Khuyến nghị chính sách nâng cao chất
lợng cung ứng dịch vụ y tế công
tránh tình trạng khám chữa bệnh vợt tuyến do
muốn hởng chế độ chữa bệnh tốt hơn ở các
bệnh viện trung ơng do chi BHYT cao hơn gây
quá tải ở cấp trung ơng. Thí điểm mức trần viện
phí tơng đơng ở các bệnh viện tuyến huyện
nhằm giảm quá tải cho các bệnh viện tuyến tỉnh
và trung ơng.
Về chính sách tiền lơng, đảm bảo tiền
lơng cho cán bộ y tế phù hợp để sản xuất và tái
sản xuất trong sự lu ý đến tốc độ trợt giá trên
thị trờng để giảm thiểu hiện tợng bức xúc
hoặc tham nhũng.
Thí điểm cơ chế trả lơng cao u đãi cho các
bác sĩ giỏi tuyết trên về làm việc ở tuyến dới
nhằm khích lệ họ và đồng thời khuyến khích họ
chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức với các bác sĩ
tuyến dới, tạo môi trờng làm việc và cơ hội
học hỏi cho các bác sĩ tuyến dới. Đồng thời, có
phụ cấp thờng xuyên và thích hợp thêm cho
các bác sĩ về làm việc tại các bệnh viện tuyến
huyện và xã.
Về phân cấp trong lĩnh vực y tế, xem xét
trao quyền tuyển cán bộ nhân viên y tế về các
bệnh viện thay vì tập trung ở sở y tế để đảm bảo
tuyển đúng dạng bác sĩ, nhân viên y tế cần thiết
đi đôi với cơ chếgiám sát tuyển dụng công bằng
và công khai, đúng mục tiêu và đúng kế hoạch
cùng với sự phối hợp chặt chẽ giữa sở y tếvà các
bệnh viện.
Về cơ sở vật chất, trang thiết bị, cần đặc biệt
chú ý đầu t trang thiết bị y tế khám chữa bệnh
hiện đại và bác sĩ có trình độ cho các bệnh viện
tuyến huyện đảm bảo đủ máy móc chữa trị
nhiều bệnh hơn, giảm tỷ lệ chuyển bệnh nhân
lên tuyến cao hơn (nh lên tuyến tỉnh và trung
ơng) nhằm giảm quá tải.
Có cơ chế giám sát việc sử dụng trang thiết bị
y tế phục vụ bệnh nhân BHYT, tránh chuyển đổi
sử dụng trang thiết bị này sang cung ứng dịch vụ
y tế tự nguyện nhằm hớng tới cung ứng dịch vụ
y tếtốt hơn những ngời dân nghèo.
Về cơ chế giám sát, tiếp tục xây dựng thí
điểm nhiều kênh giám sát và cung cấp thông tin
phản hồi từ phía ngời dân đối với cán bộ y tế về
công tác cung ứng dịch vụ y tế, đi đôi với việc
phổ biến quyền của ngời có thẻ BHYT và trách
nhiệm của cán bộ y tế trong việc cung ứng dịch
vụ y tếcho ngời dân.
Lắp đặt một hệ thống máy camera và các hệ
thống giám sát hoạt động chăm sóc và khám
chữa bệnh trong toàn bộ các hệ thống bệnh viện
và các khuôn viên bệnh viện.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 21 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của quản trị hành chính chính công trong cung ứng dịch vụ y tế và chất lượng bệnh viện tại tỉnh Nam Định năm 2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
45
Vai trò của Quản trị Hành chính chính
công trong cung ứng dịch vụ Y tế và chất lượng
1
Bệnh viện tại tỉnh Nam Định năm 2011
2
TS. Lương Thu Hiền
“Phần đông công chức nhà nước không phải
công chức bàn giấy ở các cơ quan hành chính
mà là những người có trách nhiệm cung cấp dịch
3
vụ cho người dân” . Việt Nam hiện đang nỗ lực
hướng tới cung cấp dịch vụ công có chất lượng
cho mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội, đặc biệt
là những đối tượng dễ bị tổn thương.
Chất lượng cung ứng dịch vụ công được biểu
thị thông qua các Chỉ số Quản trị và Hành chính
Công cấp Tỉnh năm 2010 (PAPI) khảo sát ở 4
lĩnh vực căn bản là: (1) y tế công lập; (2) giáo
dục công lập; (3) cơ sở hạ tầng và (4) an ninh,
trật tự. PAPI 2010 đã khảo sát 4 nội dung trên
qua trải nghiệm của người dân. Trong nghiên
cứu này, chúng tôi khảo sát đầu vào ảnh hưởng
đến chất lượng cung ứng dịch vụ y tế và chỉ tập
trung vào xem xét chất lượng của các bệnh viện
tuyến huyện/thành phố. Ngoài sử dụng các
phương pháp định tính và định lượng, chúng tôi
cũng sử dụng phương pháp so sánh đầu vào ảnh
hưởng đến chất lượng cung ứng dịch vụ y tế
công ở hai bệnh viện cấp huyện của hai tỉnh là
Nam Định và Hải Dương. Trên cơ sở các bằng
chứng thu được từ nghiên cứu, chúng tôi sẽ đề
xuất những khuyến nghị về giải pháp giúp tỉnh
Nam định nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ
y tế công.
