Vai trò vốn đầu tư FDI ở Việt Nam

Nhiệm vụ của ba tháng cuối năm 2007 là hết sức nặng nề, nhất là trong điều kiện nhiều yếu tố không thuận lợi có khả năng tác động đến nền kinh tế như thiên tai, giá xăng dầu và năng lượng khác tăng cao, ảnh hưởng lan truyền đến chi phí đầu vào của sản xuất, các cấp, các ngành, các địa phương sẽ tập trung vào những công việc chủ yếu, mang tính đột phá. Đó là tìm mọi biện pháp thúc đẩy sản xuất – kinh doanh đi đôi với giảm chi phí để nâng cao giá trị tăng thêm. Các doanh nghiệp cải tiến công nghệ, tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu đặc biệt là điện và xăng dầu. Tiết kiệm líc này không chỉ là khẩu hiệu hành động mà còn là sự sống còn của từng doanh nghiệp. Những khó khắn, vướng mắc nhất là về đất đai, yếu tố bảo đảm sản xuất- kinh thông suốt cần được các cơ quan chức năng tháo gỡ kịp thời. Trong nông nghiệp cần thực hiện triệt để các biện pháp phòng, chống tthiên tai. Không để dịch cúm gia cầm, lở mồm nong móng ở gia súc bùng phát trở lại. Huy động đến mức cao nhất các nguồn lực phục vụ đầu tư phát triển là yêu cầu đối với tất cả các ngành, cơ sở của trung ương và địa phương. cần điều chỉnh những điểm chưa hớp lý trong cácvăn bản hướng dẫn thi hành Luật đầu tư, luật đấu thầu , luật xây dựng cơ bản để có thể tháo gỡ những vướng mắc về thủ tục khởi công dự án mới. Đẩy mạnh nhanh tiến độ các công trình quy mô lớn, nhất là đối với giao thông vận tải, thuỷ lợi. Tập trung lực lượng, bố trí đủ vốn, lực lượng, bố trí đủ vốn, lực lượng cho công trình chậm tiến độ vượt lên. Thực hiện nghiêm việc giám sát thi công bảo đảm an toàn lao động và chất lượng công trình.

doc36 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1443 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò vốn đầu tư FDI ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng cả chiều rộng và chiều sâu, vừa tăng them sản lượng của các năng lực sản xuất hiện có, xây dựng mới nhiều xí nghiệp với quy mô thích hợp, mở thêm nhiều ngành nghề mới vừa đổi mới nhanh chóng công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí sản xuất. FDI có thể tác động đến cả chiều rộng và chiều sâu của quá trình tăng trưởng, nếu Việt Nam hình thành được chính sách kinh tế vĩ mô thích hợp tạo được môi trưòng đầu tư và kinh doanh đủ sức thu hút vốn FDI, nhất là từ các công ty xuyên quốc gia. Theo nghiên cứu của một số chuyên gia kinh tế vào năm 1995, đã đánh giá tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế trên cơ sở dữ liệu của các dòng chảy FDI từ các nước công nghiệp phát triển sang 69 nước đang phát triển trong vòng hai thập niên, đã đưa ra ba kết luận: FDI là một phương tiện để chuyển giao công nghệ, đóng góp cho tăng trưởng tương đối nhiều hơn so với đầu tư trong nước. FDI có tác dụng làm tăng tổng mức đầu tư trong một nền kinh tế hơn là tăng từng phần; điều đó nói lên địa vị ưu thế của tính bổ sung đối với các công ty trong nước. FDI có thể tạo ra năng suất cao hơn đầu tư trong nước nếu nước chủ nhà có nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu. Những kết luận naỳ rất phù hợp với thực tế Việt Nam trong 15 năm qua. FDI không chỉ góp phần cải tạo mốt số năng lực sản xuất hiện có thông qua việc thiết lập các liên doanh giữ nhà đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước, chủ yếu là thuộc quốc doanh; những doanh nghiệp này vốn có công nghệ lạc hậu, sản xúât không hiệu quả; từ khi đưa vào liên doanh hầu như đã đổi mới cơ bản hoặc toàn bộ công nghệ, tạo ra năng suất cao hơn và sản phẩm có chất lượng hơn. Trong thời gian khoảng một thập kỷ, Việt Nam đã hình thành đựơc một số ngành kinh tế quan trọng có công nghệ hiện đại như thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, cơ khí điện tử, công nghệ phần mềm … nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã có đủ năng lực tham gia nhiều công trình đòi hỏi công nghệ cao của nước ngoài. 2.3. FDI với việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước, mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam hàng năm bình quân khoảng 25%, thuộc vào loại cao nhất trong khu vực. Chỉ tính riêng lĩnh vực xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo, nếu năm 1991 chỉ có 158 triệu USD, năm 1995 là 2.864 triệu USD và năm 2000 là 5.850 triệu USD, bằng 37 lần năm 1991. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nứơc ngoài đã góp phần quan trọng gia tăng nhanh chóng kim ngạch xuất khẩu. Trong những năm đầu thời kỳ đổi mới và mở cửa, phần lớn các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực chế tạo có khuynh hướng sản xuất cho thị trường trong nước. Thời kỳ 1988-1990, chỉ có khoảng 20% dự án được phê chuẩn có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu trên 50%; Thời kỳ 1991-1997, tỷ lệ này tăng dần và sau năm 1997 đã đạt đến trên 70% dự án FDI có sản phẩm xuất khẩu từ 50% trở lên. 2.4. FDI với việc làm và nguồn nhân lực. Việt Nam đã có trên 45 vạn người lao động có việc làm trực tiếp trong các doanh nghiệp FDI với mức thu nhập trung bình cao hơn 2 lần so với các doanh nghiệp khác cùng nghành nghề. Đó là chưa kể hàng triệu việc làm được tạo ra trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, dịch vụ cung ứng hàng hoá, phân phối sản phẩm, tiếp thị… Vấn đề việc làm cần được nghiên cứu trong tổng thể mục tiêu thu hút FDI, bao gồm cả việc chuyển