I: LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN vấn đề phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được đặt ra như một yêu cầu tất yếu đối với nềnkinh tế Việt Nam. Kinh tế tư nhân là một bộ phận trong cơ cấu ấy đã có một thời kỳ bị coi là đối lập với kinh tế XHCN, vì vậy phải nằm trong diện cải tạo xoá bỏ. Song thực tiễn đã cho thấy quan niệm như vậy là cực đoan và sự xuất hiện trở lại của kinh tế tư nhân đã góp phần không nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của nền kinh tế theo hướng tích cực. Cùng với chủ trương chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường , Đảng và nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân, thành phần kinh tế non trẻ của nước ta đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Nhiều vấn đề bất cập trong xã hôi, trong chủ trương chính sách và tổ chức quản lý đang là trở ngại cho sự phát triển của thành phần kinh tế này.
Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Cơ hội phát triển rút ngắn, thực hiện thành công CNH, HĐH phấn đấu đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 là hiện thực. Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn với sự giải phóng tối đa lực lượng sản xuất xã hội. Trong bối cảnh các nguồn lực kinh tế của Việt Nam còn đang hạn chế, xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, còn kinh tế tư nhân như một động lực phát triển cơ bản là một hướng đi hoàn toàn đúng đắn. Trong những năm vừa qua mặc dù đã có bước phát triển tốt, kinh tế tư nhân Việt Nam vẫn chưa thực sự có được một vai trò tương xứng với tiềm năng của nó. Bài viết này sẽ tập trung làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau đây.
Vai trò thành phần kinh tế tư nhân và vấn đề thực tiễn đật ra trong thời kỳ quá độ lên CNXH
27 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2065 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò thành phần kinh tế tư nhân và vấn đề thực tiễn đật ra trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ô phù hợp trên từng địa bàn.
2. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân .
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, thành phần này có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất ,xã hội hoá sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là thành phần kinh tế rất năng động nhạy bén với kinh tế thị trường, do đó sẽ có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước. Hiện nay, kinh tế tư bản tư nhân bước đầu có sự phát triển, nhưng phần lớn tập trung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và kinh doanh bất động sản; đầu tư vào sản xuất con ít và chủ yếu quy mô vừa và nhỏ .
Chính sách của Đảng và Nhà nước ta là khuyến khích tư bản tư nhân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, đáp ứng các nhu cầu của dân cư. Nhà nứoc bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ; xoá bỏ định kiến và tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng, về khoa học công nghệ , về đào tạo cán bộ - cho thành phần kinh tế này. Tuy nhiên, đây là thành phần kinh tế có tính tự phát rất cao. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX có đoạn viết:” Khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất , kinh doanh mà pháp luật không cấm . Tạo môi trưòng kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp lý để kinh tế ư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tên của Nhà nước , kể cả đầu tư ra nước ngoài ; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần , bán cổ phiếu cho người lao động , liên doanh , liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước , xây dựng quan hệ tốt với chủ doanh nghiệp và người lao động
II . CÁC LOẠI HÌNH TỔ CHỨC KINH DOANH CƠ BẢN .
1. Doanh nghiệp tư nhân .
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân là một đơn vị kinh doanh do một cá nhân bỏ vốn ra thành lập làm chủ. Cá nhân này vừa là chủ sở hữu, vừa là người sử dụng tài sản, đồng thời cũng là người quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Thông thường chủ doanh nghiệp là giám đốc, trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng cũng có trường hợp vì những lí do cần thiết, chủ doanh nghiệp không trực tiếp điều hành hoạt động kinh doanh mà thuê người khác làm giám đốc. Nhưng dù trực tiếp hay gián tiếp điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân quản lý và tự chịu trách nhiệm không có sự phân chia rủi ro với ai
Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiêm vô hạn về các khoản nợ trong kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu làm ăn phát đạt thu được nhiều lợi nhuận, chủ doanh nghiệp được hưởng toàn bộ số lợi đó. Ngược lại, nếu gặp rủi ro hay kinh doanh bị thua lỗ, họ phải chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của doanh nghiệp.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp có không quá 50 thành viên góp vốn thành lập công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của mình.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có thể chỉ có một thành viên.
Công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụtài sản khác của công ty bằng tài sản của mình (trách nhiệm hữu hạn). Thành viên công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghiac vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty. Như vậy, trong công ty trách nhiệm hữu hạn có sự phân tách tài sản: tài sản của công ty và tài sản của thành viên. Nguyên tắc phân tách được áp dụng trong mọi quan hệ tài sản, nợ nần và trách nhiệm của công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu ra công chúng để công khai huy động vốn. Việc chuyển nhượng vốn góp của thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn trước hết phải ưu tiên cho các thành viên khác của công ty. Chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là thành viên công ty nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì chủ sở hữu công ty ó quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác.
Công ty cổ phần .
Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, ngưòi sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu.
Trong suốt quá trình hoạt động của công ty cổ phần ít nhất phải có 3 thành viên tham gia công ty cổ phần. Là loại công ty đặc trưng cho công ty đối vốn cho nên có sự liên kết của nhiều thành viên và vì vậy việc quy định số thành viên tôis thiểu phải có đã trở thành thông lệ quôcs tế trong mấy trăm năm tồn tại của công ty cổ phần. ở hầu hết các nước đều có quy định số thành viên tốithiểu của công ty cổ phần.
Phần vốn góp (cổ phần ) của các thành viên được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do công ty phát hành là một loại hàng hoá. Người có cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng theo quy định của pháp luật. Công ty cổ phần chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của công ty. Các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Trong quá trình hoạt động công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán (như cổ phiếu, trái phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán để huy động vốn. Điều này thể hiện khả năng huy động vốn lớn của công ty cổ phần.
4. Công ty hợp danh.
Công ty hợp danh được pháp luật ghi nhận là một hình thức của công ty đối nhân, trong đó có ít nhất 2 thành viên (đều là cá nhân và là thương nhân) cung tiến hành hoạt động thương mại (theo nghĩa rộng) dưới một hãng chung (hay hội danh) và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty.
Ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Do tính an toàn pháp lý đối với công chúng cao, mặt khác các thành viên thường có quan hệ mật thiết về nhân thân, nên việc quản lý công ty hợp danh chịu rất ít sự ràng buộc của pháp luật. Về cơ bản, các thành viên có quyền tự thoả thuận về việc quản lý, điều hành công ty. Tuy nhiên cần lưu ý là quyền quản lý công ty hợp danh chỉ thuộc về các thành viên hợp danh, thành viên góp vốn không có quyền quản lý công ty
Trong công ty hợp danh , Hội đồng thành viên là cơ quan quyết định cao nhất của công ty bao gồm tất cả các thành viên hợp danh. Hội đồng thành viên có quyền quyết định mọi hoạt động của công ty. Khi họp Hội đồng thành viên, các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau trong biểu quyết (mỗi thành viên chỉ có một phiếu biểu quyết) mà không phụ thuộc vào giá trị phần vốn góp của họ trong công ty. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa quyền của các thành viên trong uản lý của công ty hợp danh với quyền của các thành viên trong quản lý công ty đối vốn (công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần).