Mặc dù Nam Định được xếp hạng thấp trong
điểm số tổng thể của PAPI (22/30) nhưng riêng
trong lĩnh vực hiệu quả cung ứng dịch vụ công,
tỉnh lại được xếp hạng thứ 4. Trong số 4 địa
phương được Học viện Chính trị Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh nghiên cứu năm 2010,
Nam Định đứng đầu về hiệu quả cung ứng dịch
vụ y tế, tiếp đến là Hải Dương, Long An, Tiền
Giang. Kết quả rất đáng ghi nhận trên đây được
tạo thành bởi một số yếu tố cơ bản như: (1) nguồn
nhân lực, (2) nguồn tài chính, (3) cơ sở hạ tầng
của bệnh viện, (4) các thủ tục hành chính công,
(5) chất lượng cung cấp dịch vụ y tế đầu vào của
Nam Định. So sánh kết quả thu được tại tỉnh Nam
Định với các tỉnh còn lại trong mẫu nghiên cứu
đã phản á nh rất rõ về những yếu tố này.
(Nguồn PAPI 2010)
1
Nghiên cứu này có sử dụng kết quả nghiên cứu “Chỉ số
Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam
(PAPI) 2010. Thông tin chi tiết tại www.papi.vn. Nhóm
nghiên cứu của Học viện trân trọng cảm ơn Chương trình
Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) và Cơ quan Hợp tác và
Phát triển Thụy Sĩ (SDC) đã tài trợ cho nghiên cứu này.
2
Trung tâm Lãnh đạo học và Nghiên cứu Chính sách, Học
viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
3
Perters và Pierre, 2007 (tr. 1).
Trong phần này, chúng tôi sẽ lần lượt phân
tích ba nhóm yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng
cung cấp dịch vụ y tế công. Nhóm thứ nhất bao
gồm những yếu tố tương đồng giữa hai bệnh
viện tuyến huyện ở Nam Định và Hải Dương, do
đó không có ảnh hưởng nhiều đến chất lượng
Chính sách - Số 11/2013 Y tế
Tạp chí
46
Nghiên cứu chính sách
cung ứng dịch vụ y tế công. Nhóm thứ hai gồm
những yếu tố có ảnh hưởng tiêu cực và nhóm thứ
ba gồm những yếu tố có ảnh hưởng tích cực đến
chất lượng cung ứng dịch vụ y tế công.
Về nhóm thứ nhất, những yếu tố đầu vào có
sự tương đồng giữa Nam Định và các tỉnh khác
(đặc biệt là Hải Dương), do đó không có ảnh
hưởng nhiều đến hiệu quả cung ứng dịch vụ y tế
của Nam Định trong tương quan so sánh với các
tỉnh khác; cụ thể như sau:
Cũng như nhiều địa phương khác trong cả
nước, Nam Định và Hải Dương đều có một
mạng lưới y tế bao phủ toàn tỉnh từ cấp tỉnh đến
cấp phường/xã.
Về nguồn nhân lực, giống như Hải
Dương, Nam Định hiện đang thiếu bác sĩ đặc
biệt là bác sĩ chuyên khoa, thạc sĩ và tiến sĩ nhất
là với tuyến huyện. Tiền lương và phụ cấp ưu đãi
nghề của đội ngũ nhân viên y tế ở Nam Định và
Hải Dương không có sự khác biệt.
Về y đức, 100% các cán bộ y tế ở hai bệnh
viện đa khoa được khảo sát đều đã được phổ
biến, quán triệt về y đức và có niêm yết công
khai 12 điều y đức. Giống như hai bệnh viện
được khảo sát ở Hải Dương, hai bệnh viện được
khảo sát ở Nam Định đều không có hệ thống
camera giám sát hoạt động khám chữa bệnh của
nhân viên y tế.
Về nguồn lực tài chính, các bệnh viện ở
Nam Định cũng tương đồng với các bệnh viện ở
Hải Dương.