giao công nghệ, hình thành một cơ cấu kinh tế hiện đại. Không thể đạt được nhiều mục tiêu trong cùng một dự án đầu tư, mà phải tuỳ thuộc vào lĩnh vực, ngành nghề để điều chỉnh các mục tiêu, tạo ra sự hài hoà giữa các mục tiêu của dự án đầu tư. Vấn đề có liên quan đến việc làm là tạo nguồn nhân lực cho đất nước trong quá trình công nghiệp hoá. Con số trên 45 vạn người chưa phải là nhiều so với nhu cầu cần có việc làm mỗi năm từ 1.2 -1.3 triệu người ở Việt Nam. Nhưng quan trọng hơn là só lao động này được tiếp cận với công nghệ hiện đại, đáp ứng được tiếp cận với công nghệ hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của phương thức sản xúất tiên tiến, có kỷ luật lao động cao, một số chuyên gia trong nước đã có thể thay thế dần và có hiệu quả trong quản trị doanh nghiệp, trong tiếp thị, làm chủ các quy trình công nghệ … 2.5. FDI với hiệu quả kinh tế - xã hội tổng quát Ngoài những tác động đối với các vấn đề cụ thể trên đây, FDI còn có liên quan đến những chỉ tiêu tổng quát về kinh tế - xã hội, như tăng năng suất lao động xã hội, cán cân thanh toán quốc tế, các định chế tiền tệ, tín dụng, đóng góp vào nguồn thu của ngân sách, góp phần làm thay đổi phương thức làm việc, cải thiện môi trường sống của xã hội. FDI có tác động tăng năng suất lao động xã hội trong trường hợp: Các doanh nghiệp FDI được xây dựng nhà máy có quy mô thích hợp nhằm đạt được hiệu quả tối đa. Các sản phẩm được xuất khẩu trên thị trường rộng lớn của thế giới.Cũng có trường hợp sản phẩm chỉ được tiêu thụ trên thị trường nội địa, nhưng quy mô của sản xuất bảo đảm suất đầu tư có hiệu qủa, có nghĩa là dung lượng thị trường nội địa về loại sản phẩm đó không quá ít. Đối với các nước đang phát triển như nước ta thì FDI có tác động đến cán cân thanh toán quốc tế lớn hơn nhiều so với các nước công nghiệp phát triển. Là nước nhận đầu tư, một lượng vốn hàng năm 2-3 tỷ USD đã được đưa vào nước ta, một phần bằng máy móc, nguyên vật liệu nhập khẩu để hình thành doanh nghiệp, một phần không dưới 30% bằng ngoại lệ mạnh để trang trải các chi phí ban đầu ở trong nước. Quá trình kinh doanh nhờ vào gia tăng kim ngạch xuất khẩu vượt quá kim ngạch nhập khẩu, các doanh nghiệp FDI đã tạo một nguồn ngoại tệ tham gia vào việc cân bằng cán cân thanh toán. FDI đóng vai trò kích thích việc cải cách và hoàn thiện thể chế tiền tệ, tín dụng, ngoại hối ở nước ta. FDI đóng góp ngày càng quan trọng vào nguồn thu ngân sách từ các khoản thuế trực tiếp do doanh nghiệp nộp, cho đến các khoản gián tiếp do FDI tạo ra cho các hoạt động dịch vụ, thương mại, thuế thu nhập của người lao động. Tác động quan trọng nhất của FDI trong gần 20 năm qua là góp phần làm thay đổi bộ mặt đát nước, làm cho ngừơi Việt Nam tiếp cận các chuẩn mực quốc tế trong các lĩnh vực hoạt động. trong những năm qua, thu nhập của dân cư tăng lên khá nhiều, tỷ lệ đói nghèo giảm đi rõ rệt. 3. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Trung Quốc và bài học cho Việt Nam. 3.1. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Trung Quốc. a. Kết quả đạt được Trong thời kỳ 1992-1995 là thời kỳ Trung Quốc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với tốc độ cao. Nguyên nhân của tình hình này là do Đại hội 14 Đảng Cộng Sản Trung Quốc (1992)đã quyết định thực hiện đẩy mạnh tốc độ cải cách và mở cửa, đẩy mạnh các hoạt động tài chính – tiền tệ Châu Á làm cho vốn đăng ký theo dự án giảm, nhưng vốn thực hiện vẫn tăng; tuy mức tăng thấp hơn các năm trước. Từ khi Trung Quốc cải cách mở cửa, các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư dưới ba hình thức doanh nghiệp: doanh nghiệp hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Quy mô dự án đầu tư chủ yếu là vừa và nhỏ, nhưng từ những năm 1993, các dự án lớn ngày càng tăng. bảng1 vốn bình quân cho dự án thời kỳ 1993- 1998 đơn vị: Triệu USD Năm 1993 1994 1995 1998 vốn 1.336 1.714 2.403 3.000 Nguồn: Niên giám thống kê của Tổng cục thống kê Trung Quốc Các dự án đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc mang tính sản xuất chiếm tỷ trọng lớn trong đó tập trung ở lĩnh vực nông nghiệp là chủ yếu.Từ năm 1986, Trung Quốc có sự điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Các dự án công nghiệp có hiệu quả chiếm hơn 90% tổng số và trên 70% tổng vốn nước ngoài đầu tư vào. Từ những năm 90, tuy tình hình đầu tư nước ngoài có sự thay đổi nhưng cơ cấu đầu tư cho công nghiệp vẫn được đảm bảo. Đến cuối năm 1998, tỷ trọng các dự án đầu tư vào ngành công nghiệp là57.1% các ngành nông nghiệp, nghề rừng, chăn nuôi gia súc, nghề cá, bảo vệ nguồn nước là 5%, dịch vụ là36%. Trước đây vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào khu vực duyên hải miền Đông, còn miền Tây và miền Trung vẫn rất hạn chế. Hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài đang có chuyển dịch vào nội địa, đặc biệt là vào khu vực miền trung và miền tây, sau khi có một loạt chính sách khuyến khích của Chinh phủ Trung Quốc. b. Những chủ trương, chính sách, biện pháp đã áp dụng nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc * Mở rộng địa bàn thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từng bước, nhiều tầng, ra mọi hướng. Trung Quốc đã tiến hành mở cửa từng khu vực, bắt đầu từ việc thành lập 5 lập đặc khi kinh tế, sau đó là việc mở cửa thành phố ven biển, 13 thành phố ven biên giới nhằm mở rộng