- Giả thiết 1:Giá cả linh hoạt trong dài hạn. Đây là một quan điểm của kinh tế học tân cổ điển. Khi này, lao động L được sử dụng hoàn toàn, và nền kinh tế tăng trưởng hết mức tiềm năng và ổn định.
Đồng thời, lúc này, toàn bộ tiết kiệm S sẽ được chuyển thành đầu tư I (quy tắc Say trong kinh tế học tân cổ điển) Và do đó, sY = I.
Mặt khác, giá cả lao động (tức tiền công thực tế) và giá tư bản (tức lãi suất đi vay) lúc này cũng sẽ linh hoạt. Vì thế, có thể kết hợp hai yếu tố này để sản xuất môt cách tùy thích.
- Giả thiết 2:Mức sản lượng thực tế Y phụ thuộc vào lượng lao động L, lượng tư bản K vài năng suất lao động A. Từ đó, ta có một hàm sản xuất vĩ mô Y = F(A,L,K).
Giả thiết là hàm này có dạng Cobb-Douglas, tức là:
43 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1004 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của vốn với phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển và trong điều kiện Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
885
56268477
14104697
Phân theo lĩnh vực đầu tư
Dầu khí
7
10572380
2310380
Công nghiệp nặng
161
19388604
4618480
Công nghiệp nhẹ
207
1738806
662554
Công nghiệp thực phẩm
29
317821
173017
Xây dựng
80
328127
134804
Nông, lâm nghiệp
36
203510
119229
Thủy sản
4
841
841
Dịch vụ
278
971202
301269
Giao thông vận tải, Bưu điện
16
49537
15706
Khách sạn, du lịch
21
8773879
1783405
Tài chính, ngân hàng
1
18200
18200
Văn hoá, y tế, giáo dục
15
488521
47131
Xây dựng hạ tầng KCX-KCN
5
137250
36167
Xây dựng khu đô thị mới
3
4768750
2018750
Xây dựng văn phòng, căn hộ
22
8511049
1864763
Tình hình FDI 8 tháng năm 2008
TT
ChØ tiªu
§¬n vÞ tÝnh
Th¸ng 8 n¨m 2007
8 th¸ng ®Çu n¨m 2007
8 th¸ng ®Çu n¨m 2008
So cïng kú
I/
T×nh h×nh thùc hiÖn:
1
Vèn ®Çu tư thùc hiÖn
triÖu USD
1,000
5,300
7,000
132.1%
2
Doanh thu
triÖu USD
4,900
22,730
30,250
133.1%
3
XuÊt khÈu
triÖu USD
2,200
12,360
15,815
128.0%
4
NhËp khÈu
triÖu USD
2,500
13,604
19,223
141.3%
5
Nép Ng©n s¸ch
triÖu USD
155
1,050
1,402
133.5%
6
Sè lao ®éng cuèi kú b¸o c¸o
ngh×n ngêi
18
1,217
1,402
115.2%
II/
CÊp míi vµ t¨ng vèn
1
Sè dù ¸n cÊp míi
dù ¸n
118
975
772
79.2%
2
Vèn ®¨ng ký cÊp míi
triÖu USD
1,827
8,970
46,324.4
516.4%
3
Sè dù ¸n t¨ng vèn
lît dù ¸n
22
257
210
81.7%
4
Vèn ®¨ng ký t¨ng thªm
triÖu USD
45
1,517
833.6
55.0%
5
Vèn cÊp míi vµ t¨ng thªm
triÖu USD
1,872
10,487
47,158
449.7%
Từ bảng số liệu cho thấy lượng vốn FDI đồ vào nước ta đã ngày càng gia tăng, đặc biệt sự gia tăng nhanh chóng bắt đầu từ năm 2007-năm mà chúng ta bắt đầu ra nhập WTO. Có thể nói đay là cơ hội rất lớn cho nước ta có thể tận dụng tối đa nguồn lực từ nước ngoài để nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên thực tế cho thấy chúng ta cũng cần phải thận trọng trong việc duyệt các dự án đầu tư vì nếu chỉ theo đuổi mục tiêu thu hút mà không quan tâm đến vấn đề môi trường thì sẽ rất nguy hiểm cho đất nước, nó sẽ để lại hậu quả rất xấu tới nền kinh tế sau này.
b, Cơ cấu nguồn vốn
Cơ cấu vốn FDI phân theo ngành kinh tế năm 2007
Số dự án
Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ)(*)
Tổng số
Chia ra
Vốn cấp mới
Vốn tăng thêm
Tổng số
1544
21347.8
18718.3
2629.5
Nông nghiệp và lâm nghiệp
14
48.3
22.7
25.6
Thủy sản
2
10.3
6.7
3.6
Công nghiệp khai thác mỏ
16
262.3
252.1
10.2
Công nghiệp chế biến
985
10882.5
8771.3
2111.2
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước
7
9.6
9.6
Xây dựng
73
993.3
910.8
82.5
Thương nghiệp; Sửa chữa xe có động cơ,
mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình
11
129.9
78.0
51.9
Khách sạn và nhà hàng
38
1968.1
1883.6
84.5
Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc
30
356.5
271.9
84.6
Tài chính, tín dụng
4
32.3
32.3
Các hoạt động liên quan đến kinh doanh
tài sản và dịch vụ tư vấn
327
6114.8
5949.8
165.0
Giáo dục và đào tạo
13
11.6
9.5
2.1
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội
12
112.5
112.5
HĐ văn hóa và thể thao
9
410.3
402.3
8.0
HĐ phục vụ cá nhân và cộng đồng
3
5.5
5.2
0.3
Cơ cấu FDI phân theo lĩnh vực
Ngành
Cơ cấu FDI 1988-2005
Dự kiến FDI thực hiện 2006-2010
Dự kiến tổng FDI thực hiện 2006-2010 (tỷ USD)
Công nghiệp và xây dựng
67,3% số dự án
60,7% số vốn đăng kí
68,5% vốn thực hiện
55%
13,2 – 13,75
Dịch vụ
19,6% số dự án
31,9% số vốn đăng kí
24,8% số vốn thực hiện
37%
8,88 – 9,25
Nông, lâm, ngư nghiệp
13,1% số dự án
7,4% số vốn đăng kí 6,7% số vốn thực hiện
8%
1,92 – 2,0
Tổng
100%
100%
24-25
Năm 2008, theo lĩnh vực đầu tư FDI chủ yếu tập trung vào dịch vụ chiếm khoảng 50,9% với 23,6 tỷ$ tiếp theo là công nghiệp và xây dựng chiếm 48,6% với số vốn là 22,5 tỷ$ và cuối cùng là nông-lâm-ngư nghiệp chỉ chiếm 0,5% với số vốn là 200,9 triệu$ trong tổng lượng vốn FDI.
Nếu phân theo hình thức đầu tư thì dự án 100% vốn nước ngoài chiếm 64,2%, dự án liên doanh chiếm 32,8 % còn lại là các hình thức khác.
2. Vấn đề sử dụng vốn FDI ở nước ta
- Đầu tư nhiều nhưng chưa thấy hiệu quả đâu:
Theo Cục đầu tư nước ngoài thì năm 2007-2008 là năm bung nổ các dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch nhất là xây dựng các khách sạn cao cấp. Đến cuối năm 2007, trong tổng số 104 tỷ đô la vốn đầu tư nước ngoài đăng ký tại Việt Nam, đã có 10,8 tỷ USD đầu tư vào lĩnh vực xây dựng khách sạn, kinh doanh du lịch, chưa kể trên 12,8 tỷ USD đầu tư vào lĩnh vực xây dựng và văn phòng, căn hộ cao cấp và trên 4,4 tỷ USD đầu tư vào xây dựng các khu đô thị mới liên quan gián tiếp tới hoạt động phát triển du lịch. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2008, đã có 18 dự án với số vốn đăng ký khoảng 3,92 triệu USD đầu tư vào lĩnh vực du lịch, khách sạn
Đầu tư nước ngoài trong ngành Du lịch đã có mặt tại 23 tỉnh, thành phố của cả nước, trong đó chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn như TP.Hồ Chí Minh, Hà Nội, Quảng Ninh, Bà Rịa-Vũng Tàu và Bình Thuận...