Về những khó khăn của các bệnh viện ở 2
tỉnh cũng giống như tình hình chung liên quan
Ÿ
Ÿ
đến mô hình, cơ chế và chính sách của toàn
ngành y tế như: (i) mô hình tổ chức của y tế cơ sở
luôn thay đổi, thiếu tính ổn định lâu dài, ảnh
hưởng đến công tác lập qui hoạch, xây dựng kế
hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm; (ii) chế
độ chính sách cho ngành y tế chưa thỏa đáng,
nhất là y tế cơ sở, cán bộ phụ trách dân số -
KHHGĐ; (iii) hệ thống văn bản hướng dẫn luật
BHYT và BHXH Việt Nam chưa thống nhất và
cụ thể nên việc tổ chức thực hiện ở các đơn vị
gặp nhiều khó khăn.
Về nhóm thứ hai, những yếu tố của các bệnh
viện ở Nam Định khác so với các bệnh viện ở
Hải Dương và có thể có ảnh hưởng tiêu cực đến
hiệu quả cung ứng dịch vụ y tế ở địa bàn Nam
Định như sau:
ở Nam Định, số BS/10.000 dân là 4,35, số
giường bệnh/10.000 dân là 15,9, số BS/giường
bệnh là 0,29, thấp hơn so với Hải Dương.
Những khó khăn liên quan đến nguồn
nhân lực y tế bao gồm: (i) Thiếu số lượng, chưa
đáp ứng được cơ cấu các chức danh theo thông
tư 08/TTLB-BYT-BNV. Tỷ lệ BS, DS đại học /
10.000 dân của Nam Định hiện đang thấp hơn
mức trung bình toàn quốc và khu vực, đặc biệt là
thiếu BS ở tuyến huyện và tuyến xã; (ii) Số
lượng cán bộ y tế hàng năm nghỉ chế độ nhiều,
đặc biệt là BS và DS đại học, nhưng số lượng
tuyển dụng hàng năm không đáp ứng đủ do môi
trường công tác và chế độ đãi ngộ không hấp
dẫn; (iii) Mặc dù toàn tỉnh có 46% bác sĩ có
trình độ trên đại học nhưng chủ yếu là BSCKI,
BSCKII. Số thạc sĩ và tiến sĩ còn ít.
“ ở cấp huyện, năm nào cũng có đơn của bác sĩ xin chuyển đi. Trong thời gian qua chỉ tuyển
được một bác sĩ trên toàn tỉnh học trường Y Thái Bình. Bác sĩ đại học chính qui không muốn về bệnh
viện huyện. Bác sĩ của bệnh viện hiện nay đa số là chuyên tu. Bệnh viện thiếu từ 4 đến 6 bác sĩ ”
(ý kiến của một cán bộ lãnh đạo bệnh viện đa khoa)
Về nguồn lực tài chính, mặc dù mức độ cấp
ngân sách cho các bệnh viện được xác định tùy
theo qui mô giường bệnh và hạng của bệnh viện
trong hệ thống y tế, mức trần viện phí cũng khác
nhau giữa các bệnh viện. Tuy nhiên so với các
tỉnh khác, định mức đầu tư cho giường bệnh/năm
47
Khó khăn nhất là chính sách bảo hiểm y tế không đồng bộ gây ra bất công bằng về thụ hưởng dịch
vụ y tế. Tất cả mọi người đều đóng báo hiểm với cùng một mệnh giá theo lương nhưng chi trả bảo
hiểm mỗi tỉnh một khác, trung ương lại khác. Cùng cấp bệnh viện tỉnh thanh toán BHYT không bằng
nhau (do trang thiết bị thấp). (ý kiến của một cán bộ lãnh đạo bệnh viện đa khoa)
Nguồn lực tài chính cho bệnh viện huyện Mỹ
Lộc rất eo hẹp. Theo báo cáo của giám đốc bệnh
viện, năm 2010 bệnh viện có 1,7 tỷ VND và năm
2011 có 2,8 tỷ VND. Năm nào bệnh viện cũng
gặp khó khăn trong thanh toán BHYT và tiền
viện phí (2000 VND/lần khám) là quá ít do bệnh
nhân là những người dân nông nghiệp nghèo.
Ngân sách của nhà nước cấp hàng năm theo
kế hoạch cho sự nghiệp phát triển y tế còn thấp
so với nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân;
ngân sách đối ứng cho các dự án thuộc chương
trình mục tiêu quốc gia chưa được đáp ứng;
nguồn thu viện phí chưa được tính đúng, tính đủ
cho chi thực tế trong khám chữa bệnh. Thanh
quyết toán BHYT còn nhiều vướng mắc bất lợi
cho các bệnh viện trong thực hiện nhiệm vụ;
chưa có nguồn vốn đối ứng cho các dự á n đầu tư
phát triển xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo và
mua sắm trang thiết bị cho các bệnh viện tuyến
tỉnh, tuyến huyện từ nguồn trái phiếu chính phủ.