Trong quá trình hoạt động của công ty, các thành viên hợp danh phân công nhau đảm nhiệm các trức trách quản lý và kiểm soat công ty, và cử một người (trong số thành viên hợp danh ) lam Giám đốc công ty. Giám đốc thực hiện nhiêm vụ điều hành công việc trong công ty, phân công, điều hoà, phối hợp công việc của các thành viên hợp danh và thực hiên các công việc khác theo uỷ quyền của các thành viên hợp danh
CHƯƠNG II
VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
I: GÓP PHẦN QUAN TRỌNG ĐỂ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ .
Trên giác độ tổng cung .
Kinh tế tư nhân cung cấp cho xã hội sản phẩm vật chất và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu về đời sống , nhu cầu cho quá trình tái sản xuất của xã hội . Với ưu thế nổi trội của khu vực kinh tế tư nhân : suất đầu tư thấp , dễ chuyển đổi phương hướng sản xuất cho phù hợp với nhu cầu của thị trường , quy mô nhỏ phù hợp với năng lực quản lý của các hộ gia đình , nên đã thu hút được đông đảo các tầng lớp dân cư . Tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân khá ổn định .
Khu vực kinh tế tư nhân có tốc độ phát triển và tốc độ tăng của các năm từ 1995 đến 2000 thường cao hơn tốc độ tăng chung của nền kinh tế (trừ năm 1999).Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm thời kỳ 1995 – 2000 của cả nước 6,9% ; của khu vực kinh tế tư nhân là 7,2% . Năm 2000 , tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh hơn nhịp độ tăng GDPcủa toàn bộ nền kinh tế tới 1,5%(nếu tính theo giá hiện hành ) và năm 2003 tốc độ tăng trưởng GDP trong khu vực kinh tế ư nhân tăng so với năm 2002 là 7,24%.
Tỷ trọng khu vực kinh tế tư nhân trong toàn nền kinh tế không những không được cải thiện mà còn suy giảm nhẹ , chủ yếu do trong những năm cuối thập kỷ 90 , nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đi vào hoạt động và làm thay đổi cơ cấu toàn bộ nền kinh tế .
Số lượng doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh, và chiếm số lượng lớn trong tổng số doanh nghiệp của cả nước thể hiên qua bảng sau:
Số doanh nghiệp có tại thời điểm 1/1
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
- Tổng số doanh nghiệp
+ Doanh nghiệp nhà nước
+ Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong đó:
Hợp tác xã
Doanh nghiệp tư nhân
+ Công ty tư nhân
+ Công ty cổ phần
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
39.762
5.531
32.702
3.187
18.226
10.489
800
1.529
51.057
5.067
43.993
3.614
22.554
16.189
1.636
1.997
62.892
5.033
55.555
4.112
24.818
23.587
3.038
2.304
Trong khu vực kinh tế tư nhân , tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của các doanh nghiệp tư nhân khả dĩ hơn cả: chung khu vực kinh tế tư nhân 7,2% (trong đó doanh nghiệp tư nhân 8,5% ; Cty TNHH ; Cty cổ phần 6,1% ; hộ cá thể 7,2%).
2. Trên giác độ tổng cầu .
Theo tính toán của các nhà thống kê , để tăng trưởng 1% GDP của Việt Nam cần tăng trưởng tiêu dùng 2,1 đến 2,2% (kể cả tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho đời sống ). Khu vực kinh tế tư nhân phát triển sẽ làm tổng cầu tăng nhanh , thực hiện được chủ trương kích cầu của Nhà nước do mở rộng sản xuất làm cho nhu cầu các yếu tố đầu vào gia tăng , đồng thời thu nhập của người lao động tăng do sản xuất phát triển và số lao động được huy động vào làm tăng thêm . Đây chủ yếu là tầng lớp có thu nhập thấp nên tỷ lệ tiêu dùng cận biên (MPC) lớn , tỷ lệ tiêt kiêm cận biên (MPS)nhỏ hơn so với tầng lớp có thu nhập cao .
Trong những năm gần đây khu vực kinh tế tư nhân tăng rất nhanh về mặt số lượng , nhiều doanh nghiệp được hình thành vì thế việc sản xuất hàng hoá với nhiều mặt hàng trở nên rất đa dạng và phong phú . Việc tiêu dùng của người dân cũng như của các doanh nghiệp tăng nhanh rõ rệt , doanh nghiệp thì cần sử dụng nhiều nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất , người tiêu dùngsống ngày càng cao , kèm theo mặt hàng trở nên phong phú đa dạng cho nên mức tiêu dùng của toàn xã hội tăng rất nhanh vì thế xét trên giác độ tổng cầu thì khu vực kinh té tư nhân đã đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
II. TẠO VIỆC LÀM VÀ XOÁ ĐÓI GẢM NGHÈO.
Tạo việc làm.
Từ năm 1996 đến nay , số lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân chỉ giảm trong năm 1997 , còn lại đều tăng .
Thời điểm 31-12-2000 số lượng lao động trong khu vực kinh tế tư nhân là 4.643.844 người , chiếm 12%tổng số lao động xã hội ,bằng 1,3 lần tổng số việc làm trong khu vực kinh tế nhà nước .Lao động của hộ kinh doanh cá thể là 3.802.057 người , của các doanh nghiệp tư nhân là 841.787 người .
Sự gia tăng của các doanh nghiệp tỷ lệ thuận với sự gia tăng về số lượng lao động phù hợp với trình độ kỹ thuật của lao động , việc sử dụng lao động tại chỗ của khu vực kinh tế tư nhân đã giảm bớt khâu giải quyết nơi ăn ở , các điều kiện cơ sở hạ tầng khác như phương tiện giao thông , trường học trạm xá…. , tình trạng thất nghiệp dã giảm dần .
do Trong 5 năm 1996-2000 lao động trong khu vực kinh tế tư nhân tăng thêm 778.681 người (tăng 20,4%). Trong đó số lao động trong các doang nghiệp tư nhân tăng thêm 487.459 người (tăng 237,57%); số lao động ở hộ kinh doanh cá thể tăng thêm 292.222 người (tăng 8,29%). Số lao động qua thực tế khảo sát ở hộ kinh doanh cá thể lớn hơn nhiều so với số đăng ký vì nhiều hộ gia đình chủ yếu sử dụng số lao động trong dòng họ , lao động mang tính thời vụ và lao động nông nhàn không thể hiện trong báo cáo thống kê. Tình hình thu hút lao động trong những năm qua thể hiện rất rõ rệt qua bảng :
Tình hình thu hút lao động trongkhu vực kinh tế tư nhân trong những năm qua.
(tính đến thời điểm 31-12 hàng năm)
1996
1997
1998
1999
2000
Lao động (người)
3.865.163
3.666.942
3.816.942
4.097.455
4.643.844
nhu
Tốc độ phát triển liên hoàn(%)
100
94,87
104,09
107,35
113,33
Tốc độ tăng liên hoàn(%)
-5,13
4,09
7,35
13,33
% trong tổng lao động xã hội
11,2
10,3
10,3
10,9
12,0
Công nghệ kỹ thuật sản xuất ngày càng được cải thiên và nâng cao , dây truyền sản xuât ngày càng hiện đại , đòi hỏi ở công nhân một trình độ tay nghề phù hợp với điều kiện làm việc, chính vì thế quá trình đào tạo tay nghề được đưa lên vị trí hàng đầu .Hiện nay ,trình độ tay nghề của công nhân được nâng cao rõ rệt , bên cạnh đó việc xây dựng chiến lược và chương trình phát triển đào tạo nghề được hình thành ,như việc xây dựng chiến lược và chương trình phát triển đào tạo nghề đến năm 2005và 2010.Trong đó cần chú trọng đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề và công nhân trình độ cao cho khu vực KTTN. Mặt khác điều kiện để đào tạo tay nghề cho người lao động thuận lợi hơn so với cáckhu vực kinh tế khác, hầu hết được đào tạo tại chỗ, thông qua kèm cặp của người nhà đã có tay nghề. Chi phí cho đào tạo không đáng kể, đồng thời qua truyền nghề như vậy sẽ duy trì được những làng nghề truyền thống, góp phần cùng xã hội dạy nghề mà chi phí chung của xã hội (kể cả chi phí của tư nhân và nhà nước ) không đáng kể .
