Hiện tại, vẫn chưa có biện pháp điều trị
đặc hiệu để làm giảm nồng độ CRP huyết
thanh nhằm cải thiện nguy cơ mạch máu não
hay cải thiện kết cục sau nhồi máu não trong
các thử nghiệm lâm sàng có đối chứng. Các
dữ kiện quan sát cho thấy statin và ức chế
men chuyển có thể làm giảm ảnh hưởng nguy
cơ mạch máu của nồng độ CRP. Statin có thể
ức chế sớm sự tụ tập các tế bào viêm vào
mạch máu, ức chế sự biểu hiện của chất điều
hoà tiền viêm NF-κB và chemokines
interferon inducible protein 10 và MCP-1
bằng cách cô lập tế bào cơ trơn mạch máu và
bạch cầu đơn nhân. Lovastatin ức chế sự kết
dính bạch cầu thông qua tương tác giữa
kháng nguyên-1 liên quan với chức năng bạch
cầu và ICAM-1. Ngoài ra, statin cũng ức chế
sự sản xuất và biểu hiện gene của
cyclooxygenase-2, interleukine-1β,
interleukine-6 của tế bào nội mô người. Tác
động đích của statin cũng bao gồm cả tương
tác tiểu cầu-huyết khối, đông máu, chức năng
nội mô phụ thuộc nitric oxide. Gần đây,
cerivastatin cũng cho thấy là ức chế sự sản
xuất MCP-1 và interleukine-8 của mono bào bị
nhiễm C.pneumoniae(8,12,14). Ức chế men
chuyển cũng được cho là có thể làm làm giảm
nồng độ CRP. Theo nghiên cứu của Di
Napoli, nồng độ CRP thấp hơn 2,5 lần ở
nhóm được điều trị bằng ức chế men chuyển
so với nhóm điều trị bằng các loại thuốc hạ áp
khác (0,8 so với 2,1 mg/dL; p<0,0001)(3).
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 193 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò tiên lượng của C-Reactive Protein trong nhồi máu não, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 143
VAI TRÒ TIÊN LƯỢNG CỦA C-REACTIVE PROTEIN
TRONG NHỒI MÁU NÃO
Lê Tự Phương Thảo*, Tăng Ngọc Phương Lộc*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Vai trò của C-reactive protein (CRP) trong sinh lý bệnh nhồi máu não ngày càng được chứng
minh rõ ràng hơn. Chúng tôi khảo sát mối quan hệ giữa nồng độ CRP huyết tương với độ nặng của nhồi máu
não và sự hồi phục chức năng của bệnh nhân nhồi máu não.
Phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện trên 49 bệnh nhân nhồi máu não tuần hoàn trước nhập viện
trong vòng 24 giờ sau khởi phát triệu chứng. Nồng độ hs-CRP, độ nặng đột quỵ não theo thang điểm đột quỵ
Hoa Kỳ (NIHSS) được khảo sát lúc nhập viện. Sự hồi phục chức năng hay tử vong sau 3 tháng được đáng giá
bằng thang điểm Rankin có hiệu chỉnh (mRS).
Kết quả: Không có mối tương quan có ý nghĩa giữa nồng độ hs-CRP lúc nhập viện với độ nặng của nhồi
máu não (r = 0,277, p = 0,054). Tuy nhiên, nồng độ hs-CRP lại tương quan thuận với sự hồi phục chức năng ở
mức độ trung bình - thấp (r = 0,375; p = 0,008).
Kết quả: hs-CRP có thể được áp dụng nhằm hỗ trợ tiên lượng cho các bệnh nhân nhồi máu não. Tuy nhiên,
vẫn chưa có sự thống nhất giữa các tác giả về thời điểm khảo sát tối ưu cũng như là điểm cắt thích hợp. Do đó,
cần nhiều nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này.
Từ khóa: nhồi máu não, hs-CRP
ABSTRACT
THE PRECEDENT’S ROLE OF C-CEACTIVE PROTEIN IN CEREBRAL INFARCTION
Le Tu Phuong Thao, Tang Ngoc Phuong Loc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 142 - 148
Background and Purpose: There is growing evidence that C-reactive protein (CRP) play an important role
in the pathophysiology of acute ischaemic stroke. The aim of this study was to assess the relationship between CRP
values with stroke severity and functional outcome after acute ischaemic stroke.