Những khó khăn liên quan đến cơ sở vật
chất, trang thiết bị bao gồm (i) trang thiết bị máy
móc hiện đại cho khám chữa bệnh chưa đủ nên
chỉ đáp ứng được các dịch vụ kỹ thuật thông
thường, các cơ sở y tế đầu ngành, thiết bị y tế, kỹ
thuật chưa cao, ứng dụng khoa học kỹ thuật
công nghệ tiên tiến trong khám, chẩn đoán,
chữa bệnh còn hạn chế; (ii) hệ thống trạm y tế
xã, phường, thị trấn trong quá trình thực hiện
chuẩn quốc gia chưa được hỗ trợ thỏa đáng về
đầu tư và mua sắm trang thiết bị y tế; (iii) các dự
án trung tâm y tế tuyến huyện, thành phố đã
được triển khai xây dựng nhưng nguồn vốn đầu
tư tiếp theo còn hạn chế nên tiến độ thực hiện dự
án chậm.
Ÿ
“ Trang thiết bị y tế của bệnh viện chỉ có tổng trị giá 2,4 tỷ. Máy móc xuống cấp. Trang
thiết bị gần như không có gì. Gay go nhất hiện nay là thiếu trang thiết bị y tế”
(ý kiến của một cán bộ lãnh đạo bệnh viện đa khoa cấp huyện)
ŸNhững khó khăn có liên quan đến mô
hình, cơ chế và chính sách: (i) việc ứng vốn và
thanh quyết toán BHYT của cơ quan BHXH ở
Nam Định tính cho các bệnh viện chậm ảnh
hưởng không nhỏ tới công tác KCB và nợ đọng
tiền thuốc của các công ty dược; (ii) chính sách
luân chuyển BS cấp trên xuống cấp dưới chỉ
mang tính hình thức; (iii) các bệnh viện không
chủ động trong việc tuyển cán bộ vì chính sách
tuyển dụng cán bộ y tế giao quyền tuyển dụng
cho Sở Y tế.
Những khó khăn liên quan đến quản lý
điều hành bao gồm (i) năng lực quản lý, tổ chức
điều hành của một số cán bộ đơn vị còn hạn chế,
chưa năng động, việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào quản lý bệnh viện chưa được triển
khai sâu rộng, đồng bộ; (ii) công tác tự kiểm tra,
giám sát, đánh giá, rút kinh nghiệm trong các
Chính sách - Số 11/2013 Y tế
Tạp chí
ở Nam Định thường thấp hơn với mọi tuyến. Giá
viện phí cũng được thực hiện với mức thấp hơn
các địa phương khác. Điều này đã gây nhiều ảnh
hưởng bất lợi đối với nguồn lực tài chính của các
bệnh viện, gây nên sự mất công bằng về tài chính
y tế giữa các địa phương trong cả nước.
48
“ Vấn đề luân chuyển BS tuyến trên xuống tuyến dưới chỉ là lý thuyết vì trên thực tế bệnh viện
tuyến huyện thiếu bác sĩ nên không bao giờ luân chuyển xuống xã được. Tuy nhiên, tỉnh có bác sĩ
xuống huyện nhưng tâm lý của BS tuyến tỉnh xuống huyện buồn vì không có thu nhập thêm vì những
huyện nghèo không thể tăng thêm thu nhập được...”.
(ý kiến của một cán bộ lãnh đạo bệnh viện đa khoa cấp huyện)
hoạt động thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị
chưa sâu sát.
Về nhóm thứ ba, những yếu tố có thể ảnh
hưởng đến xếp hạng cao thứ 4 của Nam Định
trong trục nội dung cung ứng dịch vụ công.
Có một số yếu tố liên quan đến nguồn
nhân lực của các bệnh viện ở Nam Định có
chiều hướng tác động tốt đến hiệu quả cung ứng
dịch vụ y tế. Nam Định có đội ngũ cán bộ y tế
được đào tạo chính qui, có y đức và trình độ
chuyên môn, đoàn kết, tâm huyết trong sự công
việc. Toàn tỉnh có 46% bác sĩ có trình độ trên đại
học. Tỷ lệ cán bộ của các bệnh viện ở Nam Định
làm chuyên môn cao (92% ở bệnh viện đa khoa
tỉnh Nam Định). Số cán bộ làm quản lý được đào
tạo phù hợp cũng chiếm tỷ lệ cao (50% ở bệnh
viện đa khoa tỉnh Nam Định) và số lượng nhân
viên tham gia đào tạo bán thời gian chiếm 10%
(bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định). Số cán bộ y
tế có thâm niên công tác lâu năm ở các bệnh viện
ở Nam Định là khá cao. Mặc dù bệnh viện đa
Ÿ
Thanh toán BHYT quá chậm dẫn đến khó khăn rất lớn cho công tác khám chữa bệnh tại
bệnh viện và ảnh hưởng đến đời sống của cán bộ công nhân của bệnh viện. Chúng tôi không
có kinh phí quyết toán BHYT để đi mua thuốc của các công ty dược để chữa cho bênh nhân
thuộc diện BHYT. Đề nghị cho mua thuốc chịu bị các công ty dược gây khó dễ. Họ chỉ bán
thuốc kháng sinh và dịch truyền. Có lần một công ty dược quyết định không bán chịu cho
chúng tôi. Tôi phải nói với họ là nếu họ không bán chịu, họ ký vào giấy chứng nhận cho
chúng tôi và chúng tôi sẽ nói với bệnh viện là không có tiền mua thuốc chữa cho bệnh nhân.