thương mại và đầu tư vùng biên. * Môi trường luật pháp. Cho đến nay Trung Quốc đã ban hành trên 500 văn bản gồm các bộ luật và pháp quy liên quan đến thương mại và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Luật pháp được xây dựng trên nguyên tắc: Bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng tập quán quốc tế. * Tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các chủ trương, biện pháp được hướng vào cải tạo cơ sở hạ tầng, thực hiện các ưu đãi ( như ưư đãi thuế đối với khu vực đầu tư, ưu đãi thuế theo kỳ hạn kinh doanh và ưu đãi thuế trong tái đầu tư), đa dạng hoá các hình thức đầu tư và chủ đầu tư. 3.2. Vận dụng kinh nghiệm của Trung Quốc vào việc hoàn thiện chính sánh thu hút FDI của Việt Nam. - Sự kiên định trong cải cách, mở cửa, sự nhất quán trong quan điểm và chiến lược phát triển kinh tế Trung Quốc đã tạo ra sự đồng bộ giữa hệ thống chính sách mở cửa hội nhập, thu hút FDI là cơ sở của một hệ thống chính sách thu hút FDI “tích cực, hợp lý, hữu hiệu” ở Trung Quốc. Từ điều này cho thấy muốn hoạt động FDI của Việt Nam trong những năm đầu gia nhập WTO đạt hiệu quả, thì chúng ta cũng phải tiếp tục kiên định đường lối đổi mới và mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đánh giá đúng vị trí, vai trò của FDI. - Sự thành công vượt trội của Trung Quốc trong thu hút FDI cũng xuất phát từ sự điều chỉnh chính sách linh hoạt. Đối với Việt Nam, việc gia nhập WTO đã đặt nền kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam đứng trước sự cạnh tranh gay gắt hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Chính vì vậy chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư, có định hướng đầu tư thích hợp, đặt trọng tâm vào việc làm cho môi trường đầu tư mang tính cạnh tranh hơn, xoá bỏ mọi ưu đãi vượt quá nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO theo hướng: + Tiếp tục xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên chế độ sở hữu đa dạng, phát triển kinh tế thị trường, tạo động lực và gây áp lực để tạo mọi chủ thể trong nền kinh tế không ngừng tự hoàn thiện vươn lên để có thể tham gia vào một sân chơi bình đẳng với các đối tác nước ngoài. Đối với hoạt động FDI, củng cố và hoàn thiện chế độ sở hữu đa dạng là một sự bảo đảm để khẳng định tư cách pháp lý và pháp nhân của nhà đầu tư nước ngoài thông qua quá trình luật hoá. Kinh nghiệm của Trung Quốc giúp ta nhận thức rằng, mở cửa kinh tế và thừa nhận sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đã tạo ra năng lực sản xuất mới cho các nền kinh tế chuyển đổi. + Chúng ta cũng cần tiếp tục hoàn thiện các công cụ tài chính ngân hàng, công cụ tiền tệ theo hướng tham gia vào việc quản lý và bình ổn kinh tế vĩ mô. +Tiếp tục hoàn thiện và ổn định hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư, làm cho luật pháp Việt Nam nhất quán, động bộ và phù hợp với luật pháp quốc tế, các quy định của WTO. +Tiếp tục đẩy mạnh việc chuyển sang điều tiết nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy việc xác lập thể chế thị trường là điều không thể thiếu trong mở cửa thu hút FDI. +Chúng ta cũng cần phải tiếp tục cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng và dịch vụ phụ kèm cho đầu tư, nâng sức cạnh tranh của nền kinh tế, vì điều này liên quan đến chất lượng của dòng vốn đầu tư, đến khả năng dung nạp FDI của nền kinh tế. + Trung Quốc rất thành công trong phát triển công nghệ phụ trợ và dịch vụ kèm đầu tư. Điều đó chỉ ra cho chúng ta hướng đi để tận dụng xu thế phát triển của thế giới, biến mình thành một mắt khâu trong mạng lưới sản xuất quốc tế, tham gia vào quá trình phân đoạn sản xuất; lợi dụng phân công lao động quốc tế để chuyển giao công nghệ, phát triển lực lượng sản xuất, tạo việc làm phù hợp với trình độ của lao động Việt Nam. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam trở thành một thị trường bổ sung cho thị trường nước lớn. Chúng ta cần có những biện pháp thích hợp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có chiến lược đào tạo nhân lực theo hướng đa dạng về chất lượng, đáp ứng yêu cầu ở nhiều công đoạn sản xuất từ thấp đến cao. - Chúng ta cần tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào việc phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong đó đặc biệt coi trọng thu hút FDI vào vào các ngành, các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, nhất là công nghệ cao, công nghệ nguồn, xây dựng kết cấu hạ tầng. Trong chính sách cơ cấu thu hút FDI cũng phải chú trọng đặc điểm về trình độ của người lao động Việt Nam để có định hướng đầu tư thích hợp, tạo việc làm, khai thác lợi thế so sánh về nguồn lao động giá rẻ, kết hợp phát triển các ngành nhiều lợi thế, có tính truyền thống bản địa với các ngành công nghệ cao để có thể sử dụng nhiều tầng công nghệ. Vì vậy Nhà nước cần tạo ra môi trường để các doanh nghiệp tự do lựa chọn công nghệ, khuyến khích tạo điều kiện nhập khẩu máy móc hiện đại, lựa chọn mua bán công nghệ, đẩy mạnh công tác tư vấn và định hướng phát triển công nghệ cho các doanh nghiệp. Vốn đầu tư của nhà nước nên tập trung để nâng cấp cơ sở hạ tầng tương thích cho sự thu hút FDI vào những ngành có hàm lượng cồng nghệ cao. - Nhằm chống đỡ những rủi ro phát sinh trong quá trình hội nhập, giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của FDI, chúng ta cần kết hợp chính sách kinh tế, chính