Methods: Fourty-nine patients with ischaemic stroke hospitalized within 24 hours after the onset of
symptoms were recruited. CRP and NIH stroke scale (NIHSS) were measured at the time of admission.
Functional outcome was measured by modified Rankin scale (mRS) 3 months after ischaemic stroke.
Results: There is no significant correlation between CRP values and ischaemic stroke severity (r = 0.277, p =
0.054). However, hs-CRP concentration correlated favorablement but weakly with functional outcome (r = 0.375;
p = 0.008).
Conclusions: hs-CRP can be applied to support the prognosis of patients suffering from ischemic stroke.
However, there is still no agreement among authors about the optimal time for investigation and the appropriate
cut-point of CRP concentration. Therefore, it is necessary to have many further researches about this problem.
Key words: hs-CRP, ischaemic stroke
Các từ viết tắt: CITED: Cbp/p300-interacting Transactivator with Glu/Asp-rich COOH-terminal Domain,
* Bộ môn Nội Thần Kinh - Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: TS. BS. Lê Tự Phương Thảo Email: vohoangnhan@pnt.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 144
COPEB: Core Promoter Transactivator Element Binding Protein, DNCL: Cytoplasmic Dynein, ICAM-1:
Intercellular Adhesion Molecule-1, hs-CRP: high sensitive C-reactive protein, HIF: Hypoxia-inducible Factor,
MCP : Monocyte Chemoattractant Protein, MLC: Myosin Light Chain, NF-κB: Nuclear Transcription Factor-
κB, nNOS: neuronal Nitric Oxide Synthase, PAI: Plasminogen Activator Inhibitor, ROS: Reactive Oxygen
Species, SORL: Sortilin Related Receptor, TNF: Tumor Necrosis Factor
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đột quỵ não là một bệnh lý thường gặp và
gây hậu quả nghiêm trọng. Theo dữ liệu thống
kê năm 2009(22), tại Mỹ hiện có 6.500.000 người bị
đột quỵ não, trung bình cứ 40 giây là có một
người bị đột quỵ não và cứ 3-4 phút là có một
người tử vong vì đột quỵ não. Đột quỵ não là
nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế và là
nguyên nhân gây tử vong xếp hàng thứ ba, chỉ
sau bệnh tim mạch và ung thư. Đồng thời, đây
cũng là một trong những bệnh có chi phí mắc
nhất. Chi phí ước lượng vào năm 2009 là 68,9 tỉ
đôla, trung bình 140.048 đôla/người. Nghiên
cứu của Brown DL và cs (2006) đã dự đoán rằng
chi phí trực tiếp và gián tiếp của đột quỵ não tại
Mỹ từ 2005 đến 2050 có thể đạt đến 2,2 nghìn tỉ
đôla.
Trong các dạng đột quỵ não thì nhồi máu
não thường gặp nhất (chiếm 87% các trường
hợp). Mức độ gây hại và tính phổ biến của đột
quỵ não đã dẫn đến nhiều nghiên cứu trên thế
giới về các yếu tố ảnh hưởng lên tiên lượng của
bệnh như tuổi, giới tính, dân tộc, bệnh tim
mạch, đái tháo đường. Trong những năm gần
đây, vai trò của viêm trong bệnh mạch máu não
được nghiên cứu nhiều và C-Reactive Protein
(CRP), một chất đánh dấu viêm hệ thống, nổi
lên như là một yếu tố tiên lượng mới cho đột
quỵ não. Hầu hết các tác giả đều cho rằng tăng
CRP huyết tương dự báo một kết cục xấu và có
liên quan với tăng các biến cố tim mạch, biến cố
mạch máu não. Tuy nhiên, nồng độ CRP ở thời
điểm nào là có giá trị tiên lượng nhất vẫn là câu
hỏi chưa có lời giải rõ ràng. Tại Việt Nam, vai
trò của CRP trong tiên lượng nhồi máu não vẫn
còn là đề tài rất mới.