Việc tạo ra hiều chỗ làm việc mới đã góp phần thu hút nhiều lao động trong xã hội, nhất là số người trẻ tuổi hàng năm đến tuổi lao động chưa có việc làm, giải quyết số dôi dư từ cơ quan, doanh nghiệp nhà nước do tinh giảm biên chế và giải thể.
2.Xoá đói giảm nghèo.
Khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần đáng kể vào việc xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân ở khu vực thành thị và nông thôn . Theo thực tế khảo sát, thu nhập của người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân thường có mức tương hoặc cao hơn thu nhập của lao động trồng lúa ở nông thôn cùng địa bàn.
Phát triển khu vực kinh tế tư nhân góp phần rất quan trọng để tạo ra việc làm tại chỗ cho gia đình và địa phương , đem lại thu nhập cho người lao động .Theo kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2000 của Tổng cục Thống Kê , mức thu nhập trung bình 1tháng/ 1 lao động (1000 đ)của các doanh nghiệp nói chung là: 1041,1; DNNN là 1048,2; DNtư nhân là 651,1; Cty cổ phần là 993,0; Tập thể là 529,3; CtyTNHHlà 801,8; DN có vốn dầu tư nước ngoài là 1754,5.của khu vực kinh tế tư nhân tuy thấp hơn các DNNN nhưng cao hơn khu vực kinh tế tập thể . Thu nhập trung bình của 1 lao động trong khu vực kinh tế tư nhân cao gấp 2đến 3 lần so với mức lương cơ bản của Nhà nước quy định .
III. ĐÓNG GÓP VÀ HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN VỐN TRONG XÃ HỘI LỘP NGÂN SÁH NHÀ NƯỚC .
1. Huy động các nguồn vốn trong xã hội sử dụng vào sản xuất kinh doanh .
Trong 10 năm gần đây, vốn đầu tư của khu vực tư nhân tăng nhanh, chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 1999 tổng vốn đầu tư khu vực kinh tế tư nhân đạt 31.542 tỷ đồng chiếm 24,05%; năm 2000 đạt 35.894 tỷ đồng, tăng 13,8% so với năm 1999, chiếm 24,31% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Năm 2000 vốn đầu tư của hộ kinh doanh cá thể đạt 29.267 tỷ đồng, chiếm 19,82% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp tư nhân đạt 6.62 Tổng vốn sử dụng thực tế của khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh. Đối với các doanh nghiệp tư nhân năm 1999 là 79.493 tỷ đồng, năm 2000là 110.071 tỷ đồng, tăng 38,5%. Các địa phương tăng mạnh vốn sử dụng thực tế của doanh nghiệp là Hà Nội từ 10.164 tỷ đồng (năm1999) tăng lên 16.573 tỷ đồng (năm2000), tăng 63,05%; tương ứng ở thành phố Hồ Chí Minh từ 36.954 tỷ đồng tăng lên 52.353 tỷ đồng, tăng 41,67%…
Trong hai năm 2001-2002, sau khi có luật doanh nghiệp ra đời, số doanh nghiệp tư nhân ra đời 35.440,với số vốn đăng ký đạt 40.455 tỷ đồng, nhiều hơn số doanh nghiệp tư nhân được thành lập trong 5 năm trước cộng lại .
Năm 2003 , khu vực kinh tế tư nhân có bước phát triển mạnh mẽ. Khu vực kinh tế tư nhân chiếm 26,7% tổng vốn đầu tư phát triển, hầu hết giá trị nông nghiệp, chiếm 25,5% giá trị công nghiệp, phần lớn giá trị dịch vụ, 48% kim ngạch xuất khẩu.
2. Đóng góp phần lớn vào ngân sách nhà nước.
Với sự phát triển nhanh chóng của khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển của đát nước, với số vốn huy động lớn trong toàn xã hội, khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp ngày càng tăng vào ngân sách nhà nứơc.
Năm 2000 nộp được 5.900 tỷ đồng, ước tính chiếm 7,3%tổng thu ngân sách tăng 12,5% so vơ2í năm 1999. Đến năm 2001, khu vực doanh nghiệp tư nhân
Nộp ngân sách nhà nước đạt trên 11.075 tỷ đồng, chiếm 14,8%tổng thu ngân sách.
Qua số liệu cho chúng ta thấy khu vực kinh tế tư nhân có vai trò rất lớn trong nguồn thu ngân sách của nhà nước .Trong năm 2001 chiếm 14,8% trong tổng ngân sách nhà nước với tốc độ phát triển nhanh chong thì chỉ trong một vài năm gần đây khu vực kinh tế này sẽ thể hiện một vị thế quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế và là chỗ dựa vững chắc trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước trở thành một nước công nghiệp hoá hiện đại hoá.
IV. THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU KINH TẾ XÃ HỘI, CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ.
Quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã đặt ra những yêu cầu mới thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đã xuất hiện nhiều doanh nhân kinh doanh thành đạt, đưa doanh nghiệp của mình phát triển, cải thiện được đời sống người lao động, đóng góp ngày càng nhiều cho xã hội, được xã hội tôn vinh.
Trình độ sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng tiến bộ hơn, số lượng hàng hoá tham gia xuất khẩu ngày càng tăng. Nhiều sản phẩm của khu vực kinh tế tư nhân được xuất khẩu uỷ thác qua doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực kinh tế tư nhân còn tham gia nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất hàng xuất khẩu. Xuất khẩu trực tiếp của khu vực kinh tế tư nhân đến nay đã tăng khá, 9 tháng đầu năm 2001 đạt 2.189.330.000 USD, trong đó các công ty cổ phần đạt 1.606.489.900 USD, công ty trách nhiệm hữu hạn đạt 211.900.000 USD (số liệu của Tổng cục hải quan).
Các doanh nghiệp tư nhân đã tham gia tích cực vào xuất nhập khẩu trực tiếp, đến năm 2000 số doanh nghiệp tư nhân tham gia xuất khẩu trực tiếp tăng lên 16.200 doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã xuất khẩu được những sản phẩm từ hàng thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến (như cá khô đi Nhật Bản, cá kho tộ đi Mỹ…), đến cả rơm sạch là những mặt hàng mà các doanh nghiệp nhà nước chưa quan tâm đến. Vì thế khu vực ngoài quốc doanh trong nước từ chỗ chỉ chiếm 11% giá trị xuâts khẩu vào năm 1997 nhưng đến quýI-2002 đã tăng lên khoảng 31% (không tính giá trị xuất khẩu dầu thô). Gýa trị xuất khẩu từ mức khoảng 5% đã tăng lên 24% trong các thời điểm tương ứng (thời báo Kinh tế Việt Nam số 66 ngày 3-6-2002).