sách thu hút FDI với các chính sách xã hội, bảo vệ môi trường, an ninh quốc gia, giữ gin bản sắc dân tộc … - Từ kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc phát huy tinh thần dân tộc của Hoa kiều thì Việt Nam cũng cần có những chính sách ưu đãi hơn nhằm mục đích sử dụng nguồn lực từ Việt kiều có hiệu quả. Giới lãnh đạo Trung Quốc đã xây dụng, điều chỉnh chính sách FDI một cách linh hoạt nên nó được đánh giá là hợp lý, đem lại hiệu quả cao, thể hiện ở hoạt động FDI tại Trung Quốc luôn mang lại nhiều tác động tích cực đối với nền kinh tế và mọi mặt của đời sống. Việc học tập kinh nghiệm của Trung Quốc để xây dựng, điều chỉnh chính sách thu hút FDI cho mình là việc làm rất cần thiết đối với Việt Nam. Đó cũng là cách để chúng ta khẳng định: đổi mới luôn gắn liền với mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ cơ hội mà thời đại dành cho những nước đi sau thông qua các hoạt động kinh tế đối ngoại như thương mại quốc tế và đầu tư, tham gia vào cạnh tranh quốc tế với tư cách tích cực. Với tư cách là thành viên của WTO, Việt Nam cần có những động thái tích cực nhằm tiếp tục cải thiện môi trường, thể chế đầu tư để có thể thu hút và sử dụng FDI ngày càng hiệu quả, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá, thực hiện các cam kết với WTO. Chương II thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam giai đoạn 2001-2005 I . Kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2001-2005 1. Đặc điểm tình hình chung của giai đoạn 2001-2005 1.1. Thuận lợi Về trong nước: - Tình hình kinh tế chính trị xã hội nước ta tiếp tục ổn định và nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh đã tạo ra thế và lực mới cho nền kinh tế Việt Nam. Giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao. GDP tăng bình quân 7.4% /năm, riêng năm 2005 đạt mức tăng trưởng 8.4%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16.5%, giá trị sản xuất ngành dịch vụ tăng 8.7%, tổng khả năng xuất khẩu tăng 20% , tạo thêm được 1.6 triệu việc lam mới. Năm 2005, khu vực kinh tế này đóng góp khoảng 15.5%GDP, 37%giá trị sản xuất công nghiệp và 55%khả năng xuất khẩu của cả nước. - thể chế kinh tế thị trường đang hình thành và vận hành có hiệu quả, nhiều cơ chế, chính sách đi vào cuộc sống. Tiến trình hoàn thiện môi trường pháp lý đang được đẩy nhanh để đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thóáng, hấp dẫn. - Nhiều văn bản pháp luật quan trọng được ban hành trong thời gian gần đây như Luật đầu tư, luật doanh nghiệp áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, luật đấu thầu; đồng thời Quốc hội sê xem xét thông qua một số đạo luật mới. - Việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng đã tăng lên đắng kể, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tiến hành các hoạt động kinh doanh. - Chủ trương tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI tiếp tục được khẳng định trong các văn kiện của Đảng, nhất là từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Đặc biệt đầu năm 2005, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 13/2005/CT- TTg ngày 8/4/2005 về một số giải pháp nhằm tạo chuyển biến mới trong việc thu hút FDI tại Việt Nam. - Trong năm qua, Chính phủ đã chỉ đạo cán Bộ ngành, địa phương tăng cường cải thiện môi trường đầu tư trên cả phương diện quản lý, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao cơ sở hạ tầng, chống tham nhũng và đào tạo cán bộ. Về quốc tế - Nằm trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương phát triển năng động, Việt Nam có nhiều cơ hội thu hút các nguồn lực quốc tế cho đầu tư phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. - Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng. Đến nay, Việt Nam đã ký kết Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 49 nước, Hiệp định tránh đánh thuế trung với 40 nước. Đặc biệt về cơ bản đã kết thúc việc đàm phán gia nhập WTO đã tạo ra cơ hội lớn về mở rộng thị trường xuất khẩu và khả năng thu hút FDI của Việt Nam. - Vốn FDI đã chuyển mạnh sang các nền kinh tế đang phát triển, đặc biệt là các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh, và các nền kinh tế mới nổi để giảm chi phí đầu tư và tiếp cận đến các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang tăng giá đột biến trên thị trường thế giới để khai thác phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh tại các nền kinh tế đó. 1.2. Khó khăn Về trong nước - Là giai đoạn đầu thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010. Mục tiêu phát triển đặt ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn này khó thực hiện hơn giai đoạn trước vì những yếu tố phát triển nền kinh tế theo chiều sâu. - Là giai đoạn Việt Nam hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Mức độ cạnh tranh ở thị trường trong nước ngày càng gay gắt, gây bất lợi cho các doanh nghiệp FDI. - Thiên tai dịch bệnh ảnh hưởng không nhò đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp FDI. - Một số Nghị định của Chính phủ ban hành và có hiệu lực ban hành trong thời gian gần đây đã bắt đầu gây ra một số khó khăn cho hoạt động FDI Về quốc tế - Sức ép cạnh tranh quốc tế gia tăng cùng với tiến trình hội nhập là thách thức to lớn đối với nền kinh tế còn yếu về tiềm lực kinh tế và sức cạnh tranh như Việt Nam. - Biến động bất thường của thị trường thế giới về giá cả một số nguyên liệu nhập khẩu đã ảnh hưởng khá lớn đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp FDI. Những đặc điểm trên cũng ảnh hưởng đồng thời lên hoạt động thu hút và triển khai các dự án FDI ở Việt Nam. 2. Kết quả thu hút vốn FDI tại Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005. 