Đó là chưa kể sự đầu tư không nhỏ của Nhà nước dành cho ngành Du lịch những năm qua. Tính từ năm 2000 đến năm 2007, Nhà nước đã đầu tư 3.516 tỷ đồng từ ngân sách để hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng du lịch. Trong đó: vùng du lịch Bắc bộ được hỗ trợ 1.806,5 tỷ đồng chiếm 51,38%; vùng du lịch Bắc Trung bộ là 680,5 tỷ đồng chiếm 19,35%; vùng du lịch Nam Trung bộ và Nam bộ là 1.029,0 tỷ đồng chiếm 29,27%. Các tỉnh, thành phố nhận được sự hỗ trợ nhiều nhất là Ninh Bình, Hải Phòng, Thừa Thiên-Huế, Hà Tây, Quảng Nam, Quảng Ninh, Lâm Đồng (mỗi tỉnh, thành phố trên 130 tỷ đồng).
Phần lớn nguồn vốn được tập trung để phát triển các khu du lịch quốc gia với 2.300 tỷ đồng, chiếm 65,4%. Sự hỗ trợ còn tập trung cho một số địa phương vùng sâu, vùng xa gắn phát triển du lịch với xoá đói giảm nghèo. Thời kỳ 2001-2007, đã có 20 tỉnh được hỗ trợ 487 tỷ đồng (chiếm 13,85%) cho mục đích nêu trên.
Tuy nhiên, sự đầu tư đó vẫn được coi là "muối bỏ bể" và hiệu quả thì.... chưa thấy đâu. Hiện tượng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân.
- Nguyên nhân được nhận thấy đầu tiên đó là việc đầu tư quá dàn trải. Trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tất cả 64 tỉnh thành, từ vùng cao đến duyên hải, hiện nay đều chọn du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn. Vì thế hàng năm không ngần ngại "ném" vào lĩnh vực này hàng tỷ đồng đầu tư. Chỉ riêng hoạt động lễ hội, mỗi năm cả nước có hàng nghìn hội hè lớn nhỏ diễn ra ở hầu hết các địa phương với chung một mục tiêu, thu hút du khách về thăm địa phương mình. Mà mỗi lễ hội trung bình cũng hút khoang vài trăm đến hàng tỷ đồng nhưng không phải lễ hội nào cũng đạt được mục đích vì vậy bao nhiêu tiền vàc ông sức đổ vào đó trở thành "công dã tràng"
- Một nguyên nhân nữa đó là sự lãng phí trong đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch. Không một địa phương nào trong số 64 tỉnh thành không dành khoản đầu tư lớn cho kinh tế du lịch. Đặc biệt là các tỉnh duyên hải từ Quảng Ninh vào đến Cà Mau, gần như diện tích bờ biển đều chỉ giành để đầu tư cho các dự án nghỉ ngơi, giải trí. Có rất nhiều dự án đăng ký nhưng chỉ nằm trên giấy hoặc đang trong quá trình thi công thì dừn lại bỏ hoang hoặc hoàn thành nhưng lại kinh doanh không có hiệu quả.
- Vốn đăng ky nhiều nhưng giải ngân chưa nhiều: năm 2007 trong tổng số 21,3 tỷ thì chỉ giải ngân được khoảng 4,6 tỷ (chiếm 30%), năm nay trong tổng số 47 tỷ$ của 8 tháng thì chỉ giải ngân được khoảng 8 tỷ$ (chiếm khoảng 17%). Như vậy tuy lượng vốn đăng ky có tăng lên nhiều nhưng tỷ lệ giải ngân lại giảm, điều này cho thấy nhiệm vụ trong những năm tiếp theo của chúng ta là tập trung cho giải ngân FDI nhiều hơn là việc tiếp tuc tăng cường thu hút đầu tư FDI.
Theo ông Phan Hữu Thắng-cục trưởng Cục đầu tư nước ngoài nói: thu hut được vốn lớn tuy mừng mà mối lo cũng lớn về việc làm sao giải ngân vốn hiệu quả vì: giải ngân chậm sẽ làm cho nhà đầu tư nản lòng, và dẫn đến từ chỗ tin tưởng mà gây cho họ hoài nghi về môi trường đầu tư của chúng ta. Do đó, chúng ta phải tạo điều kiện tốt nhất bằng những chính sách thích hợp để đồng vốn của nhà đầu tư đi vào đầu tư phát triển
Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng giải ngân châmo đó là cơ sở hạ tầng giao thông yếu kém, sự thiếu hụt nhân lực có chất lượng cao, chậm trễ trong khâu giải phóng mặt bằng, thiếu điện...thực tế cho thấy có không it sự án vừa xây dựng vừa chuẩn bị nguồn nhân lực, như dự án máy tính xách tay của Compal tại tỉnh Vĩnh Phúc đang cần ngay 3.000 lao động có tay nghề, nhưng tỉnh này đã thừa nhận là việc huy động rất khó; hay dự án đầu tư của Tp.HCM cũng đang gặp khó khăn về vấn đề lao động.
- Có một vấn đề cũng đang được dư luận rất quan tâm và tỏ thái độ bất bình về các dự án FDI đó là các dự án sâm Golf. Trong cương lĩnh chính trị xã hội ta là công nghiệp hóa và hiện đại hóa, buộc người ta phải chuyển đổi mục đích sử dụng của đất đai từ nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp. Tuy nhiên hiện nay việc lấy đất đang diễn ra với số lượng rất lớn điều này rất nguy hiểm vì dù sao nước ta tỷ lệ lao động nông nghiệp vẫn chiếm chủ yếu trong nền kinh tế. Việc lấy đất của họ sẽ khiến họ ko co việc làm tất yếu sẽ dẫn đến đói nghèo và bất bình đẳng xã hội. Hơn nữa chơi golf là môn thể thao còn rất mới ở Việt nam nên có quá nhiều dự án cho lĩnh vực này sữ không thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cho đất nước và một điều khác nữa là ảnh hưởng ô nhiễm môi trường từ việc xây dựng các dự án sân golf là rất lớn.