Các doanh nghiệp , công ty đăng ký sản xuất kinh doanh theo pháp luật và được tự do sản xuất kinh doanh tự do chọn mặt hàng sản xuất hay kinh doanh. Thị trường Việt Nam với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế tư nhân đã tạo ra môi trường hợp tác trên cơ sở 2 bên cùng có lợi và cạnh tranh dưới sự quản lý của nhà nước tạo điều kiện phat triển nhanh chóng kinh tế Việt Nam , hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế .
Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân góp phần thu hút được nhiều lao động ở nông thôn vào các ngành phi nông nghiệp, nhất là công nghiệp đã giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế từng địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đât nước.
Khu vực kinh tế tư nhân tăng về số lượng và khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế . Nếu như trước đây , kinh tế tư nhân không được thừa nhận, bị coi là đối tượng của cách mạng XHCN, phải đựơc cải tạo xoá bỏ, với tư tưởng như thế trong giai đoạn đó kinh tế tư nhân vẫn chua được phát triển mà hầu như còn bị vùi dập , kinh tế đất nước với sự hiện diện toàn bộ bởi kinh tế tập thể với cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Từ đường lối đổi mới (Đại hội 6 của Đảng tháng 12.1986) khẳng định xây dựng phát triển nền kinh tế nước ta với cơ cấu nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế tồn tại lâu dài thì kinh tế tư nhân đựơc phát triển rất mạnh mẽ, tạo cho cơ cấu kinh tế có xu hướng chuyển dịch cân bằng giữa kinh tế tư nhân với kinh tế tập thể .
Cơ cấu kinh tế có xu hướng chuyển dịch cân bằng không chỉ thể hiện về số lượng giữa kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể , mà còn thể hiện rất rõ trong sự phát triển của các vùng lãnh thổ, và giữa các ngành. Các doanh nghiệp đăng ký hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh thương mại chiếm 42% tổng số doanh nghiệp, công nghiệp và xây dựng 31%, dịch vụ khác 22%, nông nghiệp chỉ chiếm 5%.
Trình độ sản xuất của khu vực kinh tê tư nhân ngày càng tiến bộ , với máy móc trang thiết bị ngày càng hiện đại vì thế sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều, mẫu mã phong phú và chất lượng dần được cải thiện.Tham gia tích cực vào xuất khẩu trực tiếp.
CHƯƠNG IV
ĐẢNG VIÊN LÀM KINH TẾ
I: ĐẢNG VIÊN LÀM KINH TẾ TƯ NHÂN. TẠI SAO LẠI KHÔNG?
Bản dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội X của Đảng Cộng sản VN chủ trương cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân và không giới hạn quy mô. Đây là một chủ trương đúng. Tuy nhiên, vẫn còn một số người, kể cả những nhà lý luận trong Đảng, không đồng ý với chủ trương đó vì cho rằng đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân là trái với nguyên tắc giai cấp, kinh tế tư bản tư nhân thuộc giai cấp bóc lột lao động còn người cộng sản phải lấy việc xóa bỏ chế độ bóc lột làm lý tưởng đời mình. Tôi thấy lập luận này sai ở hai điểm cơ bản: Một là, trong chế độ một đảng như hiện nay, tư tưởng và hành động đối xử phân biệt với một thành phần của dân tộc là trái với đạo lý và trái với lợi ích chung, nhất là thành phần đó đang góp phần ngày càng quan trọng vào việc làm cho kinh tế phát triển. Hai là, cho rằng bản chất của kinh tế tư bản tư nhân là bóc lột lao động là không đúng với lý luận và thực tiễn trong thời đại ngày nay.
Kinh tế tư bản tư nhân và vấn đề đảng viên Đảng Cộng sản VN
Trước hết, cần hiểu nội dung của kinh tế tư bản tư nhân và vị trí của nó trong nền kinh tế VN hiện nay. Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế trong đó một hoặc nhiều cá nhân sở hữu tư liệu sản xuất và có thuê mướn lao động, khác với kinh tế cá thể là những cá nhân có tư liệu sản xuất nhưng không thuê mướn lao động, chỉ sản xuất, kinh doanh dựa trên lao động của chính mình hoặc của gia đình mình. Trong quá trình đổi mới, với Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Doanh nghiệp, kinh tế tư bản tư nhân lớn mạnh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Vào những năm đầu đổi mới, kinh tế tư bản tư nhân hầu như chưa có gì nhưng đã chiếm 14% trong tổng sản phẩm trong nước (GDP) vào năm 1995 và tăng lên 23% vào năm 2003. Trong sản xuất công nghiệp, vị trí của kinh tế tư bản tư nhân còn cao hơn: 32% năm 1995 và 49% năm 2003.
Trong thể chế một đảng lãnh đạo, việc không chấp nhận một thành phần quan trọng của dân tộc vào trong tổ chức của mình, dù với lý do gì đi nữa, cũng hoàn toàn không có sức thuyết phục. Nếu là chế độ đa đảng, một đảng nào đó có thể có một cương lãnh hoạt động không đại diện hết lợi ích của mọi thành phần. Trong trường hợp đó, mỗi người dân có quyền chọn lựa những đảng phù hợp với lợi ích của riêng mình. Nhưng trong chế độ một đảng, người dân không thể có một chọn lựa nào khác mà đảng đó lại đối xử phân biệt với một thành phần nào đó là bất công, là không hợp với đạo lý. Ngoài ra, tại VN, sự lớn mạnh của kinh tế tư bản tư nhân, sự đóng góp ngày càng lớn của khu vực này vào việc phát triển của nền kinh tế, là kết quả của đổi mới. Nếu cho rằng đó là thành phần không đáng để đảng viên tham gia, thậm chí cho đó là thành phần thuộc giai cấp khác mà lý tưởng của người cộng sản là trước sau cũng phải xóa bỏ giai cấp đó, thì chẳng những mâu thuẫn với đường lối đổi mới, xóa bỏ thành quả của đổi mới mà nguy hiểm hơn, còn làm mất lòng tin của người dân trong nước và cộng đồng quốc tế, đặc biệt là những nhà đầu tư nước ngoài
Tư bản tư nhân ngày nay có phải tất yếu là bóc lột lao động?
Những người chủ trương đảng viên không được làm kinh tế tư bản tư nhân lấy lý do rằng đó là thành phần kinh tế bóc lột lao động bằng giá trị thặng dư mà lý tưởng của Đảng Cộng sản là xóa bỏ bóc lột. Theo tôi, dù phân tích từ góc độ nào cũng phải đi đến một kết luận tối hậu là làm sao để người lao động ngày càng sung sướng, ngày càng có một mức sống cao hơn. Mọi tư tưởng và lý luận không đạt được mục đích này tự nó sẽ mâu thuẫn và không phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Giá trị thặng dư (GTTD) theo chủ nghĩa Marx là tổng sản phẩm xã hội trừ đi khấu hao tư bản và tiền lương trả cho lao động. GTTD này bao gồm tiền lãi ngân hàng, tiền vốn chia cho cổ đông, và lợi nhuận của xí nghiệp.