2.1. Các chỉ tiêu thu hút Nghị định số 09/2001/NĐ – CP ngày 28/8/2001 về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả FDI giai đoạn 2001-2005 đã xác định mục tiêu thu hút mới cho giai đoạn này là 12 tỷ USD (trung bình mỗi năm thu hút 2.4 tỷ USD). Trong đó, Bộ kế hoạch đầu tư xác định vốn FDI thu hút mới trong năm 2005 là 4.5 tỷ USD. 2.2. Kết quả thực hiện thu hút vốn FDI * Về quy mô và tốc độ thu hút - Đây là thời kỳ phục hồi chậm chạp của hoạt động FDI tại Việt Nam. Trong giai đoạn này, Việt Nam đã thu hút được 20.8 tỷ USD vốn FDI, trong đó năm 2001 đã thu hút được 30 tỷ đồng chiếm 17.6% tổng vốn đầu tư xã hội, năm 2002 đã thu hút được 34.5 tỷ chiếm 17.3% tổng vốn đầu tư xã hội, năm 2003 đã thu hút được 37.8 tỷ đồng chiếm 16.3% tổng vốn đầu tư xã hội, năm 2004 đã thu hút được 44.2 tỷ đồng chiếm 16.1% tổng vốn đầu tư xã hội, năm 2005 đã thu hút được 53 tỷ đồng chiếm 16.3% tổng vốn đầu tư xã hội. Bảng1. kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2001-2005 Giá hiện hành chỉ tiêu đơn vị 2001 2002 2003 2004 2005 tổng vdtxh nghin đồng 170.5 199.1 231.6 275 326 vốn FDI nghin đồng 30 34.5 37.8 44.2 53 %tỏng vdt xh % 17.6 17.3 16.3 16.1 16.3 nguồn: kế hoạch phát triển kt –xh 5 năm 2006-2010 Vốn đăng ký (vdk) năm 2001 bằng 123% so với năm 2000. Hai năm tiếp theo vốn tiếp tục giảm: năm 2002 vdk chỉ bằng 88% so với năm 2001, năm 2003 chỉ bằng 96.6% so với năm 2002. Chỉ sang năm 2004 FDI mới thực sự bắt đầu phục hồi đạt hơn 4.2 tỷ USD nhưng vẫn chưa đạt được con số của năm 1998, và đến cuối năm 2005, FDI tăng gần 40% đạt 5.9 tỷ USD nhưng vẫn chỉ xấp xỉ con số của năm 1997 (đây là năm FDI chịu tác động rõ rệt của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực). Giai đoạn 2001-2005, cả nước đã thu hút được khoảng gần19.3 tỷ USD vốn FDI mới, giảm 24% so với 25.37 tỷ USD giai đoạn 1996-2000. Trong đó, vốn cấp mới chỉ bằng có 60% giai đoạn 1996-2000, tăng vốn gấp 1.7 lần và vốn giải thể chỉ bằng 75%so với giai đoạn trước. Vốn còn hiệu lực tính cho đến cuối năm 2005 là khoảng 50 tỷ USD. Nếu tính chung cho cả vốn cấp mới và tăng vốn thì thời kỳ 2001-2005 chỉ hơn thời kỳ 1996-2000 gần 3%. Sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn FDI năm 2005 tằng 21%, cao hơn mức tăng trưởng chung của công nghiệp cả nước là 16.5%. Thành quả này có được chủ yếu là do thị trường xuất khẩu của một số sản phẩm công nghiệp được mở rộng, giá dầu thô tăng cao và có thêm nhiều doanh nghiệp FDI mới đi vào hoạt động. Trong giai đoạn này khu vực có vốn FDI xuất siêu khoảng 5.8 tỷ USD(riêng năm 2005 Xuất siêu khoảng 2.8 tỷ USD). Tỷ trọng đóng của FDI vào GDP bình quân giai đoạn 2001-2005 đạt 14.36% , trong khi giai đoạn 1996-2000 bình quân chỉ đạt 10.2%. Nộp ngân sách giai đoạn 2001-2005 gấp 2.38 lần giai đoạn 1996-2000. Riêng năm 2005, trên địa bàn cả nước có 922 dự án FDI mới được cấp giấy phếp đầu tư với số vốn đầu tư đăng ký đạt hơn 4 tỷ USD, tăng 24% số dự án và 61.2% vốn đầu tư so với năm 2004. Đó là sự tăng trưởng đột biến trong việc thu hút FDI của Việt Nam kể từ sau khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực xảy ra. * Cơ cấu đâu tư. - Theo lĩnh vực: Phần lớn các dự án FDI mới tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, chiếm tới gần 67% số dự án và 60.8% vốn đăng ký. Tiếp đến lĩnh vực dịch vụ, chiếm tới hơn 19.7% số dự án và hơn 31.7% vốn đăng ký cấp mới. Trong thời kỳ 1991-1995, lĩnh vực dịch vụ tỏ ra hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài nên đã chiếm tới hơn 43% tổng số vốn dăng ký, với nhiều dự án quy mô lớn xậy dựng khách sạn, văn phòng cho thuê, nhà ở. Giai đoạn sau giảm xuống còn 22.4% do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực.Tiếp đến là nông lâm ngư nghiêp hơn 13% số dự án và gần 7.5% vốn đăng ký cấp mới, với số dự án còn hiệu lực là789 và3.775 tỷ USD. Trong đó đẩu tư vào ngành nông lâm nghiệp chiếm hơn 85.5% số dự án với 91.7% vdk, đầu tư vào ngành thuỷ sản chỉ chiếm có 14.5% số dự án với hơn 8%vdk. Bảng2. Vốn FDI theo ngành(giai đoạn 1988-2005, chỉ tính d.a còn hiệu lực) chuyên ngành Số d.a tỷ trọng tổng vốn đầu tư (1000USD) tỷ trọng % vốn pháp định (1000USD) công nghiệp 4053 67.21 31040965 60.84 13355201 nông lâm ngư nghiệp 789 13.08 3774878 7.4 1427350 dịch vụ 1188 19.7 16202102 31.76 7698540 (Nguồn Cục ĐTNN, Bộ kế hoạch và đầu tư) - Theo đối tác. Tính đến hết 31/12/2005, đã có tới hơn 75 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam. Trong đó có 12 nước có số vốn đầu tư trên 1 tỷ USD, và trong số 12 nước đó có tới 7 nước thuộc Châu Á(đông nam đông á), đứng đầu là 4 nước Đài Loan, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông có số vốn đầu tư trên 3.7 tỷ trở lên. - Theo địa phương. Các nhà đầu tư Nứơc ngoài đã có mặt ở tất cả các địa phương trong cả nước, ở 65 tỉnh thành phố nhưng phân bố không đều. FDI tập trung ở thành phố HCM và các tỉnh lân cân chiếm hơn một nửa vdk của cả nước(với 28.66 tỷ USD chiếm 56% vdk) Tếp đến là Hà Nội và các tỉnh lân cận chỉ chiếm chưa đầy ½ số