3. Tình hình kinh tế xã hội năm 2008 của Việt nam và thế giới
Có thể nói năm 2008 là một năm rất đặc biệt với Việt nam và thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra tại Mỹ đã ảnh hưởng tới nền kinh tế toàn thế giới. Trong khi nền kinh tế thế giới đang trên đà phát triển mạnh với sự nổi lên của một số nền kinh tế như: Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Braxin... tạo động lực phát triển cho nền kinh tế toàn cầu thì cuộc khung hoảng tài chính thế giới đã diễn ra mà bắt nguồn từ Mỹ đã ngay lập tức làm cho nền kinh tế thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng năng nề. Để đối phó với điều cuộc khung hoảng này chính phủ Mỹ đã phải chi tới 700 tỷ đô la để cứu vớt cho thị trường, EU và một số nền kinh tế lớn trên thế giới cũng làm động tác tương tư nhằm cố gắng giúp cho nền kinh tế thế giới tránh một cuộc khủng hoảng tương tự cuộc khủng hoảng 1929-1933. Với sự mất giá của đồng đô la, sự tăng giá dầu lên mức kỷ lục đã làm giá cả tăng cao cho các nền kinh tế lớn trên thế giới gặp rất nhiều khó khăn. Thị trường chững khoán hầu hết sụt giảm mạnh trên các nước thêm vào đó là một cuộc khủng hoảng lương thực trên thế giới nổ ra. Trước tình hình đó hẩu hết các nước trên thế giới đã phải điểu chỉnh kế hoạch tăng trưởng của mình thấp xuống. Có thể nói điều này sẽ tác động rất lớn đến nền kinh tế Việt nam chúng ta bởi vì: thứ nhất thị trường xuất khẩu cửa chúng ta chủ yếu vào các nền kinh tê như Mỹ, EU...những nền kinh tế này đang chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng điều đó cũng có nghĩa là thị trường xuất khẩu của chúng ta trong một vài năm tới chắc chắn sẽ ảnh hưởng nhiều. Thứ hai nữa là nền kinh tế toàn cầu gặp khủng hoảng cũng sẽ ảnh hưởng lớn đến dòng vốn FDI, mà hiện nay nước ta đang có nguồn vốn FDI đăng kí rất lớn. Khi nền kinh tế của những nước có FDI vào nước ta gặp khủng hoảng thì việc giải ngân vốn vào nước ta chắc chắn sẽ gặp khó khăn. Đây là một vấn đề rất nguy hiểm bởi các dư án đã được phê duyệt mà cứ kéo dài không tiến hành thi công để đưa vào sản xuất sẽ gây lãng phí rất lớn tới nền kinh tế.
Với Việt nam, trong bản báo cáo tổng hợp tình hình kinh tế xã hội của chính phủ đã chỉ ra: 9 tháng vừa qua, tình hình kinh tế-xã hội nước ta chịu tác động của nhiều yếu tố không thuận. Trong khi sức cạnh tranh của nhiều ngành và của nền kinh tế còn nhiều hạn chế thì giá cả của hầu hết các loại vật tư nguyên liệu đầu vào nhập khẩu trên thị trường thế giới liên tục tăng hoặc đứng ở mức cao; thiên tai, dịch bệnh lại xảy ra ở nhiều địa phương trên địa bàn cả nước. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ đã kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các địa phương khắc phục khó khăn, triển khai thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội đã được đề ra nên kinh tế -xã hội nước ta trong 9 tháng năm 2008 vẫn phát triển ổn định, nhiều ngành, lĩnh vực then chốt đã thu được kết quả tích cực tạo điều kiện cho sự phát triển trong các tháng tới.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng năm 2008 ước tính tăng 6,52% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,57%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,09%; khu vực dịch vụ tăng 7,23%. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước 9 tháng vừa qua tuy thấp hơn mức tăng cùng kỳ của một số năm gần đây và chưa đạt mức tăng 7% đề ra cho cả năm 2008, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm mà nền kinh tế nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng như trên là một kết quả quan trọng và rất đáng phấn khởi.
Tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh 1994
Tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước
Đóng góp vào tăng trưởng (điểm %)
9 tháng năm 2006
9 tháng năm 2007
9 tháng năm 2008
TỔNG SỐ
7,84
8,16
6,52
6,52
Khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản
3,41
3,22
3,57
0,64
Khu vực công nghiệp, xây dựng
9,78
10,07
7,09
2,95
Khu vực dịch vụ
8,06
8,52
7,23
2,93
Về đầu tư: Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 9 tháng theo giá thực tế ước tính đạt 422,5 nghìn tỷ đồng, tăng 26,2% so với cùng kỳ năm 2007, trong đó khu vực Nhà nước 162,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,4% tổng vốn và tăng 8%; khu vực ngoài Nhà nước 118,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 28% và giảm 9,6%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 141,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 33,6% và tăng 165%.
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện 9 tháng ước tính 65,8 nghìn tỷ đồng, đạt 67% kế hoạch năm, trong đó vốn Trung ương quản lý đạt 20,7 nghìn tỷ đồng, đạt 62,3%; vốn địa phương quản lý đạt 45,1 nghìn tỷ đồng, đạt 69,4%. Khối lượng vốn thực hiện của các Bộ, Ngành và địa phương nhìn chung đạt thấp: Bộ Xây dựng 90 tỷ đồng, chỉ đạt 25,6% kế hoạch năm; Bộ Giao thông Vận tải 3,7 nghìn tỷ đồng, đạt 58,7%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 759,2 tỷ đồng, đạt 67,8%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 303,9 tỷ đồng, đạt 68,9%. Các địa phương có tiến độ giải ngân nhanh là: Lâm Đồng đạt 95,2% kế hoạch năm; Quảng Trị đạt 89,3%; Thái Nguyên 86,1%; Yên Bái 84,7%; Bà Rịa-Vũng Tàu 81,1%.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt kết quả khá cao. Trong tháng 9/2008 cả nước có 113 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký 9,9 tỷ USD, nâng tổng số dự án cấp mới từ đầu năm đến 22/9/2008 lên 885 dự án với tổng vốn đăng ký 56,3 tỷ USD, trong đó lĩnh vực công nghiệp và xây dựng 32,3 tỷ USD, chiếm 57,5% tổng vốn đăng ký; lĩnh vực dịch vụ 23,7 tỷ USD, chiếm 42,1%. Nếu tính cả 855,7 triệu USD vốn đăng ký tăng thêm của 225 dự án cấp phép các năm trước thì tổng vốn đăng ký 9 tháng cả nước là 57,1 tỷ USD, gấp gần 5 lần so với cùng kỳ năm 2007; vốn thực hiện đạt 8,1 tỷ USD, bằng 14,2% vốn đăng ký và tăng 37,3% so với 9 tháng 2007.
Vốn đăng ký tăng cao chủ yếu do nhiều dự án lớn được cấp giấy phép như: Dự án Công ty TNHH thép Vinashin-Lion của Ma-lai-xi-a có số vốn đăng ký 9,8 tỷ USD; Dự án Công ty gang thép Hưng Nghiệp Formosa của Đài Loan 7,9 tỷ USD; Dự án Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn-Thanh Hóa của Nhật Bản và Cô-oét liên doanh 6,2 tỷ USD; Dự án Công ty TNHH New City Việt Nam 4,3 tỷ USD; Dự án Hồ Tràm của Ca-na-đa trên 4,2 tỷ USD.
Trong 9 tháng vừa qua, trong số 43 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp giấy phép đầu tư trực tiếp cho các đối tác nước ngoài thì Ninh Thuận dẫn đầu với 9,8 tỷ USD, chiếm 14,7% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Bà Rịa-Vũng Tàu 9,3 tỷ USD, chiếm 16,6%; thành phố Hồ Chí Minh gần 8 tỷ USD, chiếm 14,2%; Hà Tĩnh 7,9 tỷ USD, chiếm 14%; Thanh Hóa 6,2 tỷ USD, chiếm 11%; Phú Yên 4,3 tỷ USD, chiếm 7,7%; Kiên Giang 2,3 tỷ USD, chiếm 4,1%.
Trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, Ma-lai-xi-a là nhà đầu tư lớn nhất với 14,9 tỷ USD, chiếm 26,4% tổng vốn đăng ký; Đài Loan 8,6 tỷ USD, chiếm 15,3%; Nhật Bản 7,3 tỷ USD, chiếm 12,9%; Bru-nây 4,4 tỷ USD, chiếm 7,8%; Ca-na-đa 4,2 tỷ USD, chiếm 7,5%; Xin-ga-po 4 tỷ USD, chiếm 7,2%.