Trong thể chế xã hội chủ nghĩa (XHCN), các tư liệu sản xuất do nhà nước và tập thể nắm giữ nên tất cả GTTD thuộc về nhà nước, thuộc về tập thể, còn thể chế tư bản chủ nghĩa (TBCN) hoặc thể chế của một nền kinh tế nhiều thành phần, GTTD gồm ít nhất 3 phần: lợi nhuận sau khi trừ thuế của xí nghiệp tư nhân và xí nghiệp quốc doanh, thu nhập của nhà nước từ thuế lợi nhuận doanh nghiệp, và tiền lãi ngân hàng cộng với cổ tức (phần thứ ba này có nhiều chủ sở hữu, trong đó có cả người lao động vì họ có tiền để dành ở ngân hàng và có mua cổ phiếu của xí nghiệp). Như vậy, cả thể chế XHCN và TBCN đều có GTTD, chỉ khác là nhà nước (và tập thể) trực tiếp nắm hết rồi phân phối lại hay là xí nghiệp tư nhân và cá nhân nắm phần lớn. Cần nói thêm rằng dù trong thể chế TBCN, GTTD vẫn chịu sự điều tiết của nhà nước qua chính sách tài chánh.
Đứng trên lập trường của người lao động, vì quyền lợi của người lao động, ta thấy cần đặt ra các vấn đề sau:
(1) Làm sao để ngày càng tăng hay ít nhất là không giảm tỷ lệ của phần được chia cho lao động trong thu nhập quốc dân. Nói khác đi là làm sao để ngày càng giảm hoặc ít nhất là giữ nguyên tỷ lệ của GTTD trong tổng thu nhập quốc dân.
(2) Làm sao để quy mô của thu nhập quốc dân ngày càng tăng. Giữa trường hợp người lao động được chia phần lớn với cái bánh lúc nào cũng nhỏ với trường hợp có ai đó với tài trí và tinh thần mạo hiểm, sẵn sàng đầu tư ứng dụng công nghệ, khám phá thị trường làm cho cái bánh ngày càng lớn thì dù tỷ lệ phần chia của người lao động có thấp hơn, người lao động sẽ chọn trường hợp thứ hai, vì giá trị tuyệt đối của phần họ được chia lớn hơn nhiều so với trường hợp thứ nhất
Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy:
Thứ nhất, kinh tế Nhật phát triển nhanh, hầu như liên tục trong thời gian dài như mọi người đều biết. Từ năm 1900 đến năm 1973, thu nhập quốc dân bình quân đầu người trên thực chất (sau khi trừ ảnh hưởng của giá cả) đã tăng đến 10 lần.
Thứ hai, trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, phần chia cho người lao động có khuynh hướng giảm. Về từng người lao động cá biệt có thể có nhiều trường hợp bị bóc lột GTTD, với ý nghĩa là năng suất lao động của họ cao hơn tiền lương. Tuy nhiên, trong trường hợp này, những người lao động đó bị bóc lột là để cứu những người lao động khác có công ăn việc làm trong một nền kinh tế còn dư thừa lao động (hoặc nói khác đi là để chia công việc, chia tiền lương giữa những người lao động), và điều này lại tự nhiên vì do quy luật thị trường quyết định. Một điểm cần lưu ý nữa là đối với những người lao động đó, được “bị bóc lột” như vậy vẫn sung sướng hơn sống trong cảnh cơ cực ở nông thôn.
Thứ ba, sau một quá trình phát triển, phần chia cho người lao động có khuynh hướng tăng. Không những cái bánh của Nhật ngày càng to ra mà tỷ lệ của người lao động được hưởng cũng lớn hơn. Chẳng hạn, từ năm 1965 đến 1989, tỷ lệ của tiền lương trả cho lao động trong tổng thu nhập quốc dân đã tăng từ 56% đến 68%. Ở đây chỉ kể tiền lương chứ thực ra thu nhập của người lao động còn bao gồm thu nhập từ tài sản cá nhân như bất động sản, tiền gửi tiết kiệm, cổ phiếu...
Thứ tư, tỷ lệ thu nhập ròng của doanh nghiệp pháp nhân trong tổng thu nhập quốc dân quá nhỏ, nhất là sau khi trừ thuế (chỉ có 5% vào năm 1965). Nếu kể cả phần lớn của cổ tức và một phần của tiền lãi ngân hàng thì tỷ lệ này cũng không lớn. Ngoài ra, những phần này cũng có thể gọi là thù lao chính đáng cho những nhà doanh nghiệp có khả năng khám phá công nghệ, tìm kiếm thị trường, cải tiến kinh doanh, sản xuất. Thực tế cho thấy nếu không có tinh thần doanh nghiệp này, kinh tế không phát triển và cuộc sống của người lao động cũng không được cải thiện. Trong thời đại ngày nay, các yếu tố sản xuất truyền thống như tư bản, đất đai... không quan trọng mà các yếu tố mới như tri thức, trí tuệ, năng lực tổ chức, quản lý mới là động lực của sự tiến bộ. Ở nước ta, gần đây ai cũng nhấn mạnh sự quan trọng của kinh tế tri thức nhưng chẳng lẽ lại phủ nhận tri thức của nhà doanh nghiệp?
Ngoài những số liệu hùng hồn nói trên, kinh nghiệm Nhật Bản còn cho thấy nhiều câu chuyện lập nghiệp cảm động, nhiều câu chuyện thành công rất ngoạn mục của những công ty mà ngày nay người Nhật rất tự hào như Toyota, Honda, Sony, Canon... Giữa cảnh hoang tàn, đổ nát ngay sau thế chiến thứ hai, Masaru Ibuka, người đồng sáng lập Sony, đã nói một câu rất cảm động trong bài diễn văn kỷ niệm ngày thành lập công ty năm 1946: "Phải ra sức dùng công nghệ, kỹ thuật góp phần vào sự phục hưng của tổ quốc chúng ta!". Ngày nay, được vào làm việc ở những công ty Sony, Honda, Toyota... là giấc mơ của hàng chục vạn sinh viên tốt nghiệp đại học. Họ muốn vào đấy để bị bóc lột chăng?
Đảng Cộng sản VN bây giờ đã đánh giá đúng mức vai trò của kinh tế tư bản tư nhân và cho phép đảng viên tham gia thành phần này. Đây là hướng đi đúng dù hơi trễ
II: ĐÓ LÀ MỘT THAY ĐỔI LỚN VỀ TƯ DUY.
Theo giáo sư Nguyễn Đức Bình (nguyên ủy viên Bộ Chính trị, nguyên giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), người làm kinh tế tư bản tư nhân (tức là có thuê lao động, phân biệt với người làm kinh tế tư nhân cá thể, không thuê lao động) dứt khoát là người bóc lột, là người lấy bóc lột lợi nhuận làm lẽ sống. Họ là những người chăm chăm “làm giàu hết cỡ, làm tư bản tư nhân hết cỡ, có thể bóc lột hết cỡ”. Nhưng anh ta làm giàu hết cỡ thì có gì đáng trách, vì chúng ta đang muốn dân giàu, và Đảng Cộng sản hoan nghênh cơ mà? Vậy bóc lột là gì?
Để trả lời các câu hỏi này, cần nhiều trăm trang viết cũng chưa thấu đáo, và tôi e cũng không đạt đến kết quả thống nhất.