Cuối cùng công ty dược cũng phải bán chịu cho chúng tôi. Có khi thanh quyết toán BHYT
muộn hàng năm nên phần tiền chênh lệch bị ứ đọng lại không được chuyển về bệnh viện để
bổ sung vào quĩ phúc lợi cho bệnh viện, khi bị chuyển về những quá muộn so với năm tài
chính với khoản tiền lớn hơn 3 lần lương nên lại bị thu hồi lại và chuyển sang chi vào khoản
khác; do đó, cán bộ công nhân viên cũng rất thiệt thòi vì có năm không được nhận tiền trợ
cấp thêm từ quĩ phúc lợi của cơ quan.
(ý kiến của một cán bộ lãnh đạo bệnh viện đa khoa cấp huyện)
khoa huyện Mỹ Lộc không có cán bộ y tế ở tỉnh
ngoài đến làm việc nhưng tỷ lệ này ở bệnh viện
đa khoa tỉnh Nam Định khá cao (134 người,
chiếm 22,7%) chứng tỏ Bệnh viện đa khoa tỉnh
đã thu hút được những có trình độ chuyên môn
cao ở ngoại tỉnh đến làm việc tại tỉnh. Số lượt
bệnh nhân tới khám hàng ngày ở Bệnh viện đa
khoa tỉnh Nam Định là 690 và ở Bệnh viện đa
khoa huyện Mỹ Lộc là 150 lượt.
Về cơ sở hạ tầng của các bệnh viện ở Nam
Định, các bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện
được đầu tư xây dựng, nâng cấp, cải tạo mua
sắm trang thiết bị từ nguồn trái phiếu chính phủ,
Chương trình mục tiêu quốc gia và các nguồn
hợp pháp khác. Vì vậy cả hai bệnh viện đều sạch
sẽ, khang trang với 100% nhà vệ sinh đủ tiêu
chuẩn quốc gia. Đặc biệt, bệnh viện Đa khoa
tỉnh Nam Định được trang bị cơ sở vật chất khá
đầy đủ. Số giường bệnh của bệnh viện Đa khoa
tỉnh Nam Định là 600 giường nhưng thực kê là
700 người và số giường của bệnh viện Đa khoa
Nghiên cứu chính sách
49
huyện Mỹ Lộc là 80 và luôn ở trong tình trạng
dưới tải. ở cả hai bệnh viện được khảo sát tại
Nam Định, tất cả các thủ tục hành chính đều đã
được niêm yết công khai, trong đó có thủ tục chi
trả viện phí, phí dịch vụ khám chữa bệnh...
Thậm chí, cả hai bệnh viện đều niêm yết công
khai đường dây nóng để bệnh nhân có thể tức
thời phản ánh về chất lượng phục vụ y tế của
bệnh viện. Khoảng 80% bệnh nhân đến khám
tại bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định có BHYT
còn ở bệnh viện đa khoa huyện Mỹ Lộc tỷ lệ này
là từ 85 đến 90%. Không có ai bị từ chối BHYT
nếu có bảo hiểm. Theo báo cáo của Sở Y tế tỉnh
Nam Định thì trên toàn tỉnh có khoảng 60% dân
số có BHYT.
Các chỉ số về cung ứng dịch vụ y tế tại 2
bệnh viện tương đối cao. Bệnh viện đa khoa tỉnh
Nam Định đã chữa trị cho 161.713 bệnh nhân
(điều trị nội trú 26.891 bệnh nhân) và chuyển
10.223 bệnh nhân lên tuyến trên trong khi Bệnh
viện đa khoa huyện Mỹ Lộc đã chữa cho 6.490
bệnh nhân và chuyển 1.350 lên tuyến trên.
Tóm lại, so sánh với Nam Định, ngành y tế
Hải Dương có một số điểm chung tương đồng
là: (i) mức độ bao phủ của các tuyến và cơ sở y tế
từ cấp tỉnh xuống tới tất cả xã/phường; (ii) được
đầu tư trang thiết bị kỹ thuật và cơ sở vật chất
khá lớn từ nguồn trái phiếu của Chính phủ trong
những năm qua; (iii) các bệnh viện tuyến tỉnh
đều có đủ bác sỹ nhưng ở các bệnh viện tuyến
huyện và tuyến xã lại thiếu nhiều bác sỹ và (iv)
chưa có các chính sách đủ mạnh để thu hút cán
bộ y tế nói chung và các bác sỹ nói riêng về công
tác ở địa phương, nhất là về các huyện và
xã/phường.