Số dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài thời gian gần đây tăng nhanh. Điều đó cho thấy, mặc dù tình hình kinh tế trong nước vẫn còn khó khăn nhưng nước ta vẫn là điểm đến khá tin cậy và hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế.
Việc thu hút vốn ODA tiếp tục xu hướng tích cực. Từ đầu năm đến ngày 23/9/2008 nguồn vốn này đã được hợp thức hoá thông qua các hiệp định ký kết với các nhà tài trợ đạt 1826 triệu USD, gồm có viện trợ không hoàn lại 184 triệu USD, vốn vay 1642 triệu USD. Số vốn ODA giải ngân 9 tháng đạt 1415 triệu USD, bằng 74,5% kế hoạch giải ngân cả năm 2008, trong đó viện trợ không hoàn lại đạt 188 triệu USD, vốn vay đạt 1227 triệu USD.
II. Sự tác động của FDI tới tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt nam giai đoạn 2000 đến nay
1.Sự tác động của vốn tới tăng trưởng kinh tế
Vốn luôn là động lực chính cho tăng trưởng ở Việt nam trong suốt những năm qua. Chúng ta có thể nhận thấy rõ điều này trong hai bảng số liệu dưới đây.
Theo số liệu về tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam theo giá so sánh năm 1994 do Tổng cục Thống kê công bố:
Năm
GDP (nghìn tỷ đồng)
Tốc độ tăng so với năm trước (%)
Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP (%)
2000
273,6
6,8
34,2
2001
292,5
6,9
35,4
2002
313,2
7,1
37,2
2003
336,2
7,3
37,8
2004
362,4
7,8
38,4
2005
393,0
8,4
40
2006
425,3
8,2
41
2007
461,4
8.48
. Đóng góp của các yếu tố đầu vào trong tăng trưởng GDP Việt Nam (%)
Thời kỳ
Đóng góp của các yếu tố
1993 - 1997
1998 - 2002
2003 – 2006
1. Đóng góp theo điểm phần trăm (%)
- Vốn
- Lao động
- TFP
8,8
6,10
1.40
1,30
6,2
3,56
1,24
1,40
7,84
3,78
1,40
2,07
2. Đóng góp theo tỷ lệ phần răm (%)
- Vốn
- Lao động
- TFP
100,0
69,30
15,90
14,80
100,0
57,40
20,00
22,60
100,0
52,73
19,07
28,20
Mặc dù nền kinh tế của nước ta đã có nhiều khởi sắc, nền kinh tế đã tăng trưởng phục hồi trở lại sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-1998 nhưng ta có thể nhận thấy tăng trưởng của Việt năm trong suốt những năm qua chủ yếu dựa vào những nhân tố theo chiều rộng. Chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện qua sự tăng lên của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng GDP hàng năm: từ 14,8% giai đoạn 1993-1997 lên 22,6% giai đoạn 1998-2002 và lên 28,2 giai đoạn từ 2003 đến nay. Tuy nhiên tăng trưởng do yếu tố vốn vẫn lớn hơn cả chiếm tới 52,73% và do yếu tố lao động là 19,07%. Như vậy hai yếu tố này chiếm gần 3/4 tổng cả ba yếu tố tác động đến tăng trưởng. Ta có thể so sánh vấn đề này với các nước trong khu vực thì tỷ lệ đóng góp TFP vào tăng trưởng hàng năm của Việt nam còn thấp hơn nhiều, tỷ lệ này của Thái Lan là 35%, của Philippin là 41%, của Indonesia là 43%. Tử đó cho thấy tỷ lệ đóng góp của các yếu tố tăng trưởng hàng năm của Việt nam chủ yếu là vốn đóng vai trò là động lực của tăng trưởng.
- Tăng trưởng do các yếu tố đầu vào: Tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào, có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư, đóng góp của số lượng lao động và đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Theo tính toán ban đầu, yếu tố số lượng vốn đầu tư đã đóng góp khoảng 57%, yếu tố số lượng lao động đóng góp khoảng 20%, yếu tố TFP đóng góp 23%. Từ sự đóng góp như trên, có thể rút ra một số nhận xét đáng lưu ý.
Một là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt 41%, ước năm 2007 đạt 40,4%), kế hoạch năm 2008 còn cao hơn, lên đến 42%.
Đây là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung Quốc - một tỷ lệ làm cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt cao nhất thế giới, đã nhiều năm liền tăng hai chữ số, hiện đang giữ kỷ lục thế giới về số năm tăng trưởng liên tục (28 năm), nhưng Trung Quốc đưa ra mục tiêu giảm độ nóng của tăng trưởng và đẩy mạnh chống lạm phát do tốc độ tăng giá tính theo năm của tháng 2/2008 đã lên đến 8,3%, cao nhất trong 12 năm qua.
Hai là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng vào yếu tố số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt. Một mặt, do nguồn lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người mỗi năm. Mặt khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao.
Ba là, nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng góp của yếu tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Điều đó chứng tỏ, sự đóng góp của yếu tố TFP đối với tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế còn nhỏ, chưa được một phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ trọng đóng góp của yếu tố này của các nước trong khu vực hiện nay.
Điều đó cũng chứng tỏ, nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đi theo hướng tăng trưởng về số lượng, chưa chuyển sang tăng trưởng về chất lượng, vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chưa chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu.
2. Hệ số ICOR của Việt Nam
Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao: TFP là tổng hợp của các nhân tố hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và năng suất lao động. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được thể hiện ở nhiều chỉ tiêu. Gần đây, trên các diễn đàn hội thảo và trên một số phương tiện thông tin đại chúng, khi đề cập đến hiệu quả đầu tư các chuyên gia thường dùng hệ số ICOR.
Chỉ tiêu này được tính bằng nhiều cách, song theo cách tính đơn giản mà các chuyên gia đề cập là lấy tỷ lệ vốn đầu tư/GDP chia cho tốc độ tăng trưởng GDP. Hệ số ICOR càng lớn thì hiệu quả đầu tư càng thấp và ngược lại.
Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP và tốc độ tăng GDP thì ICOR qua các thời kỳ như sau: Tính chung ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1991-2007 là 4,86 lần, cao hơn nhiều so với 2,7 lần của Đài Loan (trong thời kỳ 1961-1980), 3 lần của Hàn Quốc (trong thời kỳ 1961- 1980), 3,7 lần của Indonesia (trong thời kỳ 1981-1995), 4 lần của Trung Quốc (trong thời kỳ 2001-2006), 4,1 lần của Thái Lan (trong thời kỳ 1981-1995); cũng cao hơn so với 4,6 lần của Malaysia (trong thời kỳ 1981-1995).
Điều đó chứng tỏ, hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn thấp
Hiệu quả đầu tư còn được tính theo cách lấy GDP chia cho vốn đầu tư hàng năm (đều tính theo giá thực tế). Theo cách này, thì GDP/vốn đầu tư (có nghĩa là 1 đồng vốn đầu tư tạo ra được bao nhiêu đồng GDP) của Việt Nam đã bị sút giảm qua các thời kỳ: nếu thời kỳ 1991-1995 đạt 3,55 đồng/đồng, thì năm 1996-2000 còn 3,0 đồng/đồng, 2001-2005 còn 2,56 đồng/đồng, 2006-2007 còn 2,46 đồng/đồng.
Một nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, mà hiệu quả đầu tư thấp, nhất là hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước còn thấp hơn; năng suất lao động thấp,... nên nhu cầu đối với tiền tệ, yêu cầu cung tiền luôn luôn cao, tạo sức ép làm tăng lạm phát. Sức ép này cộng hưởng với lạm phát trên thế giới trong khi đồng Việt Nam được neo giá chặt với USD mà USD lại mất giá lớn so với các đồng tiền mà Việt Nam có quan hệ buôn bán lớn nhất lại càng tạo ra sưc ép lạm phát tại Việt Nam lớn hơn các nước.