Theo thiển ý của tôi, quy lợi nhuận của nhà tư bản chỉ dựa vào lao động thặng dư của công nhân (người làm thuê) là một mô hình quá sơ sài không phản ánh sát với thực tiễn. Và quan trọng hơn nó chỉ sát với thực tiễn trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản vô độ (hay dã man), nhà nước đã can thiệp, phong trào công nhân đã nổi lên, công nghệ ngày càng phát triển...
Thời chủ nghĩa tư bản man rợ, vô độ, không bị kiềm chế đã qua cả hơn trăm năm rồi. Nhà nước đã đưa ra bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, các công đoàn đòi tăng lương, các chủ tư bản cũng hiểu hơn về vai trò của nguồn nhân lực và có chính sách phù hợp (như thưởng, chia sẻ lợi nhuận, quyền mua cổ phần, đào tạo, tái đào tạo...) để giữ và nâng cao nguồn nhân lực.
Thời xưa, Marx tin rằng nạn thất nghiệp về cơ bản là một dụng cụ của cơ chế tư bản chủ nghĩa với chức năng giữ đồng lương thấp, và để làm cho việc bóc lột công nhân làm thuê được dễ hơn; sự nghèo khổ tăng lên luôn là sự nghèo khổ tăng lên của các công nhân làm thuê. Và từ đó Marx tiên tri rằng các nhà tư bản giàu lên mãi mãi, giai cấp công nhân bị bần cùng mãi mãi đến mức không thể chịu nổi phải đứng lên làm cách mạng vô sản lật đổ chế độ tư bản.
Nhưng hiện nay mức sống của các công nhân làm thuê đã tăng lên ở khắp nơi; và lương thực tế của các công nhân làm thuê thậm chí có xu hướng tăng lên trong suy thoái (như trong đại suy thoái 1927-1928), do một sự giảm sút nhanh hơn về giá so với về lương. Những tiến triển gần đây ở các nước phát triển cho thấy số người làm thuê bước vào tầng lớp trung lưu ngày càng đông, họ được bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ở mức chưa từng có.
Hãy thử nhìn mức thu nhập tối thiểu, mức trợ cấp của họ. Nói cách khác, mức thu nhập sàn đã tăng lên nhanh và tăng lên đáng kể, không có trần thu nhập; điều này chứng minh rằng gánh nặng chủ yếu của bảo hiểm thất nghiệp không phải do các công nhân gánh chịu mà do các chủ doanh nghiệp, những người vì thế đã mất mát một cách trực tiếp qua thất nghiệp, thay cho kiếm được lời một cách gián tiếp, như trong sơ đồ của Marx.
Người làm kinh tế tư nhân tạo công ăn việc làm cho những người khác. Mỗi năm ở VN cần tạo ra khoảng 1,5 triệu việc làm mới. Tuyệt đại đa số việc làm mới do khu vực tư nhân tạo ra. Nếu không có khu vực tư nhân thì chẳng hiểu tai họa thất nghiệp sẽ đến mức nào?
Người làm kinh tế tư nhân là người lao động nặng nhọc. Tôi thấy họ là những người lao động cật lực (có thể không phải lao động chân tay). Họ lao tâm khổ tứ, họ chịu rủi ro, họ có thể mất hết cơ nghiệp nếu phá sản. Và phá sản là chuyện xảy ra bình thường ở mọi nơi.
Ai cũng công nhận vốn (tư bản) phải tạo ra lãi. Người dân gửi tiền tiết kiệm làm gì nếu không vì đồng lãi, không vì chuyện sinh lời. Như thế vốn phải sinh lời. Có vốn bằng tiền (ta thường chỉ hiểu thế), ngày nay người ta nói đến vốn xã hội, vốn tri thức..., chúng cũng góp phần tạo ra lời, chứ không chỉ có lao động. Lao động hết sức nặng nhọc của người chủ doanh nghiệp thì sao?
Hãy xem Bill Gates, Michael Dell hay thậm chí Soros có là người bóc lột hay không? Họ là những người làm nên sự nghiệp từ hai bàn tay trắng với cái đầu siêu việt của họ. Họ lao động cật lực và kiếm được rất nhiều tiền. Họ tạo ra công ăn việc làm cho hàng chục triệu người, trực tiếp và gián tiếp. Họ dùng phần lớn thu nhập của mình làm từ thiện, để giải quyết các vấn đề đau đầu của nhân loại như bệnh sốt rét, bệnh HIV, xóa đói giảm nghèo.
Thử hỏi Cụ Hồ sẽ gặp khó khăn ra sao nếu cụ Trịnh Văn Bô, với tư cách nhà doanh nghiệp tư nhân và các nhà công thương khác, không đóng góp hàng ngàn cây vàng cho Chính phủ lúc khó khăn năm 1945?
Tất cả họ có là bọn bóc lột đáng nguyền rủa không? Đành rằng cũng có một số ít kẻ làm kinh tế tư nhân tiêu xài hoang phí, chỉ dựa vào vốn liếng do cha ông làm ra mà không chăm chú phát triển kinh doanh. Chúng chẳng thể sống lâu, với các loại thuế tài sản, thuế thu nhập, thuế thừa kế mà tất cả các nước đã đưa ra, chúng chỉ nướng gia sản của cha ông mà thôi. Số đó là số ít.
Ở nước ta số những kẻ chẳng được hưởng gia tài của cha ông, cũng chẳng phải làm kinh tế tư bản tư nhân mà tiêu xài vô độ như con cháu một số quan chức và một số người có chức có quyền mới thật đáng kinh ngạc. Vấn đề điều tiết thu nhập lại là chuyện khác. Các nước người ta đánh thuế mọi loại thu nhập, người ta đánh thuế tài sản, đánh thuế thừa kế để làm sao đảm bảo cho mức thu nhập tối thiểu ngày càng tăng lên mà không phản khuyến khích người làm giàu. Những người thừa kế nếu không biết vun đắp cho công lao của cha ông không mấy chốc có thể nướng hết tài sản tích tụ được.
Tóm lại, việc Đảng Cộng sản VN để cho đảng viên được làm kinh tế tư nhân không hạn chế quy mô là một sự thay đổi lớn trong tư duy của Đảng; nó ghi nhận một thực tiễn đã và đang diễn ra từ hai mươi năm qua ở nước ta; việc đảng có kết nạp những người làm kinh tế tư nhân vào đảng hay không là chuyện của cả hai phía, chứ không chỉ ở một bên. Đảng muốn dân giàu mà lại cứ buộc đảng viên không được làm giàu thì có mâu thuẫn với mục tiêu không?
Có rất nhiều vấn đề cần bàn cãi công khai để chúng ta hiểu tình hình hơn, hiểu nhau hơn, để cho đất nước phát triển. Trăn trở của giáo sư Nguyễn Đức Bình, câu trả lời dứt khoát “trước sau tôi vẫn không đồng ý quan điểm trong Đảng có thể có tư bản tư nhân” của giáo sư phải được tôn trọng. Hy vọng những ý kiến khác cũng được tôn trọng.
III:ĐẢNG VIÊN LÀM KINH TẾ SẼ GIÚP XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO.
Trên thực tế thời gian qua, vấn đề Đảng viên làm kinh tế tư nhân là chủ đề được sự quan tâm rộng khắp của cả trong và ngoài Đảng. Vậy sự thay đổi nhận thức về vấn đề này đang diễn ra như thế nào? Nội dung và ý nghĩa của vấn đề này trong bối cảnh Đảng tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là gì?