lượng vốn ở khu vực phía nam, với 13.42 tỷ USD chiếm 26.3% vdk. Sự phân bố không đều là do nhân tố địa lý - tự nhiên quết định. Những nơi có bảng biển, sân bay, hệ thống đường giao thông thuận tiện, diện nước tốt và các dịch vụ phát trỉên tôt là những nơi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đến lập nghiệp. - Theo hình thức đầu tư. Sau khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nổ ra thì ngay càng các dự án doanh nghiệp liên doanh xin chuyển sang hình thưc 100% vôn nước ngoài. Tính cho đến hết năm 2004, các dự án đầu tư trực tiếp vào nước ta mới chỉ được phép đầu tư trong 4 hình thức được quy định trong luật đầu tư nước ngoài. Đến năm 2005, các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư vào 2 hình thức mới là công ty cổ phần FDI và công ty quản lý vốn (thí điểm). Tính chung đến hết ngày 31/12 năm 2005, cơ cấu FDI vào Việt Nam theo hình thức được phân bổ như sau: Bảng: Đầu tư trực tiếp nứớc ngoài theo hình thức đầu tư 1988-2005 stt hình thức đầu tư Dự án vốn đầu tư tổng số DA tỷ trọng (%) tổng vốn tỷ trọng (%) 1 100%VNN 4504 74.7 26041 51 2 DNLD 1327 22 19180 37.6 3 HĐHTKD 184 3.05 4710 8.17 4 BOT 6 0.1 1370 2.7 5 Công ty cổ phần 8 0.13 199 0.4 6 Công ty quản lý vốn 1 0.02 55.5 0.11 tổng 6030 100 51017 100 (nguồn :cục đầu tư nước ngoài - Bộ kế hoạch và đầu tư) Qua bảng ta thấy: tính đến hết năm 2005, hình thức 100%VNN chiếm tới gần 75% số dự án và 51%VDK. Hình thức ĐNL chiếm 22%số dự án và 37.6% VĐK. Hai hình thức này chiếm đến gần 97%số dự án và 88,6%VĐK. Chỉ có khoảng 3%số dự án và 11.4%VĐK là thuộc về 3 hình thức đầu tư còn lại. Như vậy có thể thấy rằng các nhà ĐTNN ưa thích đầu tư vào hình thức100%VNN. Hình thức DNLD cũng không mấy được ưa chuộng vì tính phức tạp của hình thức này trong quản lý và điều hành. Tuy nhiên, số liệu trên cũng cho thấy, quy mô của ác dự án là 100%VNN thường là nhỏ, đầu tư vào những ngành ít rủi ro. Trong khi đó, các dự án liên doanh thường có quy mô lớn hơn và đầu tư trong nhiều lĩnh vực mà nếu đầu tư 100%VNN không chắc chắn vì nhà ĐTNN ít am hiểu lĩnh vực này hoặc ít am hiểu thị trường Việt Nam. Hình thức BOT được Chính phủ ưu đãi nhiều hơn so với các hình thức FDI khác như không thu tiền thuê đất, thời hạn thực hiện dự án thường là dài nhưng có rất ít các nhà ĐTNN lựa chọn, chủ yếu là do các doanh nghiệp Việt Nam liên quan đến cung ứng đầu vào hoặc đầu ra mang tính chất cục bộ rất lớn. Đây là thực tế cần được nghiên cứu và có các giải pháp tháo gỡ kịp thời để khuyến khích các nhà ĐTNN đầu tư bằng hình thức BOT; hoàn thiện và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng của quốc gia nhằm hấp dẫn các nhà ĐTNN mới và phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. 2.3. Tình hình thu hút vốn đầu tư FDI. Trong giai đoạn này cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực và sự suy giảm kinh tế thế giới đã tác động xấu dến nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư và thương mại. Nhận thức được điều này, Việt Nam đã có những biện pháp nhằm thu hút dòng FDI đang có xu hướng giảm: mở cửa thị trường vốn; điều chỉnh chính sách bảo hộ sản xuất trong nước có điều kiện, có thời hạn, thực hiện lộ trình cắt giảm thuế; giảm thiểu hàng rào phi thuế quan … Khuyến khích thu hút FDI thông qua các chính sách thúê, giá cả dịch vụ; chủ động đàm phán Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ, gia nhập APEC và thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA, ASEAN, … trên các mặt: đối xử tối hệ quốc, đối xử quốc gia; xuất nhập khẩu, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, … Việc ban hành Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp (năm 2005) là một bước tiến quan trọng khuyến khích đầu tư, tạo “sân chơi” bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp, xác lập lại quyền tự do kinh doanh cho các doanh nghiệp. Tiến hành đàm phán song phương và chuẩn bị các điều kiện gia nhập WTO. Kết quả hoạt động đầu tư nước ngoài thời kỳ 2001-2005: vốn đăng ký năm 2001 là 2.592tỷ USD bằng 128% của năm 2000. Hai năm tiếp theo vốn đăng ký lại gỉam sút, năm 2002 là 1.621tỷ USD, chỉ bằng 62.5%năm 2001; năm 2003 là 1.914 tỷ USD, xấp xỉ năm 2000; vốn đăng ký năm2004 là 2.1tỷ USDtăng 10.5% so với năm trước, năm2005 Việt Nam đã thu hút được 3.6 tỷ USD vốn đầu tư mới. 2.4. Triển vọng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Con đưòng phát triển kinh tế đầy ấn tượng của Đông Nam Á trong hơn 20 năm qua đã tỏ ra xứng đáng với hoạt động sôi động của FDI, vì thế không lấy gì làm ngạc nhiên rằng Việt Nam đã thu được những kết quả đáng kể như là một phần của xu thế phát triển kinh tế. Các kết quả thu hút FDI này không đơn thuần là gia tăng nguồn vốn mà có thể (ít nhất là về tiềm năng ) mở rộng một loạt những đóng góp phi tài chính khác như: công nghệ mới, các kỹ năng và thiết kế, các kỹ thuật quản lý tổ chức, sự tiếp cận những thông tin về thị trường nước ngoài .v.v…Thậm chí điều này có thể được làm rõ rằng - theo khảo sát của Changhong tại Trung Quốc - hoạt động FDI có thể đóng vai trò như một “thành phần tư nhân thay thế tạm thời “ đối với một nền kinh tế quá độ, khi mà việc cải cách khu vực kinh tế nhà nước vẫn còn chậm chạp và thành phần tư nhân trong nước vẫn chưa đủ mạnh để có được những ảnh hưởng quan trọng đối với nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, việc