Các con số trên còn thấp xa so với năng suất lao động chung của thế giới (trên 14.600 USD), còn thấp hơn cả mức bình quân đầu người của thế giới (khoảng 6.500 USD/người). Với năng suất thấp như trên thì giá trị thặng dư còn đang rất nhỏ nhoi.
Năng suất lao động của toàn nền kinh tế thấp (năm 2007) mới đạt 25.886.000 đồng/người, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản còn đạt thấp hơn chỉ có 9.607.000 đồng/người, ngay cả nhóm ngành công nghiệp-xây dựng cao nhất cũng mới đạt 55.072.000 đồng/người và của nhóm ngành dịch vụ cũng chỉ đạt 38.159.000 đồng/người. (quy ra USD các số liệu tương ứng: khoảng 1.600 USD, 600 USD, 3.438 USD, và 2.385 USD).
3. Vai trò của FDI với nền kinh tế Việt nam
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế Việt nam. Trước tiên, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào tổng đầu tư xã hội và góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong giai đoạn gần đây. Các nghiên cứu gần đây của Bộ kế hoạch và đầu tư chỉ ra rằng khu vực co vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp quan trọng vào GDP với tỷ trọng ngày càng tăng. Khu vực này góp phần tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ của nhiều ngành kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm đặc biệt là trong gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho một bộ phận lao động. Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công nghệ và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các sự án FDI cũng có tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người lao động làm việc trong các dự án FDI, tạo ra kênh truyền tác động tràn tích cực hữu hiệu. Những tác động này được thể hiện rõ trong những phân tích dưới đây:
Vốn Ngoài nước là nguồn vốn bổ xung sự thiếu hụt vốn trong nước giữ vai trò quan trọng
Tác động trực tiếp
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2006-2010: GDP tăng gấp 2,1 lần so với năm 2000
GDP bình quân đầu người: 1050-1100 USD
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 7,5-8%
FDI luôn có đóng lớn cho sự tăng trưởng kinh tế xã hội Việt Nam. Thí dụ trong lĩnh vực công nghiệp ,tốc độ tăng trưởng khoảng 16% nhưng trong đó khu vực FDI luôn có tốc độ tăng trưởng cao hơn ,từ 19 đến 20%.Vì vậy FDI luôn đem lại tăng trưởng cao trong lĩnh vực công nghiệp. FDI cũng có đóng góp lớn cho xuất khẩu,cho thu ngân sách và giải quyết hàng triệu việc làm cho người lao động.
Tác động của dòng vốn FDI đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua
Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam trong 20 năm qua đã đạt trên tỷ USD và hiện đang có xu hướng tăng mạnh. Dòng vốn này đã tác động đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua.
Trước hết, FDI góp phần làm tăng tổng vốn đầu tư, tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, góp phần thu ngân sách nhà nước và ổn định kinh tế vĩ mô.
Về tác động gián tiếp (còn gọi là tác động tràn), FDI tác động tới các doanh nghiệp (DN) Việt Nam qua bốn kênh chính:
Tạo sức ép cạnh tranh trên thị trường, từ đó buộc các DN trong nước phải đầu tư đổi mới công nghệ; lưu chuyển lao động từ DN FDI đến các DN trong nước; chuyển giao công nghệ cho DN trong nước; liên kết giữa DN FDI và DN trong nước để sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, việc tác động có các mức độ rất khác nhau và tùy thuộc từng loại hình DN.
Một trong những tác động lớn nhất của dòng vốn FDI đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam là tác động đến việc di chuyển lao động và chuyển giao công nghệ giữa DN FDI và DN trong nước. Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy tác động này đã không hoặc rất ít diễn ra. Vậy nguyên nhân của nó là:
- Di chuyển lao động có tay nghề và kỹ thuật cao hiện nay chủ yếu diễn ra trong nội bộ các DN FDI hơn là giữa DN FDI với các DN trong nước. Cụ thể chỉ có 4,6% DN trong nước thuộc nhóm ngành chế biến thực phẩm cho biết là có tiếp nhận lao động từ DN FDI. Lý do có thể là tiền lương của khu vực DN FDI cao hơn nên DN trong nước chưa có sức hút đối với lao động tay nghề cao từ các DN FDI.
Về kênh chuyển giao và phổ biến công nghệ giữa DN FDI và DN trong nước cũng không hoặc ít diễn ra. Ngoài các nguyên nhân khách quan như khuôn khổ luật pháp về sở hữu trí tuệ chưa đầy đủ, hiệu lực thấp, còn nguyên nhân chủ quan từ phía các DN trong nước.
Các DN trong nước phần lớn qui mô còn nhỏ, thiếu năng lực về tài chính để thanh toán các hợp đồng chuyển giao công nghệ, trình độ lao động thấp dẫn đến khả năng hấp thụ công nghệ thấp. Kết quả điều tra cho thấy tỉ lệ lao động có kỹ năng của các DN trong nước thấp hơn rất nhiều so với tỉ lệ lao động có kỹ năng của DN FDI.
* Sự xuất hiện của dòng vốn FDI tạo áp lực cạnh tranh lớn đối với DN trong nước:
- Chỉ có 31% nguyên liệu sản xuất các DN FDI hiện đang sử dụng được mua từ các DN trong nước, còn lại phần lớn là nhập khẩu hoặc mua lại từ các DN FDI khác.
- Khu vực FDI hiện đang góp 100% sản lượng một số sản phẩm công nghiệp như dầu khí, ôtô, máy giặt, máy điều hòa, tủ lạnh, điện tử; 60% cán thép; 28% ximăng; 33% máy móc thiết bị điện, điện tử; 25% thực phẩm đồ uống...
- Trong năm năm 2001-2005, xuất khẩu của khu vực FDI (không kể dầu thô) ước đạt 33,8 tỉ USD, chiếm trên 33% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Nếu tính cả xuất khẩu dầu thô, tỉ lệ này đạt gần 55%. Khu vực FDI chiếm khoảng 15% tổng sản phẩm nội địa (GDP), 18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Sức ép cạnh tranh có tác động hai mặt, thứ nhất làm đối thủ cạnh tranh yếu hơn có nguy cơ bị thu hẹp thị phần, giảm sản xuất, thậm chí phải rút lui khỏi thị trường. Đây là mặt tiêu cực của cạnh tranh. Tuy nhiên, cạnh tranh lại kích thích các đối thủ tự đầu tư đổi mới để vươn lên đứng vững trên thị trường, từ đó năng suất sản xuất được cải thiện.
Đó chính là tác động tích cực của FDI. Kết quả nghiên cứu cho thấy các DN qui mô lớn chậm đổi mới trang thiết bị sẽ bị tác động cạnh tranh nhiều, còn DN vừa và nhỏ dường như có lợi thế về tính linh hoạt nên tránh được sức ép cạnh tranh hơn.
Vì vậy, để tận dụng tốt những lợi thế của FDI vào Việt Nam thì chính sách khuyến khích FDI của Chính phủ và các địa phương cần hướng tới đạt được cả tác động tích cực trực tiếp lẫn gián tiếp.
Những biện pháp có thể áp dụng như: hoàn thiện thể chế phát triển thị trường các yếu tố (đặc biệt là thị trường lao động, thị trường công nghệ, thị trường bất động sản, thị trường vốn), đẩy mạnh cải cách DN nhà nước, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhanh chóng hình thành hệ thống DN phụ trợ để cùng với các DN FDI tạo nên những nhóm ngành có khả năng cạnh tranh quốc tế. (Vinanet)
FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
*Cơ cấu FDI giai đoạn 2006 – 2010
Công nghiệp: 55%
Dịch vụ: 37%
Nông lâm ngư nghiệp: 8%
ĐTNN đã thực sự góp phần chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam từ tập trung sang nền kinh tế thị trường, đồng thời nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp.