Mục tiêu của Đảng, của nhân dân ta là xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới.
Con đường đi lên của nước ta là con đường Đổi mới, mở đầu từ Đại hội VI, được phát triển trong các Đại hội VII, VIII, IX, trong Đại hội X sắp tới và trong tương lai... Khoa học và thực tiễn phát triển, đường lối cũng sẽ được phát triển cho phù hợp.
Lý tưởng của chúng ta là giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện, thực hiện được Tự do - Bình đẳng - Bác ái trên thực tế, chứ không phải chỉ trên danh nghĩa. Nhưng thực ra con đường để thực hiện mục tiêu lý tưởng đó hoàn toàn không dễ dàng, thẳng tắp, tuỳ thuộc ý chí của ai, kể cả của các cá nhân xuất chúng, mà phải theo quy luật.
Mác đã phân tích rằng, xoá bỏ bóc lột, bất công bằng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Nhưng phải thấy rằng trong sự phát triển lịch sử, sơ khai là chế độ công hữu nguyên thuỷ. Mà chế độ này kìm hãm sản xuất nên sau đó thay bằng chế độ tư hữu, trải qua từ chiếm hữu nô lệ, đến phong kiến, đến tư bản. Chế độ tư hữu đã trở thành động lực của sự phát triển sản xuất, thúc đẩy nhân loại tiến bộ.
Trong điều kiện hiện nay, ở các nước tư bản, không nói nước còn kém phát triển như nước ta, chế độ tư hữu vẫn thúc đẩy chế độ tư bản phát triển, đặc biệt là gắn với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ.
Ở nước kém phát triển như nước ta, quan hệ sản xuất tư bản chưa phát triển, thì chế độ tư hữu vẫn còn thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Phải nhớ rằng những thử nghiệm làm công hữu ngay, tràn lan, nóng vội đã thất bại. Chúng ta không nên làm ngơ trước thực tế lịch sử ấy. Cho nên cần sử dụng chế độ tư hữu để thúc đây lực lượng sản xuất phát triển. Đây là cốt lõi, là cơ sở lý luận cho nền kinh tế nhiều thành phần … Đó là đường lối, quan điểm của Đảng; sự thay đổi đó bác bỏ những sai lầm, thiếu sót trước kia.
Ai cũng biết, cuộc Cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hoá, vật liệu mới…. Bây giờ sản phẩm hàng hoá không chỉ là những vật phẩm cụ thể, mà ngay trí tuệ cũng là sản phẩm hàng hoá. Trong điều kiện toàn cầu hoá nền kinh tế và thế giới đầy biến động hiện nay, chúng ta phải kiên định mục tiêu lý tưởng, nhưng con đường thực hiện mục tiêu lý tưởng phải rất rõ ràng, đúng quy luật phát triển của lịch sử.
Đảng ta đã căn cứ vào lý luận để đề ra chính sách kinh tế nhiều thành phần, trong đó thừa nhận kinh tế tư bản tư nhân là môt thành phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Vị trí của nó trong sự phát triển đất nước hiện nay chưa xứng với vai trò phải có của nó; chính vì vậy chúng ta cần ra sức phát triển nó để khai thác hết tiềm năng của kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản) trong tổng thể phát triển các thành phần kinh tế của đất nước.
Chính sách của Đảng đề ra thì những công dân của chính đảng ấy lãnh đạo phải được hưởng và phải được tuân thủ. Đảng viên là công dân phải có quyền được hưởng chính sách ấy.
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Pháp luật của nhà nước phải được tất cả mọi người, mọi tổ chức xã hội tuân thủ. Đảng cầm quyền; các cơ quan Nhà nước, cả ngành lập pháp, hành pháp, tư pháp phải tuân thủ pháp luật của Nhà nước. Vẫn biết hiến pháp, các đạo luật do con người quy định ra, song khi nó được quy định ra rồi thì mọi người, mọi tổ chức, kể cả Đảng phải tuân thủ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều gì chưa được quy định mà thực tiễn xã hội đòi hỏi thì các cơ quan của Nhà nước phải tiến hành nghiên cứu, bổ sung, phát triển, để đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện mục tiêu lý tưởng của toàn dân tộc là xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Bởi vậy việc đề ra Đảng viên làm kinh tế tư nhân không hạn chế quy mô, tuân thủ pháp luật của Nhà nước là đủ đúng quy luật, đảm bảo cho người đảng viên làm tròn nghĩa vụ công dân, không phải là siêu công dân, đứng trên mọi công dân hay đứng ngoài các quy định của luật pháp.
Đảng viên là một bộ phận quan trọng trong xã hội. Với trên hai triệu đảng viên và những người thuộc gia đình họ, tính trung bình có bốn người trong một gia đình, số lượng đó đã chiếm đến một phần mười dân số. Một phần mười dân số quan trọng đến như vậy mà không được làm kinh tế tư nhân là chuyện không bình thường. Không làm kinh tế tư nhân để phát triển đất nước theo quy luật thì làm sao là người tiêu biểu để lãnh đạo nhân dân tiến tới mục tiêu chung của toàn xã hội. Làm ngược lại thì chính đảng viên là vật cản sự phát triển tiến bộ của xã hội. Họ phải trở thành nòng cốt, đi tiên phong trong làm kinh tế tư nhân, họ phải được làm giàu chính đáng cùng với mọi công dân khác trong xã hội.
Làm kinh tế tư nhân có nhiều cách khác nhau. Làm ăn chân chính, làm giàu chính đáng theo pháp luật không phải là chuyện dễ dàng. Con đường tích luỹ vốn chân chính không phải đơn giản. Muốn có vốn, cơ sở sản xuất, xí nghiệp, trang trại, đồn điền không đơn giản. Chính vì vậy, ngay trong thời kỳ đầu, Nhà nước phải có trách nhiệm giúp đỡ họ trên phương tiện tài chính, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để cho những công dân có tài năng ( kể cả đảng viên) dấn thân vào sự nghiệp làm giàu chính đáng.
Tiêu chí để đánh giá hiệu quả hoạt động của họ chính là sự thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất; đóng góp xứng đáng vào ngân sách qua thuế..., thu hút được lao động, giải quyết được vấn đề công ăn việc làm cho bộ phận lao động thất nghiệp ( thực ra việc giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân lao động là một việc lớn nhất hiện nay; việc xuất khẩu lao động của nước ta cũng chính là giải quyết nạn thất nghiệp, hợp tác lao động để xoá nghèo trong một bộ phận dân cư).
Bởi vậy, việc khuyến khích đảng viên làm kinh tế tư nhân không hạn chế quy mô cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc xoá đói giảm nghèo trong bộ phận dân cư còn nghèo đói, thu nhập thấp. Chính sách xoá đói giảm nghèo của đảng và Nhà nước ta trong những năm qua đã thu được những kết quả hết sức to lớn. Lần này cả hai triệu đảng viên dấn thân vào sự nghiệp làm kinh tế, xoá đói giảm nghèo cho chính những ai còn nghèo đói; phát triển kinh tế của chính gia đình mình, nêu gương thoát khỏi cái nhục nghèo đói; và làm giàu cho cả người khác.
