của Chính Phủ về quản lý vay và trả nợ nước ngoài, hoàn chỉnh hình thành quĩ tích lũy trả nợ nước ngoài nhằm tạo nguồn trả nợ cho Chính Phủ, đảm bảo trả nợ đúng hạn, không rơi vào nợ chồng chất, không có khả năng thanh toán. Ban hành các qui chế chung cho vay lại nguồn vốn vay nước ngoài, khuyến khích sự tham gia của các nghành, địa phương, các cơ sở vào khai thác nguồn vốn ODA, nhằm khắc phục tình trạng lộn xộn hiện nay trong xác định các điều kiện cho vay lại. 2. Tổ chức thực hiện: Xác định rõ trách nhiệm hơn nữa của từng cơ quan quản lý và của người vay vốn ODA trong việc huy động vốn vay và sử dụng, quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại phải được đồng bộ, thống nhất qua đầu mối là Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính thực hiện cho vay lại hoặc ủy quyền cho Ngân hàng Thương mại cho vay theo qui định. Khi xây dựng hạng mục các chương trình, dự án ưu tiên đầu tư của Nhà nước cần chỉ rõ thứ tự ưu tiên theo từng chương trình, dự án để làm căn cứ vận động vốn vay nước ngoài. Các nguồn vốn viện trợ cho từng tĩnh vực cần phải phân bố theo trật tự ưu tiên với cơ cấu cụ thể, kết hợp với những khả năng và nhu cầu vốn đối ứng có tính toán cụ thể. Phải xác định rõ vốn đối ứng ngay từ khi bắt đầu, đảm bảo tính khả thi. Nhà nước chỉ bố trí vốn đối ứng cho những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Các dự án còn lại, chủ đầu tư cần có phương án bố trí vốn đối ứng chắc chắn hơn mới đưa vào kế hoạch sử dụng vốn ODA. Đây là vấn đề then chốt cho yêu cầu sử dụng hợp lý có hiệu quả các nguồn tài trợ bên ngoài. Kiện toàn bộ máy quản lý vay và trả nợ trong các cơ quan thực hiện quản lý nợ nước ngoài. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức lập và quản lý dự án ở các bộ, nghành. địa phương nhằm đảm bảo khả năng lập kế hoạch, lập dự án và quản lý các dự án của các bộ, nghành. Nâng cao trình độ thẩm định để xét duyệt, quyết định đối với các dự án ngay ở từng bộ, nghành, địa phương cũng như huy động các nguồn vốn đối ứng trong nước nhằm làm cho việc hấp thụ nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả cao hơn nữa. Tăng cường công tác quản lý, giám sát nợ nước ngoài ngay từ khâu đàm phán, giám sát việc đấu thầu, mua sắm thiết bị, tư vấn, ký kết các hợp đồng, thực hiện rút vốn, sử dụng vốn, quyết toán nợ và bố trí nguồn trả nợ. Tăng cường hoàn thiện hệ thống thống kê, kế toán về nợ nước ngoài, đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối với các đối tác tài trợ để họ hiểu thêm về thể chế điều phối và quản lý vay nợ nước ngoài, nguồn ODA. Các cơ quan hữu quan Việt Nam hợp tác chặt chẽ với các đối tác trong việc đánh giá định kỳ các chương trình, dự án ODA. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với các nhà tài trợ song phương và đa phương đánh giá thường niên cả gói ODA. Những kết quả đánh giá rất hữu ích đã góp phần nâng cao hiệu quả ODA. Ngoài ra việc chia sẻ thông tin về tình hình thực hiện ODA cũng được cải thiện giữa các cơ quan liên quan Việt Nam và các nhà tài trợ. Bên cạnh đó cần nâng cao năng lực theo dõi và đánh giá dự án của các cơ quan hữu quan Việt Nam. 3. Về sử dụng ODA. Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Kế Hoạch và Đầu tư trực tiếp quản lý việc sử dụng nguồn ODA, đồng thời kiên quyết thực hiện nguyên tắc "Ai vay người ấy trả trong khu vực kinh tế Nhà nước". Sử dụng vốn vay ưu đãi ODA phải coi trọng hiệu quả kinh tế, không được sử dụng hết tất cả các khoản thu nhập ròng đã có mà cần phải giữ lại một phần để hoàn trả lại vốn, lãi kịp thời nhằm đảm bảo uy tín quốc tế. Lựa chọn lĩnh vực sử dụng vốn ODA trong từng thời kỳ thích hợp để đem lại hiệu quả kinh tế cáo nhất. Hiện nay ở Việt Nam để nền kinh tế đạt kết quả trên diện rộng dựa vào luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lâu dài thì việc cải thiện cơ sở hạ tầng đã trở thành nhiệm vụ cấp bách. Do đó trong thời kỳ đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam cần tập trung vốn đặc biệt là vốn ưu đãi nước ngoài ODA để đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, các cơ sở sản xuất tạo nhiều việc làm, các dự án đầu tư quan trọng của Nhà nước từng thời kỳ phát triển: Nghành điện, xi măng, sắt thép, cấp thoát nước, dầu mỏ, tầu đánh cá xa bờ. Về lâu dài thì chiến lược sử dụng vốn vay phải theo hướng: Sử dụng vốn vay nước ngoài kết hợp với công cuộc cải cách ngày càng sâu sắc hơn, tăng cường xuất khẩu hàng hóa, điều chỉnh chiến lược thay thế hàng nhập khẩu. Xây dựng hệ thống kiểm soát, đánh giá việc sử dụng nguồn vốn ODA. Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích đã được thẩm định phê duyệt, quán triệt phương châm vốn vay phải được sử dụng toàn bộ vào mục đích đầu tư phát triển, không dùng trang trải nhu cầu tiêu dùng. Xác định khả năng trả nợ cả gốc và lãi trong tương lai để xây dựng kế hoạch trả nợ các khoản viện trợ tín dụng, đặc biệt là tín dụng ưu đãi trong những năm đầu mới đưa vào sử dụng chưa bộc lộ khó khăn cho người tiếp nhận. Cùng với thời gian, khoản nợ đến hạn phải trả sẽ là gánh nặng cho đơn vị nếu hiệu quả đầu tư không cao. Do đó khi Chính phủ áp dụng những cơ chế tài trợ khác nhau, cho các lĩnh vực khác nhau, cũng đồng nghĩa với việc mỗi ngành, địa phương phải tự xác định hiệu quả sử dụng vốn để có kế hoạch tạo các khoản tích lũy, sau này trả nợ nước ngoài thông qua bộ tài chính Thủ tục quản lý chặt chẽ, nhưng phải thuận lợi cho người sử dụng trong việc rút vốn và sử dụng vốn. Không gây phiền hà làm giảm tốc độ dải ngân. Phải đặt các hạn mức sử dụng và kiểm tra chặt chẽ việc chi tiêu, theo dõi quá trình thực hiện và quản lý giải ngân dự án. Bộ Tài Chính nên tiếp tục nghiên cứu và ban hành, hướng dẫn về mẫu biểu báo cáo thống nhất, chế độ thông tin, báo cáo định kỳ sử dụng vốn vay của các dự án phải được thực thi nghiêm chỉnh, đặc biệt cho biết cụ thể các khoản do Nhà nước tài trợ trực tiếp (chi chuyên gia, chi đào tạo, khảo sát ở nước ngoài..) đối với từng dự án để Chính phủ nắm bắt cập nhật được đầy đủ thông tin trong và ngoài nước về biến động của những nhân tố có khả năng tác động đến nguồn vốn vay như: giá cả các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất, giá cả thị trường, biến động của thị trường tài chính (về vấn đề tỷ giá chẳng hạn)... để phục vụ cho các hoạt động điều