Bên cạnh một số điểm chung tương đồng nêu
trên, ngành y tế Hải Dương có một điểm tỏ ra tốt
hơn so với Nam Định. Đó là, số bác sỹ ở Hải
Dương trên 10.000 dân cao hơn Nam Định. Lợi
thế này của ngành y tế Hải Dương được nhóm
nghiên cứu kỳ vọng sẽ mang lại một điểm số cao
hơn về chất lượng dịch vụ y tế cho Hải Dương so
với Nam Định. Tuy nhiên theo kết quả nghiên
cứu của PAPI, Nam Định lại được người dân
Ÿ
đánh giá cao hơn so với Hải Dương. Có thể giải
thích kết quả trái ngược này như sau:
- Thứ nhất, số BS/10.000 dân chỉ là một chỉ
tiêu thành phần nhỏ không có ảnh hưởng tổng
thể đến toàn bộ các yếu tố quyết định đến cung
ứng dịch vụ công. Thứ hai, điểm PAPI đầu ra
chủ yếu tập trung dựa vào các tiêu chí như (1)
ông/bà có thẻ BHYT không (Câu D601); (2) ở
xã/phường của ông bà, người nghèo có được hỗ
trợ để mua BHYT không? (Câu D602); (3) theo
ông bà, trẻ em dưới 6 tuổi có được miễn phí khi
khám chữa bệnh không (D603); (4) lần gần đây
nhất ông/bà hoặc người thân trong gia đình đến
một bệnh viện công lập ở tỉnh nhà là khi nào?
(D604); (5) về chất lượng của bệnh viện công
lập nói trên, ông/bà thấy những nhận xét dưới
đây đúng hay không? (bao gồm người bệnh phải
nằm chung giường, phòng bệnh có quạt máy,
nhà vệ sinh sạch sẽ; có cán bộ y tế trực thường
xuyên; thái độ phục vụ bệnh nhân tốt, chi phí
khám chữa bệnh hợp lý; không phải chờ đợi quá
lâu (D605).
Với câu hỏi D601 và D602, Nam Định đạt
điểm cao là do xét từ nguồn lực đầu vào, việc
triển khai thực hiện BHYT cho người nghèo đã
được thực hiện rộng khắp tại Nam Định trong
bối cảnh tỷ lệ hộ nghèo trong toàn tỉnh liên tục
có sự thuyên giảm. Đặc biệt, tỷ lệ bệnh nhân có
thẻ BHYT đến khám ở các bênh viện ở Nam
Định là rất cao. Câu D605 phản ánh một số lợi
thế của Nam Định trong cung ứng dịch vụ công
trong tương quan so sánh với Hải Dương. Theo
số liệu điều tra của PAPI thì số bệnh nhân không
phải nằm chung giường nhiều như Hải Dương
cũng như quan sát thực tế thì thấy các bệnh viện
của Nam Định không quá tải nhiều, không nhìn
thấy bệnh nhân nào phải nằm chung giường và
khi phỏng vấn BS thì cũng nhận được trả lời
không phải nằm chung giường.Về thái độ của y
bác sĩ, Nam Định cũng được đánh giá cao hơn
Hải Dương có thể là do tỷ lệ quá tải của các bệnh
viện Nam Định thấp hơn Hải Dương và do cán
bộ y tế Hải Dương là tỉnh lớn gần Hà Nội và Hải
Phòng nên có thể bị ảnh hưởng về thái độ bức
Chính sách - Số 11/2013 Y tế
Tạp chí
50
xúc khi bị quá tải và cũng bởi vì tiếp xúc nhiều
hơn với mặt trái của cơ chế thị trường của các
tỉnh thành đô thị lớn. Về chi phí khám chữa
bệnh hợp lý có thể là do chi phí thanh quyết toán
của các bệnh việc các cấp và ở các tỉnh thành là
khác nhau do chính sách thanh quyết toán
BHYT do trung ương qui định còn tuỳ thuộc vào
chất lượng máy móc trang thiết bị. Có thể chất
lượng máy móc trang thiết bị của các bệnh viện
Nam Định có nơi còn thiếu nhiều hơn so với Hải
Dương nên chế độ thanh quyết toán chi phí
BHYT thực tế và chi phí rẻ hơn và phí dịch vụ y
tế cũng rẻ hơn. Và có thể còn do những lý do
nhận thức và do đó là đòi hỏi cao thấp khác nhau
về chất lượng của chính người sử dụng dịch vụ.