Tất nhiên trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân, trạng thái không đồng đều, không thật công bằng là trạng thái chung của sự phát triển. Làm giảm sự cách biệt xã hội phải thực hiện điều tiết xã hội để tránh xung đột xã hội. Đảng và Nhà nước phải làm việc này.
Quyền lực của chế độ ta và cũng là ưu việt của chế độ ta chính là nâng mức sống của những người có thu nhập thấp mà hiện nay là xoá đói giảm nghèo và thúc đẩy làm kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản) làm giàu cho hàng chục triệu người. Đây không chỉ đơn giản là chính sách xã hội mà chính là quan điểm đường lối của một đảng của những người lao động. Các đảng cầm quyền của giai cấp tư sản trong thời kỳ tích luỹ tư bản thế kỷ 17, 18,19 ... không thể có những chính sách như vậy…
Đảng ta là đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền nghĩa là những đảng viên được bố trí vào cơ quan quyền lực xã hội, tham gia vào chế định chính sách và cơ chế quản lý xã hội. Nếu đảng viên có chức có quyền đi vào con đường tham nhũng, đầu cơ, dùng quyền lực hữu hình và vô hình để bản thân và gia đình làm giàu phi pháp thì đó là tội ác. Một số người miệng nói chống tham nhũng nhưng thực ra họ đã đục khoét tài sản của nhân dân thông qua con đường làm giàu phi pháp cho vợ con họ, họ sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của nhân dân. Những trường hợp đó không được gọi là làm giàu chân chính bằng phát triển kinh tế tư bản tư nhân.
Ở Việt Nam hiện nay, chưa có ai làm kinh tế tư bản tư nhân chân chính là tai hoạ của xã hội; mà chỉ có bọn làm giàu bất chính, bọn tham nhũng mới đục khoét xã hội, làm băng hoại đạo đức xã hội. Chúng ta khuyến khích làm giàu chân chính mà được như Bill Gates thì tốt quá.
Bởi vậy phải có cơ chế, luật pháp quy định những người có chức có quyền trong bộ máy Nhà nước như Thủ tướng, Bộ trưởng, các quan chức Nhà nước ở cấp độ nào thì không được làm kinh tế tư bản tư nhân. Khi họ không còn làm chức vụ đó, là công dân bình thường thì họ được quyền làm kinh tế tư nhân. Đã có vinh dự và trách nhiệm được nhân dân giao phó thì phải được sự giới hạn của pháp luật quy định, tôn vinh và đãi ngộ hợp lý. Đó là lẽ bình thường mà các nước tiên tiến đều quy định.
Xã hội Việt Nam vốn tôn vinh các bậc hiền tài giúp nước và luôn kính trọng họ. Họ lưu danh muôn thuở. Nếu không chấp nhận điều đó, muốn vinh thân phì gia thì xã hội ruồng bỏ họ. Còn muốn làm giàu chân chính thì tự nguyện từ bỏ các cương vị hiện có, để những người có tài đức, biết hy sinh, dấn thân vào sự nghiệp của dân tộc, của Tổ quốc đảm nhiệm. Dân tộc Việt Nam không thiếu những người tài đức như vậy.
Dự thảo Báo cáo chính trị nhấn mạnh vấn đề Đảng viên làm kinh tế tư nhân không hạn chế quy mô, vì vấn đề này chưa được nhận thức đầy đủ, chưa được quy định rõ,và thực hiện theo đúng quy luật của nó. Tất nhiên nhận thức là một quá trình. Sở hữu tư nhân còn là một động lực lớn thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong thời gian rất lâu dài. Hãy để cho nó phát triển với sức sống nội tại của nó, làm cho nền kinh tế Việt Nam phát triển đa dạng.
Các thành phần kinh tế khác cùng với nó phải được cơ chế chính sách của Nhà nước điều tiết hợp lý, có cơ chế quản lý phù hợp và đặc biệt phải do những con người có tài đức đảm nhiệm, điều hành. Chỉ có như vậy thì trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân ) với nhiều hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế đa dạng, mới hoạt động theo đúng pháp luật, tạo nền tảng cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Con đường đi lên phía trước đang đòi hỏi chúng ta phải phát triển tư duy lý luận, bổ sung và phát triển lý luận, góp phần cho Đại hội X của Đảng thành công rực rỡ, xây dựng đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
KẾT LUẬN
Thực tễn phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy vai trò rất quang trọng của khu vực kinh tế tư nhân trong giải quyết việc làm, động viên nguồn vốn, khai thác tài nguyên làm ra nhiều của cải phục vụ nâng cao đời sống và đóng góp cho đất nước. Phát triển kinh tế tư nhân, vì thế, là một trong những điều kiện của phát triển bền vững.
Đảng và Nhà nước ta đã thấy được vai trò đó của khu vực kinh tế tư nhân thể hiện trong đường lối và những chính sách lớn, bước đầu đã tạo ra điều kiện, môi trường cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế này đã đạt được những thành tựu nhất định.
Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam tuy có bước phát triển trong những năm đổi mới nhưng vẫn chưa phát triển đúng mức và còn nhiều hạn chế: tốc đọ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng hiện có, qui mô sản xuất còn nhỏ bé, manh mún, do thiếu nhiều điều kiện nên chưa ứng dụng được những thành tựu của khoa học công nghệ, sản phẩm làm ra có chất lượng thấp, mẫu mã nghèo nàn, sức cạnh tranh kém. Bộ phận kinh tế tư nhân có vốn đầu tư nước ngoài tuy trình độ khá hơn bộ phận kinh tế tư nhân trong nước về các mặt trên đây nhưng hiện vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ.
Để phát huy được vai trò vị trí của kinh tế tư nhân trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá, cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hơn nữa môi trường thể chế cho sự phát triển- nhất là cụ thể hoá Luật doanh nghiệp sửa đổi (mới được ban hành), thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách: Phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ nghĩa. Trần Ngọc Bút
NXB Chính trị quốc gia, 2002.
Sách: Thanh phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân-lý luận và chính sách. TS Hà Huy Thành(chủ biên)
NXB Chính trị quốc gia.
Sách: Giáo trình Luật kinh tế
NXB Công an nhân dân Hà nội,2002
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin
NXB Chính trị quốc gia Hà nội, 2002
Bài: Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế Việt Nam. Nguyễn Hữu Oánh
Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 283-tháng 12-2001.
Bài: Tài chính với sự phát triển kinh tế tư nhân. Nguyễn Đăng Nam
Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số9-tháng 9-2002.
Bài: Mấy vấn đề lý luận từ thực tế phát triển kinh tế tư nhân phi nông nghiệp. Đào Xuân Sâm
Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 9-tháng9-2002.
Bài: Tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước: thực tế từ các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Trương Đông Lộc
Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 295-tháng12-2002.
Bài: Một số vấn đề về quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân Hà Nội. Nghiêm Xuân Đạt
Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 305-tháng10-2003.
10.Bài: Vấn đề bóc lột của kinh tế tư bản tư nhân và đảng viên làm kinh tế ở nước ta hiện nay. Trần Bạch Đằng.
11Vấn đề sở hữu và kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta hiện nay. Hồ Trọng Viện
Tạp chí phát triển kinh tế, số 141-tháng7-2002.
12. Bài: Chính sách vĩ mô đối với khu vực tư nhân. Lê Khoa
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, SỐ 141-THÁNG7-2002.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G1174.DOC