thu hút FDI của Việt Nam giống như việc”nhập khẩu “một thành phần tư nhân có sẵn, và do đó có thể có những tác đồng khả quan tức thời đối với nền kinh tế trong thời ky chuyển đổi. Tại Đại hội IX, Đảng cũng khẳng định có thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, điều này phản ánh đúng thực tế đang diễn ra trong nền kinh tế nước ta hiện nay. Kể từ năm 2003 đến 2005 thiện cảm của nhà đầu tư nước ngoài đối với Việt Nam đã tăng lên, mặc dù khó có thể đánh giá nhưng một số chỉ số phát triển kể từ đầu năm 2003 đến nay có thể phản ánh mối thiện cảm đang gia tăng này. Một sự cảm nhận chung của các nhà đầu tư là công cuộc cải cách kinh tế và tự do hoá kinh doanh đã dần được mở rộng, điều này thể hiện qua những thay đổi về luật đầu tư nước ngoài, ban hành luật doanh nghiệp, sự công nhận vai trò ngày càng gia tăng của thành phần tư nhân; việc ký kết và thông qua hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ; việc mở cửa thị trường chứng khoán; việc quay trở lại cho vay của IMF. Tất cả các hoạt động này được nhìn nhận như là các tín hiệu tích cực thề hiện qua các chỉ số kinh tế hàng đầu mà đà phát triển cải cách đã lấy lại được. Con số 4.1 tỷ USD trong thu hút FDI của năm 2004 (cao nhất trong vòng 7 năm qua) là một dấu mốc quan trọng ghi nhận sự phục hồi FDI sau nhiều năm trì trệ. Tuy nhiên, khi xu hướng tăng trở lại dòng vốn FDI trên toàn thế giới (sau khi đã đạt mức kỷ lục 760 tỷ USD trong năm 2004 và sẽ tiếp tục được duy trì đến năm 2008) thì con số 4.1 tỷ này(chỉ bằng năm 1994 và bằng gần ½của năm 1996) theo đánh giá của nhiều chuyên gia, vẫn còn dưới mức tiềm nảng của Việt Nam. 2.5. Ma trận SWOT Điểm mạnh Điểm yếu S1 S2 S3 … Sn W1 W2 W3 … Wn cơ hội O1 O2 O3 … On thách thức T1 T2 T3 … Tn Trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều khó khăn như dòng luân chuyển vốn giảm mạnh sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường thu hút vốn. Trước tình hình đó thì sự ổn định về kinh tế, chính trị và xã hội là một điểm mạnh, là một lợi thế trong thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài vào. Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư và phất triển sản xuất kinh doanh. Những thể chế, cơ chế chính sách đã ban hành thì đã phát huy được những hiệu quả tốt tạo điều kiện tốt cho môi trường đầu tư nhằm thu hút các nguồn lực. Cơ cấu chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đã giúp nước ta mở rộng cửa tiếp nhận những cái văn minh hiện đại của thế giới vào nước. Tích cực đẩy manh quan hệ quốc tế với các nứơc trên thế giới và trong khu vực. Việc tích cực tham gia vào các hội nghị quốc tế đạc biệt để mạnh việc gia nhập WTO là những thuận lợi rất lớn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước. Bên cạnh những hoạt động tích cực trong ngoại giao quốc tế thì việc sắp xếp lại đội ngũ cán bộ và tổ chức hành chính cũng là một biên pháp tốt để tạo thuận lợi cho dòng vốn chảy vào một cách thuận lợi. Trong thời gian qua bộ máy hành chính đã được cải thiện một cách đáng kể. Bên cạnh những thế mạnh do chính bản thân nước ta tạo ra được thì bối cảnh thế giới cũng tạo cơ hội cho ta thu hút vốn đầu tư được thuận lợi. Trên thế giới đang có xu hướng hội nhập, hoà bình, hợp tác cùng phát triển do đó các nước phát triển trên thế giới luôn có xu hướng đầu tư vào các nước đang phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau, đó là cơ hội cho nứơc ta vì vậy phải giảm bớt thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiên thụân lợi cho dòng vốn chảy vào. Trên thế giới với trình độ khoa học công nghệ đang ngày càng phát triển một cách nhanh chóng với tư cách là nước đi sau ta luôn nhận được sự trợ giúp tư các nguồn đầu tư, các nguồn đàu tư mang tính chất chuyển giao công nghệ ngày càng nhiều đã tạo cho nước ta một cơ hội được tiếp xúc với những thành tựu của thế giới. Việc hội nhập kinh tế ngoài mang lại những cơ hội mà nó còn mang lại những thách thức lớn. Khi ta nhận vốn đầu tư từ nước ngoài thì không chỉ nhận vốn mà ta còn tiếp nhận một nền văn hoá mới hay những rành buộc nhất định, điều đó sẽ tạo ra những mâu thuân trong xã hội, những mâu thuẫn đó rất phức tạp nó có thể làm nền văn hoá chính trị bị ảnh hưởng. Sức ép toàn cầu hoá, sự cạnh tranh nhau về các điều kịên thu hút vốn đầu tư cũng là một thách thức lớn đối với nứơc ta. Việc nhận vốn đầu tư một cách ồ ạt không có kế hoạch cũng là một thách thức lớn cho các nhà quản lý, môi trường không được quan tâm là cơ hội cho các mầm bệnh cũng như các tệ nạn xã hội phát triển. Là một nước đang phát triển nền kinh tế chủ yếu là làm nông nghiệp nên khi tiếp nhận một lượng vốn đầu tư lớn nước ta sẽ lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Ngay cả khi nhận được chuyển giao công nghệ nhưng do chưa đủ trình độ áp dụng. Viêc cải cách hành chính tiến hành diễn ra còn chậm đã gây khó khăn cho việc tiếp nhận vốn đầu tư từ nước ngoài vào. Chương II .Các giải pháp thực hiện kế hoạch thu hút vốn FDI của Việt Nam giai đoạn 2006-2010 I. Kế hoạch thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2006-2010 Trong giai đoạn 2006-2010 Việt nam sẽ tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, khắc phục các mặt hạn chế nhằm thu hút được khoảng 25 tỷ USD vốn FDI thực hiện (VĐK khoảng 30-35 tỷ USD). Đầu tư nước ngoài sẽ được ưu tiên, khuyến khích vào