Vì những lý do nêu trên chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này nhằm khảo sát mối tương quan
giữa nồng độ CRP huyết tương trong vòng 24
giờ sau khởi phát triệu chứng với độ nặng của
đột quỵ não và sự hồi phục chức năng của các
bệnh nhân nhồi máu não tuần hoàn trước.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu phân tích cắt ngang, tiền cứu
trên các bệnh nhân nhồi máu não lần đầu,
thuộc phân bố hệ tuần hoàn trước, nhập viện
trong vòng 24 giờ sau khởi phát triệu chứng
nhập viện vào khoa Thần Kinh Bệnh viện
Nhân Dân Gia Định từ tháng 10-1009 đến 2-
2010. Chúng tôi loại trừ những trường hợp có
điểm Glassgow≤8, chấn thương vùng cổ,
huyết khối tĩnh mạch não, dị dạng mạch máu
não, những bệnh nhân có tình trạng viêm,
nhiễm trùng đã được biết trong tháng trước
(viêm khớp, viêm đại tràng), hay có tình
trạng viêm nhiễm lúc nhập viện (dựa vào lâm
sàng, công thức máu, tổng phân tích nước
tiểu, X quang phổi), đang điều trị với thuốc
kháng viêm steroid và non- steroid, có bệnh
ác tính, bệnh lý thần kinh hoặc bệnh lý khác
trước đó làm đánh giá sai lệch mức độ tổn
thương thần kinh hoặc mức độ độc lập trong
sinh hoạt hàng ngày, được điều trị bằng thuốc
tiêu huyết khối.
Cỡ mẫu cần thiết ước lượng từ nghiên cứu
của Smith(3) là 18 mẫu.
Độ nặng đột quỵ não được đánh giá bằng
thang điểm NIH (NIHSS), kết cục chức năng của
các bệnh nhân sau 3 tháng đột quỵ não được thể
hiện qua điểm Rankin có điều chỉnh (mRS), mẫu
máu tĩnh mạch được lấy trong vòng 24 giờ sau
khởi phát triệu chứng đột quỵ não, chống đông
bằng EDTA. Nồng độ CRP được xác định theo
phương pháp Immuno-turbidimetric bằng máy
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 145
sinh hóa tự động Olympus AU640 với ngưỡng
phát hiện từ 0,08 đến 80 mg/L.
Phân tích thống kê
Dữ liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm
thống kê SPSS 17.0. Các biến được mô tả tùy
theo đặc tính của từng biến, sau đó khảo sát mối
liên quan giữa nồng độ hs-CRP và các đặc điểm
của đối tượng nghiên cứu bằng phép kiểm χ2,
phép kiểm chính xác Fisher. Sau cùng là xác
định mối tương quan giữa nồng độ hs-CRP và
độ nặng của đột quỵ não cũng như là sự hồi
phục chức năng bằng hệ số tương quan Pearson.
KẾT QUẢ
Từ tháng 10-2009 đến tháng 2-2010 có 49
bệnh nhân thỏa các tiêu chuẩn chọn mẫu được
đưa vào nghiên cứu.
Đặc điểm các đối tượng nghiên cứu được
mô tả trong Bảng 1. Qua phân tích, chúng tôi
nhận thấy nồng độ hs-CRP chỉ liên quan với các
yếu tố là tuổi (p = 0,019), giới (p = 0,021), tiền căn
hút thuốc lá (p = 0,005) (Bảng 2).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã
không tìm thấy mối tương quan có ý nghĩa
giữa nồng độ hs-CRP và độ nặng của đột quỵ
lúc nhập viện (r = 0,277; p = 0,054). Tuy nhiên,
nồng độ hs-CRP lại tương quan thuận với sự
hồi phục chức năng được đánh giá sau 3
tháng đột quỵ não bằng mRS ở mức độ trung
bình - thấp (r = 0,375; p = 0,008).