phối và giám sát đánh giá tính hiệu quả của các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn ODA, nhất là việc đánh giá sau dự án, chuẩn bị cho các dự án, chương trình sắp tới. Đồng thời tiến hành xử lý kịp thời và có những quyết định vay vốn thích hợp, linh hoạt, tránh tình trạng lỗ do tác động của các nhân tố khách quan khi dự án đã đi vào hoạt động. kết Luận Quan hệ cung cấp ODA giữa Nhật Bản và ASEAN đã trải qua nhiều bước thăng trầm, nhưng vẫn tồn tại và phát triển ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Mối quan hệ này đặc biệt phát triển mạnh mẽ trong thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90. Nguồn ODA của Nhật Bản đã góp phần quan trọng trong tiến trình xây dựng, phát triển bền vững các quốc gia trong ASEAN nói riêng và tất cả các đối tác nhận ODA của Nhật Bản nói chung. Triển vọng quan hệ hợp tác cung cấp ODA Nhật Bản- ASEAN trong thời gian tới cũng xuất hiện một số khó khăn nhưng nhìn chung vẫn khả quan, vì ASEAN vẫn là khu vực ưu tiên số 1 của Nhật Bản trong chính sách ODA của mình. Nhật Bản với kinh nghiệm đã từng là nước tiếp nhận và sử dụng ODA có hiệu quả cao, vì vậy Nhật đã đề ra những chính sách ưu tiên cung cấp ODA chú trọng cả về chiều rộng và chiều sâu phù hợp với thực trạng kinh tế- xã hội của từng nước. Khoá luận đã tập trung giải quyết các vấn đề sau: 1-Giới thiệu khái quát về ODA nói chung, nêu một số đặc điểm nổi bật và vai trò của ODA đối với nước nhận ODA cũng như nước cung cấp ODA. Qua đó chúng ta cũng hình dung được quá trình hình thành và phát triển của nguồn ODA Nhật Bản. Qua đó khẳng định được vị trí quan trọng của ODA Nhật Bản đối với sự phát triển bền vững của 4 nước ASEAN được đề cập chi tiết trong 2-Trình bày về Hỗ trợ Phát triển chính thức của Nhật Bản cho các nước Đông Nam á. Phân tích cụ thể vai trò của ODA Nhật Bản với 3 nước ASEAN, tất nhiên rất khó để nói rằng, ODA quan trọng hơn FDI hay thương mại. Song một điều mà bất cứ nhà nghiên cứu kinh tế nào cũng nhận thấy được đó là ODA giữ vai trò mở đường cho việc thúc đẩy các quan hệ kinh tế khác. Qua phân tích cụ thể quá trình cung cấp ODA cho một số nước ASEAN như trên càng chứng tỏ rằng không có hoạt động ODA thì các quan hệ về buôn bán hay đầu tư trực tiếp, thậm chí cả các quan hệ song phương khác cũng không thể xúc tiến được. Thật vậy, sau chiến tranh Nhật Bản nối lại quan hệ ngoại giao với các nước ASEAN bằng cung cấp viện trợ ODA để hỗ trợ các nước này xây dựng và phát triển đất nước. Tài trợ ODA của Nhật Bản cho ASEAN là một hoạt động mang tính chất nhất quán và hệ thống. Tính nhất quán trong chính sách và hoạt động tài trợ của Nhật Bản cho ASEAN xuất phát từ nhiều nhân tố: Đó là từ mối quan hệ lịch sử lâu dài; các quan hệ về địa lý- chính trị và cả các giá trị và ảnh hưởng mang màu sắc phương Đông. Tính nhất quán trong lĩnh vực này còn xuất phát từ chiến lược đối ngoại của các chính quyền kế tiếp nhau ở Nhật Bản trong suốt mấy thập niên qua. Song chúng ta phải nhận thấy rằng, Nhật Bản coi ODA như là chiếc chìa khóa để Nhật xúc tiến hoạt động ngoại giao, Nhật Bản dùng ODA như là chất keo dính kết có hiệu quả rất đặc biệt bởi