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN tăng bền vững ở tất cả các địa phương trong cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam trong một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viẽn thông, khí hoá dầu, tin học, ô tô...
Trong 20 năm qua, ĐTNN cũng đã đem lại cho Việt Nam những cơ hội được tiếp cận và mở rộng thị trường thông qua hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Nhờ đó năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam cũng được nâng lên.
FDI là nguồn vốn bổ sung :Cùng với sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của đất nước luồng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đổ vào Việt Nam cũng tăng lên nhanh chóng. Tính từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài 1988 đến hết 2007 tổng số vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt khoảng gần 90 tỷ USD và với trên 45 tỷ USD vốn thực hiện. Nếu tính theo vốn FDI/người thì Việt nam dẫn đầu các nước hiện nay.
Mấy năm gần đây FDI đổ vào nước ta tăng với cấp số nhân. Nếu như năm 2006 mới có 10,2 tỷ USD thì năm 2007 đã lên tới 21,3 tỷ USD, gần bằng tổng số vốn đầu tư của 5 năm 2001-2005 và bằng gần 1/5 tổng số vốn FDI trong vòng 20 năm qua. 7 tháng đầu năm nay tổng số vốn FDI đăng ký đạt 45 tỷ USD, chiếm gần một nửa tổng số vốn FDI đổ vào VN từ 20 năm nay, trong đó lượng vốn giải ngân đạt 7 tỷ USD.
Điều đó đã khẳng định niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường kinh tế nước ta và tính hấp dẫn của nền kinh tế đối với các nhà đầu tư.
Rõ ràng đầu tư nước ngoài đang đem lại cho nền kinh tế nước ta những lợi ích rõ rệt. Nó giúp cho Nhà nước có thêm nguồn vốn bổ sung; giúp các DN trong nước tiếp thu được công nghệ tiên tiến và bí quyết quản lý; giúp các DN nội địa tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu; tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động
Hiện nay FDI đóng góp tới 35,6% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước, nhiều hơn phần đóng góp của các DNNN và khu vực kinh tế tư nhân. FDI đã đóng góp khoảng 18% tổng vốn đầu tư xã hội, trên 16% GDP và gần 20% giá trị xuất khẩu . Chỉ riêng 7 tháng đầu năm nay khu vực kinh tế có FDI đã thu hút thêm 16.000 lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực có FDI lên 1,38 triệu người. Các DN có FDI cũng đã nộp ngân sách 1,1 tỷ USD, tăng 44,9% so với cùng kỳ năm ngoái.
CHƯƠNG 3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN GIẢI QUYẾT
VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA VỐN FDI
I. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết
1. Công tác quản lý và sủ dụng nguồn vốn FDI
Dù đã có những sửa đổi nhưng nhìn chung hệ thống luật pháp của Việt Nam vẫn còn quá phức tạp, với nhiều cấp độ khác nhau: Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư. Việc hướng dẫn tạo ra độ trễ khá lớn về thời gian từ khi văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cho đến khi được áp dụng vào cuộc sống.
Cơ chế chính sách của nhà nước vẫn chưa thực sự tạo cho các DNNN quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Các DNNN chưa thể hiện rõ tính độc lập tự chủ trong công tác huy động vốn cho đầu tư sản xuất kinh doanh, còn dựa vào NSNN và vốn vay ngân hàng.
Về huy động vốn trong nước, việc thực hiện cổ phần hoá DNNN còn chậm, Thị trường chứng khoán còn ở trình độ thấp, qui mô nhỏ bé, chất lượng dịch vụ chưa cao, chưa trở thành một kênh huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển.
Đối với hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước (chiếm 75% thị phần tín dụng, huy động vốn của toàn ngành), việc tài trợ cho các DNNN gặp rất nhiều khó khăn trong công tác thu hồi vốn để tái đầu tư Nợ xấu, nợ quá hạn lớn phần nhiều cũng nảy sinh từ hoạt động tài trợ cho các DN này, dẫn đến khả năng sinh lời của các NHTM thấp do phải thực hiện trích lập dự phòng rủi ro lớn theo quy định hiện hành.
Về huy động vốn ngoài nước, nhiều tiềm năng vốn vốn nước ngoài chưa được khai thác triệt để. Thực hiện FDI còn thấp so với mức cam kết và đăng ký của các nhà đầu tư tại Việt Nam. Sự cạnh tranh trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang ngày càng trở nên gay gắt trong khu vực và trên thế giới trong khi môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn bị đánh giá là thiếu nhất quán và kém cạnh tranh; thông tin kém minh bạch, chi phí của một số yếu tố đầu vào còn cao, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp còn hạn chế. Bên cạnh đó, thu hút vốn đầu tư gián tiếp (FII) còn chưa tương xứng với tiềm năng. Việc khơi thông nguồn vốn FII vào các doanh nghiệp của Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Phần nhiều là do Việt Nam chưa thực sự có những quy định pháp lý rõ ràng trong thu hút nguồn vốn này.
2. Về vấn đề cân đối nền kinh tế
Như chúng ta đã biết các tập đoàn kinh tế nhà nước đã gây ra sự mất cân đối giữa khu vực nhà nước với khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực dân doanh. Và bây giờ đến lượt khu vực kinh tế nước ngoài ngoài cũng là một lực lượng khổng lồ và nó đang dần tạo ra sự mất cân đối, nó uy hiếp các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chúng ta cần nhớ rằng các khu vực kinh tế dân doanh với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của nó có một nghĩa vụ xã hội là giải quyết vấn đề công ăn việc làm, tạo ra thu nhập và nó có nghĩa vụ tạo ra nền tảng thị trường và xã hội. Nếu các khu vực kinh tế dân doanh bị lấn át thì sự mất cân đối này không chỉ tạo ra hậu quả chính trị (hậu quả này là đương nhiên và buộc phải nghiên cứu) mà nó còn làm cho sức mua của thị trường giảm xuống. Mất cân đối giữa khả năng sản xuất với khả năng mua là một trong những mất cân đối có tính chất cơ sở của cái gọi là nền kinh tế thị trường.
3. Về các ngành công nghiệp phụ trợ
Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ cũng là một điểm yếu của nước ta hiên nay và nó cũng là một rào cản trong việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài hiện nay. Hơn nữa, nó cũng là một ngành mang lại nhiều lợi ích cho chúng ta. Bởi nếu chúng ta không phát triển được những ngành này thì khi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào nước ta họ sản xuất mà không có những nguyên phụ liệu đầu vào cho quá trình sản xuất thì họ sẽ không muốn đầu tư. Hoặc nếu có đầu tư thì các nguyên phụ liệu đó họ lại phải nhập khẩu tư bên ngoài qua đó là tăng kim ngach nhập khẩu của chúng ta. Còn nếu chúng ta có thể phát triển được ngành công nghiệp phụ trợ này thì sẽ vừa tạo điều kiện thu hút đầu tư vừa có thể thu được lợi tư việc bán sản phẩm cho họ. Qua đó góp phẩn làm tăng thu nhập và giải quyết công ăn việc làm cho người dân.
4. Vấn đề về cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực không theo kịp tốc độ phát triển, đòi hỏi các Bộ, ngành và địa phương phải có giải pháp thích hợp, nhất là trong bối cảnh nước ta đang phải đảm bảo thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước với tốc độ phát triển cao, bền vững và trước mắt đang thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, giám sát đầu tư, cắt giảm các dự án đầu tư công chưa cần thiết.v.v.