Bảng 1: Đặc điểm các đối tượng nghiên cứu
Tuổi trung bình (năm) 65,2 ± 13,3
Nam (%) 53,1
Cơn thiếu máu não thoáng qua 2,0
Tăng huyết áp 71,4
Đái tháo đường 18,4
Rối loạn lipid máu 20,4
Bệnh tim 20,4
Uống rượu nhiều 16,3
Tiền căn
(%)
Hút thuốc lá 38,8
Tiền căn gia đình đột quỵ não 20,4
HATT (mmHg) 146,5 ± 27,2
HATTr (mmHg) 83,3 ± 13,0
Điểm Glasgow 14,5 ± 1,2
Điểm NIH 8,1 ± 4,6
hs-CRP (mg/L) 5,1 ± 4,3
Tuổi trung bình (năm) 65,2 ± 13,3
Điểm ASPECT 8,5 ± 2,2
mRS 2,0 ± 1,4
Bảng 2: Liên quan giữa hs-CRP và một số đặc điểm
nghiên cứu
Đặc điểm CRP < 7 mg/L
CRP ≥
7 mg/L p
Tuổi < 60 10 8 0,019
Nam 16 10 0,021
Tiền căn
Hút thuốc lá 10 9 0,005
Uống rượu 4 4 0,088
Tăng huyết áp 26 9 1,000
Đái tháo đường 8 1 0,420
RL lipid máu 9 1 0,414
Tăng huyết áp lúc nhập
viện
21 9 0,323
Điểm Glasgow ≤ 13 4 1 1,000
Điểm NIH ≤ 6 17 2 0,095
Đường huyết lúc nhập
viện≥7 mmol/L
8 1 0,420
RL lipid máu 22 6 0,739
Bệnh tim 16 4 0,738
Hẹp động mạch cảnh≥
50%
4 2 0,637
Điểm ASPECT≤7 8 1 0,42
mRS≤2 27 7 0,473
BÀN LUẬN
Mục đích của nghiên cứu này là xác định
mối quan hệ giữa nồng độ CRP huyết tương và
tiên lượng nhồi máu não. Do đó, các bệnh nhân
đã được lựa chọn với các tiêu chuẩn chọn mẫu
khắt khe nhằm hạn chế các yếu tố gây nhiễu có
thể làm tăng nồng độ CRP cũng như là ảnh
hưởng đến việc đánh giá các kết cục.
Nồng độ hs-CRP trung bình mẫu khảo sát là
5,07 ± 4,25 mg/L (0,43-23,38, median: 4,57 mg/L).
Nồng độ hs-CRP trung bình trong nghiên cứu
của các tác giả nước ngoài đều cao hơn chúng
tôi(1,7,22). Các nghiên cứu trên các cặp song sinh
cho thấy tính di truyền của nồng độ CRP xuất
hiện trong 26% cặp song sinh trung niên và 20%
cặp song sinh lớn tuổi. Sự lặp lại của GT một
cách đa dạng trong intron của gene CRP đã
được ghi nhận là có liên quan với sự khác biệt
về mức CRP nền giữa những người bình thường
và các bệnh nhân bị lupus đỏ hệ thống(3,14). Do
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 146
đó, sự khác nhau về đặc tính di truyền có lý giải
cho sự chênh lệch nồng độ CRP so với các
nghiên cứu của nước ngoài. Đồng thời, có sự
thay đổi về nồng độ trung bình của hs-CRP theo
thời gian và giá trị của CRP cũng khác nhau có ý
nghĩa ở những phân nhóm nhồi máu não theo
phân loại TOAST khác nhau(2). Ngoài ra, nồng
độ CRP còn bị ảnh hưởng một cách lâu dài bởi
các yếu tố sinh lý và nhiều loại bệnh như là tuổi,
suy tim, loạn nhịp tim, suy thận, đái tháo
đường, ngưng thở khi ngủ, tăng huyết áp, béo
phì, hội chứng đề kháng insuline,(8). Do vậy,
đặc điểm các đối tượng nghiên cứu, thời gian từ
lúc khởi phát triệu chứng đến lúc lấy mẫu máu
xét nghiệm khác nhau có thể dẫn đến sự khác
biệt trong nồng độ hs-CRP trung bình giữa
nghiên cứu.
Chúng tôi nhận thấy rằng nồng độ hs-CRP
chỉ liên quan với các yếu tố là tuổi (p = 0,019),
giới (p = 0,021), tiền căn hút thuốc lá (p = 0,005).