Tuy nhiên, điều mâu thuẫn lớn ở vị trí xếp hạng
của Nam Định và Hải Dương về cung ứng dịch
vụ y tế là ở chỗ số giường bệnh/10.000 dân của
Nam Định cũng thấp hơn của Hải Dương trong
4
suốt 5 năm từ 2005 đến 2010 , vậy tại sao mức
độ quá tải của Hải Dương lại cao hơn Nam Định
(thể hiện qua câu hỏi về bệnh nhân phải nằm
chung giường bệnh). ở đây, chúng ta cần có
thêm số liệu cụ thể về mức độ quá tải của các
bệnh viện các cấp của hai tỉnh này và đặt trong
tương quan so sánh một cách cụ thể.
Mặc dù các chỉ số về lượng BS/1 vạn dân, số
giường bệnh/vạn dân của toàn tỉnh Hải Dương
cao hơn Nam Định nhưng điều này không nhất
thiết dẫn đến những tỷ lệ này được phân bổ đều
ở các huyện của hai tỉnh. Điều này sẽ được
minh chứng trong phân tích của nghiên cứu này
về các chỉ số cụ thể của hai bệnh viện tuyến
huyện là Bệnh viện đa khoa huyện Ninh Giang
và Bệnh viện đa khoa huyện Mỹ Lộc ở Nam
Định. Trên thực tế, Bệnh viện đa khoa huyện Mỹ
Lộc ở Nam Định đã tốt hơn rõ ràng Bệnh viện đa
khoa huyện Ninh Giang ở Hải Dương về các chỉ
báo về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất của bệnh
viện, tỷ lệ quá tải.
Biểu đồ dưới đây chỉ rõ nguồn nhân lực y tế
của bệnh viện huyện Mỹ Lộc tốt hơn bệnh viện
huyện Ninh Giang cả về số lượng lẫn chất
lượng. Số bệnh nhân phải chuyển lên tuyến trên
của bệnh viện huyện Mỹ Lộc cũng chỉ chiếm
20,8% và điều này chứng tỏ năng lực cung cấp
dịch vụ khám chữa bệnh tại Bệnh viện Đa khoa
huyện Mỹ Lộc tướng đối tốt .
Biểu đồ: Tương quan so sánh về nguồn nhân
lực giữa bệnh viện đa khoa huyện
Ninh Giang và bệnh viện đa khoa huyện Mỹ Lộc
4
Niên giám thống kê tỉnh Nam Định 2010, tr. 299.
Nghiên cứu chính sách
Hai biểu đồ dưới đây về số dân/giường bệnh
và số bệnh nhân/giường bệnh thể hiện rõ cơ sở
vật chất của bệnh viện Mỹ Lộc tốt hơn bệnh viện
Ninh Giang và mức độ quá tải ở bệnh viện
huyện Mỹ Lộc ít hơn so với bệnh viện huyện
Ninh Giang. Số bệnh nhân tới khám/bác sĩ/ngày
ở bệnh viện huyện Mỹ Lộc ít hơn bệnh viện
Ninh Giang: một bác sĩ ở bệnh viện Mỹ Lộc chỉ
phải khám cho khoảng 9,4 bệnh nhân trong một
ngày trong khi một bác sĩ của bệnh viện Ninh
Giang phải khám cho khoảng 17,5 bệnh nhân
trong một ngày. Ngoài ra, không có bênh nhân
bị từ chối BHYT ở bệnh viện huyện Mỹ Lộc.
Điểm khác nhau cơ bản giữa hai bệnh viện
trên ở vị trí địa lý của chúng và đây có thể là một
yếu tố quan trọng gây ra sự chệnh lệch về số
lượng và chất lượng bác sĩ và độ quá tải ở hai
bệnh viện này. Bệnh viện huyện Ninh Giang
nằm cách thành phố Hải Dương khoảng 40 km
trong khi Bệnh viện huyện Mỹ Lộc lại nằm gần
kề với thành phố Nam Định. Điều này có ảnh
hưởng đến sự thu hút nguồn nhân lực và mức độ
của sự chảy máu chất xám bác sĩ có chất lượng.
51
Mặc dù Bệnh viện huyện Mỹ Lộc khá nghèo
nhưng vẫn có BSCK II và có nhiều BSCK I hơn
Về chính sách, cần tăng cường giám sát việc
thanh quyết toán BHYT giữa các bệnh viện cấp
huyện/thành phố và cơ quan BHYT đảm bảo
giảm bớt thủ tục hành chính trong quá trình
thanh quyết toán và đảm bảo đúng thời hạn
thanh quyết toán cho các bệnh viện.