Cơ sở hạ tầng giao thông, sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, chậm trễ trong khâu giải phóng mặt bằng, là những khó khăn được các nhà đầu tư lên tiếng tại nhiều diễn đàn. Thực tế, có không ít dự án vừa xây dựng vừa chuẩn bị nguồn nhân lực, như dự án máy tính xách tay của Compal tại tỉnh Vĩnh Phúc đang cần ngay 3.000 lao động có tay nghề, nhưng tỉnh này đã thừa nhận là việc huy động rất khó; hay dự án đầu tư của Intel tại Tp.HCM cũng đang gặp nan giải về vấn đề lao động.
- Cơ sở vật chất và nhân lực phục vụ công tác thông tin kinh tế còn thiếu và yếu so với nhu cầu.
II. Các giải pháp và phương hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI ở Việt nam hiện nay
1. Cải thiện môi trường đầu tư
Chính phủ tiếp tục nỗ lực tạo môi trường đầu tư-kinh doanh hấp dẫn, cởi mở, minh bạch và thông thoáng hơn. Các Bộ, ngành và địa phương tích cực thực hiện các giải pháp chỉ đạo hữu hiệu của Thủ tướng Chính phủ về kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững bằng nhiều biện pháp, như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã triển khai các đoàn công tác các địa phương thực hiện việc điều hành kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách năm 2008; các đoàn triển khai đề án thúc đẩy giải ngân vốn FDI. Công tác “hậu kiểm” được quan tâm thông qua việc kiểm tra đầu tư, quy hoạch sân golf ; rà soát tình hình giải ngân các dự án cấp giấy CNĐT,so sánh với tiến độ cam kết, đề xuất giải pháp thúc đẩy. Bên cạnh đó, các Bộ, ngành liên quan cũng ban hành các văn bản hướng dẫn theo chức năng quản lý nhà nước (văn bản số 09/2008/TT-BXD của Bộ Xây dựng về điều chỉnh giá nguyên vật liệu và hợp đồng từ hình thức trọn gói sang hình thức hợp đồng theo đơn giá; Quyết định số 1436/QĐ/NHNN ngày 26/6/2008 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về cơ chế điều chỉnh lãi suất cơ bản mới, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng và phát hiện những nội dung cơ chế, chính sách chưa phù hợp để bổ sung, chỉnh sửa kịp thời ..
- Về môi trường pháp lý:
- Điều chỉnh quy hoạch ngành cho phù hợp với các thỏa thuận và cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập. Đặc biệt chú trọng công tác dự báo nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch (quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm, địa bàn...). Xoá bỏ quy định về việc yêu cầu các dự án đầu tư phải phù hợp với quy hoạch sản phẩm.
- Công khai các dự án chậm tiến độ, kém hiệu quả trong khi hỗ trợ tích cực công tác giải phóng mặt bằng đối với những dự án trọng điểm, có hiệu quả kinh tễ - xã hội cao.
- Tiếp tục hướng dẫn các cam kết về mở cửa thị trường cho các nhà ĐTNN trong lĩnh vực thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ theo đúng các cam kết của WTO. Công khai các văn bản pháp quy của các Bộ, ngành có liên quan về điều kiện đầu tư hoặc hành nghề của các doanh nghiệp nói chung để giúp các doanh nghiệp thực hiện đúng với các cam kết của Nhà nước ta.
- Ban hành văn bản hướng dẫn một số nội dung chưa rõ ràng (tại Nghị định 108/2006/ NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư, Nghị định 78 về BOT,BT).
- Về thủ tục hành chính :
- Tiếp tục tập trung hoàn thiện cơ chế ‘liên thông-một cửa’ ở các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư. Tăng cường năng lực quản lý đầu tư của các cơ quan chức năng và cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra hoạt động đầu tư; giải quyết kịp thời các thủ tục về đất đai, thuế, xuất nhập khẩu, hải quan,... Đồng thời, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành các văn bản về quản lý đầu tư trên địa bàn theo hướng minh bạch, rõ ràng về đầu mối, thời gian giải quyết hồ sơ, đầu mục hồ sơ cấp GCNĐT... từng bước công khai hoá các bước của quá trình cấp Giấy chứng nhận đầu tư lên mạng nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam với cả đầu tư trong nước và nước ngoài.
- Về quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư:
- Tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư nâng cấp các công trình giao thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu không để xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Rà soát/kiểm tra/điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường bền vững.
- Tập trung vào việc thực hiện các hoạt động giải ngân vốn ĐTNN đã được quy định tại Quyết định số 505/QĐ-BKH ngày 25/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhằm giảm khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện : Phối hợp hỗ trợ, thúc đẩy nhanh việc giải ngân vốn đăng ký của các dự án đã được cấp GCNĐT, đặc biệt chú trọng thúc đẩy triển khai các dự án quy mô vốn đầu tư lớn được cấp GCNĐT trong năm 2006 và năm 2007 (tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính, về giải phóng mặt bằng...). Hỗ trợ/giám sát các dự án đã/đang cấp GCNĐT triển khai đúng tiến độ đề ra.
- Ban hành chế độ báo cáo thống kê áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN và bên hợp doanh nước ngoài thay thế Thông tư số 01/LB ngày 31/3/1997 để làm căn cứ cho các cơ quan quản lý ĐTNN địa phương và doanh nghiệp thực hiện. Triển khai thực hiện Quyết định số 305/2005/QĐ-TTg ngày 24/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia của các doanh nghiệp ĐTNN.
- Về xúc tiến đầu tư:
- Triển khai Chương trình XTĐT quốc gia 2008 ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-BKH ngày 25/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư theo tiến độ và kinh phí được cấp.
- Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác XTĐT nói riêng và quản lý đầu tư nói chung. Vận động và phối hợp với các tổ chức quốc tế hỗ trợ mở các lớp đào tạo về xúc tiến và quản lý ĐTNN.
- Tiếp tục kết hợp các hoạt động XTĐT với các chuyến thăm và làm việc tại các nước của lãnh đạo cấp cao Đảng, Quốc hội, Chính phủ nhằm quảng bá môi trường đầu tư Việt Nam . Phối hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư- thương mại- du lịch.
- Khẩn trương triển khai việc thành lập các bộ phận xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm theo kế hoạch.
- Tiếp tục bảo trì, nâng cấp trang thông tin website giới thiệu về ĐTNN (ngoài tiếng Anh bổ sung thêm tiếng Nhật
2. Một số kiến nghị
- Để thu hút các công ty lớn có tiềm lực về công nghệ và khuyến khích chuyển giao công nghệ, ngoài môi trường đầu tư chung đủ tạo lòng tin cho các nhà đầu tư cũng nên có chính sách ưu đãi đầu tư. Cách tiếp cận ở đây là không áp dụng chính sách ưu đãi đầu tư tràn lan, mà ngược lại chỉ nên tập trung vào một vài lĩnh vực thỏa mãn các điều kiện được hưởng các ưu đãi này. Nhà nước cần đảm bảo việc thực hiện các chính sách ưu đãi, nhằm giảm thiểu chi phí giao dịch liên quan. Có nhiều biện pháp có thể áp dụng như ưu đãi về thuế, về cơ sở hạ tầng (đất đai và các dịch vụ cung cấp cơ sở hạ tầng), chính sách ưu đãi liên quan đến lao động (thuế thu nhập cá nhân).