Các nghiên cứu về vai trò của CRP trong nhồi
máu não(3,7,9,16,19,22) đã chứng minh nồng độ CRP
huyết tương còn liên quan với rất nhiều yếu tố
khác như đường huyết lúc nhập viện, tăng
huyết áp, tăng cholesterol máu, fibrinogen máu
cao, bệnh van tim, kích thước ổ nhồi máu, độ
nặng của nhồi máu não, kết quả phục hồi chức
năng. Các yếu tố nguy cơ đột quỵ não có thể
ảnh hưởng đến sự tương tác giữa các tế bào
viêm và các tế bào mạch máu não xung quanh
dẫn đến tăng tính nhạy cảm với kích thích viêm,
hình thành mảng xơ vữa ở các động mạch lớn,
dày lớp nội mạc với huyết khối ở các tiểu động
mạch nhỏ hơn(12). Tuy nhiên, điểm cắt được
chọn để phân chia nồng độ CRP cao hay thấp
trong các nghiên cứu này là không trùng nhau
có thể khiến cho mối liên quan giữa nồng độ
CRP và các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
vẫn còn chưa được thống nhất trong các nghiên
cứu. Ngoài ra, cỡ mẫu cũng đóng vai trò quan
trọng.
Chúng tôi đã không tìm thấy mối tương
quan có ý nghĩa giữa nồng độ hs-CRP và độ
nặng của đột quỵ lúc nhập viện (r=0,277;
p=0,054). Kết quả này giống như nghiên cứu của
Anuk(1). Thế nhưng, theo Di Napol(8) có mối
tương giữa nồng độ CRP và độ nặng nhồi máu
não lúc nhập viện đánh giá bằng thang điểm đột
quỵ Canada (CNSS) (r=- 0,35; p<0,0001). Titto(11)
cũng khẳng định nồng độ CRP cao hơn có liên
quan với điểm NIH cao hơn sau khi điều chỉnh
với các yếu tố gây nhiễu (p=0,02). Có lẽ cỡ mẫu
trong nghiên cứu của chúng tôi và Anuk đều
không đủ lớn để có thể xác định được mối
tương quan này.
Qua phân tích, chúng tôi nhận thấy nồng độ
hs-CRP tương quan thuận với sự hồi phục chức
năng nhưng mức độ tương quan chỉ là trung
bình - thấp (r=0,375; p= 0,008). Smith(19) cho rằng
nồng độ hs-CRP tương quan mạnh với sự hồi
phục chức năng được đánh giá sau 3 tháng đột
quỵ não bằng mRS (r=0,63; p<0,001) và chỉ số
Barthel (r=- 0,58; p<0,001). Tuy nhiên, mẫu
nghiên cứu của Smith bao gồm cả những bệnh
nhân có tình trạng viêm hiện tại hay trước đó.
Chính đáp ứng viêm hệ thống với tình trạng
nhiễm trùng có thể dẫn đến kết cục xấu hơn cho
bệnh nhân. Hơn nữa, Smith khảo sát nồng độ
hs-CRP nhiều lần trong vòng 5-7 ngày nằm viện,
sau đó chọn ra giá trị cao nhất để tiến hành
phân tích. Trong khi đó, do hạn chế về kinh phí,
nồng độ hs-CRP trong nghiên cứu của chúng tôi
chỉ được khảo sát tại một thời điểm trong vòng
24 giờ sau khởi phát triệu chứng. Theo Di
Napoli(6) thì nồng độ CRP huyết tương tăng
trong vòng 3 giờ sau đột quỵ não so với giá trị
trước đột quỵ não và đạt giá trị đỉnh trong 36
đến 48 giờ sau khởi phát đột quỵ não. Sự khác
biệt này có thể làm cho hệ số tương quan trong
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn của Smith.
Trong nghiên cứu của Hertog(9), mối liên quan
này càng được thể hiện rõ ràng hơn. Sau khi
điều chỉnh với các yếu tố gây nhiễu, những
bệnh nhân có nồng độ CRP trong vòng 12 giờ
sau khởi phát triệu chứng cao hơn có nguy cơ bị
kết cục xấu (mRS>2) cao hơn (OR=1,6; KTC 95%:
1,1-2,4) hay tử vong cao hơn (OR=1,7; KTC 95%:
1,0-2,9) sau 3 tháng nhồi máu não.