ODA không chỉ là vốn, công nghệ và tri thức quản lý như đã dẫn chứng ở trên mà nó còn là phương tiện hay là chiếc cầu nối của tình hữu nghị giữa người Nhật Bản với cộng đồng các dân tộc ở các quốc gia Đông Nam á. Và tính hệ thống của các hoạt động ODA đã được minh chứng đầy đủ trong chương này. Tính hệ thống của hoạt động cung cấp ODA bắt đầu là các chương trình bồi thường chiến tranh cho đến sự tăng lên không ngừng của các dự án viện trợ không hoàn lại, hỗ trợ kỹ thuật và viện trợ tín dụng. 3-Nêu triển vọng và một số gợi ý đối với Việt Nam trong việc thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản. Tuy Việt Nam là một nước phát triển còn thấp hơn một số nước trong khu vực, song Việt Nam đã xây dựng được một mối quan hệ khá chặt chẽ với Nhật Bản và Nhật Bản ngày càng trở thành một đối tác quan trong hàng đầu của chúng ta nhất là trên phương diện kinh tế. Trong những năm tới chúng ta cần tiếp tục khai thác tối đa thế mạnh đó; mạnh dạn tháo gỡ các trở ngại về hành chính, xây dựng lòng tin với đối tác, đồng thời xây dựng một chiến lược thu hút ODA từ Nhật Bản và từ các đối tác khác, từ đó chủ động tiếp nhận tài trợ bên ngoài, sử dụng ODA sao cho mang lại hiệu quả cao nhất , góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta, đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào 2010. Do thời gian và trình độ của em còn hạn chế, khóa luận không thể tránh khỏi thiếu xót và nhược điểm, em rất mong nhận được sự độ lượng và những góp ý chân thành của quý thầy cô và của người đọc. tài liệu tham khảo 1/Jica annual report 2001 2/JBIC ODA operation in Vietnam 3/Hợp tác phát triển của Nhật Bản tại Việt Nam(viện nghiên cứu chính sách quốc gia –GRIPS) 4/Kế hoạch vịên trợ cho Việt Nam (Bộ ngoại giao Nhật Bản) 5/Quan hệ Nhật Bản-Asean chính sách và tài trợ ODA (Nhà xuất bản khoa học xã hội-Ngô Xuân Bình,1999) 6/ ODA loan report 2000 (báo cáo hàng năm của JBIC: Japan bank for international cooperation) 7/ Tư liệu kinh tế bảy nước thành viên ASEAN (Nhà xuất bản thống kê Hà Nội) 8/Tạp chí nghiên cứu Châu á- Thái Bình Dương (Số 1và 3 năm 1999 ) 9/Tạp chí nghiên cứu Đông Nam á (số 3/1996 và số 2-2000) 11/Chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh lạnh (Nhà xuất bản khoa học xã hội- Ngô Xuân Bình- 2000) 12/Nhật Bản ngày nay (Hiệp hội quốc tế về thông tin giáo dục- 1997) 13/ Hỗ trợ phát triển chính thức- ODA- những hiểu biết căn bản và thực tiễn ở Việt Nam (Nhà xuất bản giáo dục- Hà Thị Ngọc Oanh- 2000) 14/Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á số 4( 2001) và số 1( 2002) 15/ Bản tin ODA 30/12/2001- Bộ kế hoạch đầu tư 16/ Báo đầu tư số 103 ra ngày 23/12/1999 17/ Japan's ODA Annual rerport 1984, 1995 18/ Japan's Foreign Aid 1984 19/ Daily Report, FBIC- EAS (East Asia) số1 đến số 12 năm 1996 20/ An ninh kinh tế Asean và vai trò của Nhật Bản (Nhà xuất bản chính trị quốc gia- 2001) 21/ Nghiên cứu kinh tế số 291- tháng 8/2002. 22/ Giáo trình" Đầu tư nước ngoài"- TS Vũ Chí Lộc- Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội- Nhà xuất bản giáo dục.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluËn v¨n.doc
Tài liệu liên quan