Rà soát lại mức trần viện phí cho các bệnh
viện cấp huyện trở lên ở các tỉnh khác nhau đảm
bảo tính công bằng trong chi trả viện phí theo
BHYT đối với các bệnh nhân đóng cùng mức
BHYT như nhau nhưng chữa trị ở những bệnh
viện huyện ở các tỉnh khác nhau thì cần được
hưởng mức thanh toán viện phí ngang nhau
Tóm lại, các yếu tố như nguồn nhân lực, cơ
sở vật chất kỹ thuật và vị trí địa lý là những yếu
tố quan trọng nổi trội ảnh hưởng đến chất lượng
khám chữa bệnh của ngành y tế và đặc biệt là
của các bệnh viện đa khoa cấp huyện. ở đây, sự
phân bổ đồng đều về nguồn nhân lực cho các
bệnh viện tuyến huyện cũng là một yếu tố rất
quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng cung ứng
dịch vụ của bệnh viện tuyến huyện. Điều kiện
kinh tế xã hội chung của toàn tỉnh và một số chỉ
số y tế chung cấp tỉnh cao không nhất thiết dẫn
đến chất lượng bệnh viện y tế tuyến huyện tốt
hơn.
Khuyến nghị chính sách nâng cao chất
lượng cung ứng dịch vụ y tế công
tránh tình trạng khám chữa bệnh vượt tuyến do
muốn hưởng chế độ chữa bệnh tốt hơn ở các
bệnh viện trung ương do chi BHYT cao hơn gây
quá tải ở cấp trung ương. Thí điểm mức trần viện
phí tương đương ở các bệnh viện tuyến huyện
nhằm giảm quá tải cho các bệnh viện tuyến tỉnh
và trung ương.
Về chính sách tiền lương, đảm bảo tiền
lương cho cán bộ y tế phù hợp để sản xuất và tái
sản xuất trong sự lưu ý đến tốc độ trượt giá trên
thị trường để giảm thiểu hiện tượng bức xúc
hoặc tham nhũng.
Thí điểm cơ chế trả lương cao ưu đãi cho các
bác sĩ giỏi tuyết trên về làm việc ở tuyến dưới
nhằm khích lệ họ và đồng thời khuyến khích họ
chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức với các bác sĩ
tuyến dưới, tạo môi trường làm việc và cơ hội
học hỏi cho các bác sĩ tuyến dưới. Đồng thời, có
phụ cấp thường xuyên và thích hợp thêm cho
các bác sĩ về làm việc tại các bệnh viện tuyến
huyện và xã.
Về phân cấp trong lĩnh vực y tế, xem xét
trao quyền tuyển cán bộ nhân viên y tế về các
bệnh viện thay vì tập trung ở sở y tế để đảm bảo
tuyển đúng dạng bác sĩ, nhân viên y tế cần thiết
đi đôi với cơ chế giám sát tuyển dụng công bằng
và công khai, đúng mục tiêu và đúng kế hoạch
cùng với sự phối hợp chặt chẽ giữa sở y tế và các
bệnh viện.
Chính sách - Số 11/2013 Y tế
Tạp chí
Bệnh viện huyện Ninh Giang trong khi Bệnh
viện huyện Ninh Giang không có BSCK II.
52
Về cơ sở vật chất, trang thiết bị, cần đặc biệt
chú ý đầu tư trang thiết bị y tế khám chữa bệnh
hiện đại và bác sĩ có trình độ cho các bệnh viện
tuyến huyện đảm bảo đủ máy móc chữa trị
nhiều bệnh hơn, giảm tỷ lệ chuyển bệnh nhân
lên tuyến cao hơn (như lên tuyến tỉnh và trung
ương) nhằm giảm quá tải.
Có cơ chế giám sát việc sử dụng trang thiết bị
y tế phục vụ bệnh nhân BHYT, tránh chuyển đổi
sử dụng trang thiết bị này sang cung ứng dịch vụ
y tế tự nguyện nhằm hướng tới cung ứng dịch vụ
y tế tốt hơn những người dân nghèo.
Về cơ chế giám sát, tiếp tục xây dựng thí
điểm nhiều kênh giám sát và cung cấp thông tin
phản hồi từ phía người dân đối với cán bộ y tế về
công tác cung ứng dịch vụ y tế, đi đôi với việc
phổ biến quyền của người có thẻ BHYT và trách
nhiệm của cán bộ y tế trong việc cung ứng dịch
vụ y tế cho người dân.
Lắp đặt một hệ thống máy camera và các hệ
thống giám sát hoạt động chăm sóc và khám
chữa bệnh trong toàn bộ các hệ thống bệnh viện
và các khuôn viên bệnh viện.
Nghiên cứu chính sách
Các file đính kèm theo tài liệu này:
vai_tro_cua_quan_tri_hanh_chinh_chinh_cong_trong_cung_ung_di.pdf