Như vậy, dù có sự khác biệt trong tiêu
chuẩn chọn mẫu, thời gian xét nghiệm CRP, tiêu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 147
chí cũng như thời điểm đánh giá kết cục khác
nhau trong các nghiên cứu nhưng tăng nồng độ
CRP vẫn được chứng minh là một yếu tố tiên
lượng xấu trong nhồi máu não. Nghiên cứu
thực nghiệm trên tế bào nội mô tĩnh mạch rốn
và tế bào nội mô động mạch chủ của người cho
thấy CRP có ảnh hưởng đến việc biểu hiện gene
(gene expressions) của tế bào mội mô mạch máu
(Bảng 3) và các tác động này phụ thuộc theo liều
và thời gian(19).
CRP thúc đẩy sự tổng hợp PAI-1, một chất
ức chế hủy fibrin, có thể làm xấu đi tình trạng
thiếu máu não do thúc đẩy quá trình đông máu
tại các mao mạch vùng. Mặt khác, CRP có thể
làm tăng đáng kể việc biểu hiện gene của
CITED2, một chất ức chế chuyển mã của HIF-
1α, được biết như là chìa khóa điều hòa mô
trong sự nhận cảm và đáp ứng với stress hạ oxy
trong sự phát triển u, bệnh tim, đột quỵ. Hơn
nữa CRP là giảm tổng hợp DNCL1, một protein
ức chế của nNOS. Chất chuyển hóa từ nNOS là
NO là chất độc thần kinh trong giai đoạn ban
đầu của thiếu máu và sự ức chế của nNOS có
thể giảm tổn thương thiếu máu của neuron sau
đột quỵ(14).
Bảng 3: Các gene của tế bào nội mô mạch máu được
điều hoà bởi CRP
Gen Chức năng các gen
Các gen được điều hòa lên
IL-8 Hóa ứng động, làm vững chắc sự
gắn kết các Mono bào vào nội mô
mạch máu trong suốt tiến trình xơ
vữa
COPEB Hóa chất trung gian đáp ứng sớm
với tổn thương mạch máu
Activin A Cytokin, phát triển và biệt hóa tế
bào, sinh xơ vữa và tái tạo mạch
máu, làm bền vững mảng xơ vữa
MCP1 Chất hóa ứng động, làm vững chắc
sự gắn kết các Mono bào vào nội
mô mạch máu trong suốt tiến trình
xơ vữa
EXT1 Phát triển và biệt hóa tế bào
CITED2 Ngăn chặn sự chuyển mã của HIF-
1α, chất điều hòa then chốt của đáp
ứng tế bào đối với thiếu oxy, chuyển
hóa năng lượng, sinh mạch máu
của bướu, quá trình chết tự nhiên
Gen Chức năng các gen
Các gen được điều hòa lên
của tế bào, bệnh tim và đột quỵ
PAI-1 Ức chế protease serine, chất điều
hòa then chốt của tiêu sợi trong
huyết khối xơ vữa bằng cách ức chế
tPA
Fibronectin 1 Di chuyển và gắn kết tế bào, cần
thiết cho sự phát triển mạch máu và
tim
Gravin Khu trú vị trí tác động của protein
kinase A, sinh mạch máu não, hình
thành liên kết vòng bịt
Connexin43 Thông tin giữa các tế bào, co thắt cơ
và phát triển tim, hình thành mảng
xơ vữa
SORL-1 Thụ thể LDL (Low Density
Lipoprotein) trong chuyển hóa
cholesterol, vận chuyển lipid, sinh xơ
vữa và tái tạo động mạch, sự xâm
nhập của ung thư
Các gene được điều hòa xuống
DNCL1 Protein ức chế của nNOS
MAT2A Phát triển nhanh hay giảm biệt hóa
tế bào
Ngoài ra, CRP còn gây ra sự phá hủy hàng
rào máu – não dẫn đến phù não do mạch máu,
là biến chứng có thể gây tử vong thường gặp
nhất của nhồi máu não. Tác động này phụ thuộc
liều, thời gian và có ý nghĩa khi nồng độ CRP
đạt 5-10 µg/mL. Tác động này liên quan đến sự
co rút nội mô thông qua sự phosphoryl hóa
chuỗi nhẹ myosin (MLC). Sự phosphoryl hóa
của MLC được điều hòa bởi MLC-kinase
(MLCK) và MLC-phosphatase mà CRP lại làm
tăng MCLK đồng thời làm tăng sự hình thành
ROS, một chất cần thiết cho sự phosphoryl hóa
MLC. Bên cạnh đó, sự phóng thích quá mức NO
cũng gây ra phá hủy hàng rào máu - não(18).