Để nâng cao hiệu quả đầu tư và hỗ trợ các dự án trong và ngoài nước đã được cấp GCNĐT nhanh chóng đưa vốn thực hiện triển khai dự án, trong những tháng còn lại của năm 2008 và những năm tiếp theo cần tập trung vào một số nhóm giải pháp sau:
Tiếp tục rà soát và quản lý chặt chẽ nguồn vốn đầu tư của nhà nước, đảm bảo hiệu quả trong sử dụng nguồn vốn này. Tháo gỡ những khó khăn trong giải ngân các dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước đặc biệt là các dự án tài trợ từ phát hành trái phiếu chính phủ. Tăng cường tính minh bạch và công khai trong hoạt động đầu tư.
Tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ theo hướng bảo đảm hài hoà lợi ích giữa các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và dân cư; đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ sản xuất kinh doanh cá thể dễ dàng trong việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng để đầu tư phát triển sản xuất; cùng với việc triển khai chủ trương của Chính phủ đình hoãn các công trình chưa thật cần thiết hoặc kém hiệu quả, tiếp tục tháo gỡ các thủ tục về đầu tư xây dựng và làm tốt công tác giải phóng mặt bằng để nhanh chóng giải ngân đưa các công trình trọng điểm quốc gia đi vào hoạt động.
Giải quyết thoả đáng những khó khăn trước mắt trong công tác triển khai thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài và từng bước tháo gỡ những khó khăn về cơ sở hạ tầng, về chất lượng nguồn lực con người, về chi phí đầu tư và kinh doanh trong hoạt động đầu tư.
Đã đến lúc cần phải cải cách toàn bộ hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư ở Việt Nam hiện nay để làm minh bạch môi trường đầu tư và tạo thuận lợi nhất cho nhà đầu tư.
Thứ nhất, cần bãi bỏ Luật Đầu tư để tránh thủ tục hành chính phức tạp không cần thiết, hoặc ít nhất phải sửa Luật Đầu tư theo hướng cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư nếu doanh nghiệp muốn xin ưu đãi và bãi bỏ hoàn toàn các quy định về đăng ký đầu tư, thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư, thủ tục thẩm tra đầu tư Để thống nhất đầu tư và đăng ký kinh doanh cần hợp nhất hai cơ quan đăng ký kinh doanh và quản lý đầu tư thành một cơ quan lấy tên chung là cơ quan đăng ký doanh nghiệp.
Thứ hai, không phân biệt nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Nghị quyết 59 đã có chủ trương xóa bỏ giấy chứng nhận đầu tư đối với nhà đầu tư trong nước nhưng chính điều đó lại tạo ra sự phân biệt đối xử đối với nhà đầu tư nước ngoài. Tư duy này đi ngược lại với nguyên tắc đối xử quốc gia của WTO.
Thứ ba, cần xây dựng lại hệ thống pháp luật về đất đai hiện nay đang rối như canh hẹ vì phần lớn các dự án đầu tư đều có liên quan đến đất đai. Việc xây dựng lại hệ thống pháp luật về đất đai phải minh bạch, nhất quán, thuận lợi cho người dân để tránh tình trạng đất một màu mà giấy tờ liên quan đến đất lại có quá nhiều màu: đỏ, xanh, hồng, hồng mới, trắng
Theo ông Quentin Dupriez, thành viên ban soạn thảo Báo cáo đã nêu ra 6 khuyến nghị liên quan đến khung chính sách đầu tư để Việt Nam thực hiện tốt tiềm năng thu hút FDI và thu được thêm nhiều lợi ích từ FDI.
Một là Chính phủ Việt Nam cần chuyển từ đường lối "kiểm soát và chỉ đạo" sang "điều tiết, theo dõi và cưỡng chế tuân thủ". Một số biện pháp cần thực hiện ngay như cụ thể hoá danh sách các hạn chế tiếp nhận đầu tư, xoá bỏ giới hạn về thời gian trong giấy chứng nhận đầu tư...
Hai là thực hiện đầu tư vào một số lĩnh vực quan trọng, khuyến khích các dòng đầu tư mớI nhằm đa dạng hoá lĩnh vực chứ không chỉ vào xuất khẩu.
Ba là tạo điều kiện thuận lợi cho việc hấp thu các kỹ năng cần thiết cho nền kinh tế. Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa chính sách phát triển kỹ năng dựa trên giáo dục.
Bốn là phân biệt rõ ràng chức năng sở hữu và chức năng điều tiết của Nhà nước. Trong đó, UNCTAD đề xuất: chuyển giao quyền sở hữu tất cả các doanh nghiệp Nhà nước cho SCIC và trao cho tổng công ty này chức năng thực hiện ràng buộc ngân sách đối với tất cả các doanh nghiệp quốc doanh và thực hiện cơ chế trợ cấp Nhà nước một cách minh bạch khi cần thiết.
Năm là đơn giản hoá hệ thống thuế và hợp lí hoá cơ cấu ưu đãi thuế nhằm giúp cơ quan quản lí thuế dễ dàng thực thi. Cụ thể, Chính phủ nên tiến hành đánh giá tổng thể các ưu đãi thuế và cải cách hệ thống hiện hành khiến cho hệ thống thuế phổ cập trở nên hấp dẫn và cạnh tranh.
Sáu là hấp thu và thực hiện các thay đổi của pháp luật một cách lành mạnh. Cần có nhiều nỗ lực để trang bị thông tin, giáo dục-đào tạo các thẩm phán và các nhà quản lý.
Tóm lại, để FDI đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng kinh tế cũng như tối đa hóa lợi ích mà FDI có thể mang lại đòi hỏi có cách tiếp cận bao quát, hài hòa hơn trong xây dựng chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bên cạnh chú trọng tới thu hút FDI, chính sách FDI trong giai đoạn tới nên đồng thời chú trọng tới tác động tràn tích cực mà FDI có thể mang lại. Những nội dung của Nghiên cứu này góp phần làm rõ hơn cách tiếp cận đó và cung cấp một số căn cứ nhằm đạt mục tiêu trên.
MỤC LỤC
Lời mở đầu
CHƯƠNG 1. VAI TRÒ CỦA VỐN VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 3 1
I.Một số lý luận cơ bản về vốn 3 1
1.Khái niệm về vốn 3 1
II. Vai trò của vốn với tăng trưởng kinh tế 5 5
1. Mối quan hệ giưa vốn với tăng trưởng kinh tế 5
2. Vai trò của vốn qua các mô hình tăng trưởng kinh tế 6
2.1 Mô hình tổng cung-tổng cầu 6 6
2.2 Mô hình Harrod – Domar 8 8
2.3 Mô hình tăng trưởng Solow 9 9
CHƯƠNG 2. SỰ TÁC ĐỘNG CỦA FDI TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2007 13 13
I. Tình hình huy động và sử dụng vốn FDI ở Việt nam giai đoạn 2000-2007 13
1. Tình hình huy động vốn FDI- 13 13
2. Vấn đề sử dụng vốn FDI ở nước ta 18 18
3. Tình hình kinh tế xã hội năm 2008 của Việt nam và thế giới 21
II. Sự tác động của FDI tới tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt nam giai đoạn 2000 đến nay 24
1.Sự tác động của vốn tới tăng trưởng kinh tế 24
2.Hệ số ICOR của Việt Nam 27
3. Vai trò của FDI với nền kinh tế Việt nam 28
CHƯƠNG 3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN GIẢI QUYẾT VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA VỐN FDI 34
I. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết 34
1. Công tác quản lý và sủ dụng nguồn vốn FDI 34
2. Về vấn đề cân đối nền kinh tế 35
3. Về các ngành công nghiệp phụ trợ 35
II. Các giải pháp và phương hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI ở Việt nam hiện nay 36
1. Cải thiện môi trường đầu tư 36
2. Một số kiến nghị 39
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5991.doc