Như vậy, tăng CRP huyết tương có thể làm
tăng tổn thương não bằng cách làm giảm sự
dung nạp của tế bào thần kinh với tình trạng
thiếu oxy, phá vỡ vi tuần hoàn và gây ra tình
trạng rối loạn trong quá trình đông máu - ly giải
huyết khối.
Hiện tại, vẫn chưa có biện pháp điều trị
đặc hiệu để làm giảm nồng độ CRP huyết
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 148
thanh nhằm cải thiện nguy cơ mạch máu não
hay cải thiện kết cục sau nhồi máu não trong
các thử nghiệm lâm sàng có đối chứng. Các
dữ kiện quan sát cho thấy statin và ức chế
men chuyển có thể làm giảm ảnh hưởng nguy
cơ mạch máu của nồng độ CRP. Statin có thể
ức chế sớm sự tụ tập các tế bào viêm vào
mạch máu, ức chế sự biểu hiện của chất điều
hoà tiền viêm NF-κB và chemokines
interferon inducible protein 10 và MCP-1
bằng cách cô lập tế bào cơ trơn mạch máu và
bạch cầu đơn nhân. Lovastatin ức chế sự kết
dính bạch cầu thông qua tương tác giữa
kháng nguyên-1 liên quan với chức năng bạch
cầu và ICAM-1. Ngoài ra, statin cũng ức chế
sự sản xuất và biểu hiện gene của
cyclooxygenase-2, interleukine-1β,
interleukine-6 của tế bào nội mô người. Tác
động đích của statin cũng bao gồm cả tương
tác tiểu cầu-huyết khối, đông máu, chức năng
nội mô phụ thuộc nitric oxide. Gần đây,
cerivastatin cũng cho thấy là ức chế sự sản
xuất MCP-1 và interleukine-8 của mono bào bị
nhiễm C.pneumoniae(8,12,14). Ức chế men
chuyển cũng được cho là có thể làm làm giảm
nồng độ CRP. Theo nghiên cứu của Di
Napoli, nồng độ CRP thấp hơn 2,5 lần ở
nhóm được điều trị bằng ức chế men chuyển
so với nhóm điều trị bằng các loại thuốc hạ áp
khác (0,8 so với 2,1 mg/dL; p<0,0001)(3).
Khi vai trò của CRP trong sinh lý bệnh xơ
vữa động mạch và cơ chế ảnh hưởng của CRP
trong tiên lượng nhồi máu não đã được xác định
thì tương lai có thể có những hướng can thiệp
mới trong nhồi máu não. Ví dụ như can thiệp
vào quá trình tổng hợp CRP bằng cách ức chế
quá trình sinh tổng hợp tại gan, ức chế tác động
của CRP hay các cytokines trên dòng. Tuy
nhiên, chế độ ăn, thể dục và ngừng hút thuốc
vẫn là phương pháp chuẩn để giảm nguy cơ tim
mạch và nồng độ CRP(12).
KẾT LUẬN
Cùng với kết quả của những nghiên cứu
khác, chúng tôi nhận thấy tăng nồng độ CRP là
một yếu tố tiên lượng xấu trong nhồi máu não.
Vì vậy, hs-CRP nên là một xét nghiệm được các
bác sĩ chuyên về đột quỵ não chú ý và tầm soát
thường quy đối với bệnh nhân nhồi máu não
nhằm hỗ trợ tiên lượng cho bệnh nhân.
Dù vậy, thời điểm tối ưu để khảo sát CRP kể
từ sau khởi phát triệu chứng nhồi máu não cũng
như điểm cắt thích hợp vẫn còn chưa thống
nhất. Do đó, cần tiến hành nhiều nghiên cứu
hơn để làm rõ vấn đề này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anuk T, Assayag EB, Rotstein R, Fusman R, Zeltser D, Berliner
S. (2002): "Prognostic implications of admission inflammatory
profile in acute ischemic neurological events". Acta Neurol Scan.
106:3.
2. Claes Ladenvall MSc. (2006): "Serum C-Reactive Protein
Concentration and Genotype in Relation to Ischemic Stroke
Subtype". Stroke: 5.
3. de Maat MPM., Trion A. (2004): "C-reactive protein as a risk
factor versus risk marker". Current Opinion in Lipidology 651-657.
4. den Hertog HM (2009): "C-reactive protein in the very early
phase of acute ischemic stroke: association with poor outcome
and death". J Neurol
5. Di Napoli M, Papa F (2003): "Angiotensin-Converting Enzyme
Inhibitor Use Is Associated With Reduced Plasma Concentration
of C-Reactive Protein in Patients With First-Ever Ischemic
Stroke". Stroke 34:7.
6. Di Napoli M, Papa F (2002): "Inflammation, Hemostatic
Markers, and Antithrombotic Agents in Relation to Long-Term
Risk of New Cardiovascular Events in First-Ever Ischemic Stroke
Patients". Stroke 33:18.
7. Di Napoli M, Papa F, Bocola V (2001): "Prognostic Influence of
Increased C-Reactive Protein and Fibrinogen Levels in Ischemic
Stroke". Stroke 32:5.
8. Di Napoli M, Schwaninger M, et al. (2005): "Evaluation of C-
Reactive Protein Measurement for Assessing the Risk and
Prognosis in Ischemic Stroke: A Statement for Health Care
Professionals From the CRP Pooling Project Members". Stroke
36:1316-1329.
9. Elkind M.S, Tai W, Coates K, Paik MC, Sacco RL. (2006) "High-
sensitivity C-reactive protein, lipoprotein-associated
phospholipase A2, and outcome after iscemic stroke". Archives of
Internal Medicine 166:2073-2080.
10. Hà Thị Kim Chi. (2008): "Khảo sát nồng độ high sensitive C-
reactive protein trong nhồi máu não cấp". Đại học Y Dược
Thành Phố Hồ Chí Minh
11. Kuhlmann CRW (2009): "Mechanisms of C - Reactive Protein -
Induced Blood - Brain Barrier Disruption". Stroke 40:1458-1466.
12. Lindsberg PJ., Grau AJ. (2003): "Inflammation and Infections as
Risk Factors for Ischemic Stroke". Stroke 2518-2532.
13. Lloyd-Jones Donald, et al. (2009): "Heart Disease and Stroke
Statistics--2009 Update: A Report From the American Heart
Association Statistics Committee and Stroke Statistics
Subcommittee". Circulation 119:e21-181.
14. McMurray JJV (2009): "Effects of Statin Therapy According to
Plasma High-Sensitivity C-Reactive Protein Concentration in the
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 149
Controlled Rosuvastatin Multinational Trial in Heart Failure
(CORONA)". A Retrospective Analysis. Circulation 2188-2196.
15. Moro MA. (2004): "Role of nitric oxide after brain ischaemia".
Cell Calcium 36:265-275.
16. Muir KW, Weir CJ, et al (1995): "C-Reactive Protein and
Outcome After Ischemic Stroke". Stroke 30:981-985.
17. Pepys MB., Hirschfeild G (2003): "C-reactive proteine: a critical
update". J.Clin.Invest 805-1812.
18. Ridker PM, Danielson E, Fonseca FA, Genest J, Gotto AM,
Kastelein JJ. (2008): "Rosuvastatin to prevent vascular events in
men and women with elevated C-reactive protein". N Engl J Med
359:2195-2207.
19. Smith CJ. (2004): "Peak plasma interleukin-6 and other
peripheral markers of inflammation in the first week of
ischaemic stroke correlate with brain infarct volume, stroke
severity and long-term outcome". BMC Neurology 4:8.
20. Titto I et al. (2009): "Admission C - reactive protein after acute
ischemic stroke is associated with stroke severity and mortality:
The 'Bergen stroke study'". BMC Neurology 9:9.
21. Wang Q. (2005): "Effect of C - reactive protein on gene
expression in vascular endothelial cells". Am J Physiol Heart Circ
Physiol 288:H1539-H1545.
22. Winbeck K. (2002): "Prognostic Relevance of Early Serial C-
Reactive Protein Measurements After First Ischemic Stroke".
Stroke 2459-2464.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_tien_luong_cua_c_reactive_protein_trong_nhoi_mau_nao.pdf