những ngành nghề, llĩnh vực có tác dụng thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế như sản xuất sản phẩm công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin; sản xuất vạt liệu mới; năng lượng mới; công nghệ chế tạo, nuôi trồng, chế biến nông sản, lâm sản, thuỷ sản; xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng; phát triển các ngành dịch vụ, nhất là giáo dục, đào tạo, y tế. Riêng năm 2006, năm đầu tiên thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, cần tăng mạnh thu hút FDI để tạo ra sự chuyển biến về mọi mặt kinh tế, xã hội, môi trường, chủ động thực hiện từng bứoc lộ trình hội nhập có hiệu quả và đạt tốc độ tăng trưởng GDP là 8%, thì FDI cần đạt 6.5tỷ USD vốn cấp mới và 3.5 tỷ USD vốn thực hiện(vth). Trong đó vốn của các dự án mới khoảng 4.2 tỷ USD và vốn tăng thêm khoảng 2.3 tỷ USD. Trong 3.5 tỷ vốn thực hiện thì vốn từ bên ngoài là khoảng 3.3 tỷ USD. Tăng cường công tác quản lý dự án FDI sau khi được cấp giấy phép, đối thoại thường xuyên với các cộng đồng doanh nghiệp nhằm nhanh chóng tháo gỡ vướng mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài. Mở rộng các kênh đầu tư mới gắn mở cửa thị trường phù hợp với các cam kết quốc tế. Thành lập quỹ xúc tiến đầu tư, đổi mới và tăng cường công tác xúc tiến đầu tư. Xây dựng các đầu mối xúc tiến đầu tư tại các khu vực trọng điểm. Bảng kế hoạch thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 2006-2010 chỉ tiêu đơn vị tính thực hiện năm05 2006 2007 2008 2009 2010 Tổng tổng vdtxh nghìn tỷ đồng 377 355.7 391.2 435.8 484.3 537.3 2204.3 FDI nghìn tỷ đồng 57.6 54.3 59.7 73.3 88.2 102.2 377.7 %so với tổng vdtxh % 15.3 15.3 15.3 16.8 18.2 19 17.1 Từ bảng trên ta thấy kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2005 là 57.6 tỷ đồng đạt 15.3% so với tổng vốn đầu tư xã hội. Mục tiêu năm 2006 sẽ thu hút đữợc 355.7 tỷ đồng trong đó vốn FDI chiếm 54.3 tỷ đồng chiếm 15.3%. Năm 2007 sẽ thu hút được 391.2 tỷ đồng, FDI đạt 59.7 tỷ đồng chiếm 15.3%. Trong hai năm đầu của giai đoạn này ta thấy tổng vốn đầu tư xã hội và vốn FDI tăng nhưng tỷ lệ %của FDI trong tổng vốn đầu tư xã hội là không thay đổi cho thấy chính phủ đã nhận thấy mức độ cạnh chanh về thu hút vốn đầu tư trên thế giới đang diễn ra rất quyêt liệt. Đến ba năm tiếp theo của giai đoạn này ta thấy có sự thay đổi rõ rệt về mặt chiến lược trong việc đặt ra mục tiêu thu hút vốn FDI. Điều này cho thấy chính phủ đã có kế hoạch khai thác những lợi thế và tận dụng những cơ hội có thể đạt được. II. Kết quả thực hiện kế hoạch vốn đầu tư hai năm 2006, 2007 và nhiệm vụ cho các năm còn lại. Kết quả thực hiện kế hoạch thu hút vốn FDI trong năm 2006 Năm 2006 đã khép lại với nhiều thành công lớn trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Vượt xa kế hoạch và cả con số dự báo, nguồn vốn FDI vào Việt Nam đã đạt con số kỷ lục 10.2 tỷ USD. Con số thu hút FDI này, bao gồm cả dự án cấp mới và tăng vốn, đã tăng 45.1% so với cùng kỳ năm trước và vượt 31.7%kế hoạch ban đầu đề ra cho cả năm là 6.5 tỷ USD. Đây là mức cao nhất kể từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam từ năm 1987 đến nay. Năm 2006, cả nước đã có 797 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 7.6 tỷ USD, tăng 60.8% về vốn đầu tư đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Quy mô vốn đầu tư trung bình cho một dự án đạt 9.4 triệu USD/dự án, cao hơn quy mô bình quân của năm 2005(4.6 triệu USD/dự án). Đó là nét mới của thu hút FDI năm nay. Đã xuất hiện hàng loạt các dự án có quy mô lớn do các tập đoàn xuyên quốc gia đầu tư, trong đó Công ty thép Posco là dự án có vốn đầu tư lớn nhất 1.126 tỷ USD, tiếp theo là công ty TNHH Intel Products Việt Nam vốn đầu tư trên 1tỷ USD, công ty TNHH thép Tycoon Steel VN 556 triệu USD… Điều này cho thấy, nhiều nhà đầu tư lớn đã và đang đặc biệt quan tâm đến Việt Nam. Trong năm 2006 có 439 lượt dự án tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất với tổng vốn tăng hơn 2.1 tỷ USD, tăng 18.9% về vốn so với cùng kỳ năm trước. Tuy số lượt dự án thấp hơn so với năm 2005, nhưng số vốn tăng thêm nhiều hơn, chứng tỏ số dự án tăng vốn lớn cao hơn so với năm 2005. Một số công ty tăng vốn nhiều như: Công ty Intel Produce VNtừ 605triệu USD, tăng thêm 395 triệu USD; Công ty Bạch Mã tăng 10 triệu USD; Công ty giầy Linh Luh tăng 98 triệu USD… Một số tập đoàn kinh tế lớn đã chuyển dự án từ Trung Quốc sang Việt Nam. Năm 2006, vốn FDI thực hiện đạt khoảng 4.1 tỷ USD, tăng 24.2%so với năm2005, trong đó có nhiều dự án có quy mô đầu tư lớn được cấp phép đã tích cực triển khai thực hiện như các nhà máy của Công ty Hoya Glass Disle, canon, Matsushita, Brothers Industríe, honda;… Hoạt động sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế đầu tư nước ngoài tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao. Doanh thu trong năm 2006 ước đạt 29.4 tỷ USD, tăng 31.3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, doanh thu xuất khẩu (trừ dầu thô) ước đạt 14.6 tỷ USD, tăng 31.2% so với cùng kỳ, nếu tính cả dầu thô thì giá trị xuất khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 2006 đạt 22.6 tỷ USD, chiếm trên 57%giá trị xuất khẩu của cả nước. Năm 2006, sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19.5%, cao hơn mức tăng trưởng chung của công nghiệp cả nước. Đáng chú ý là số lượng các tỉnh có số vốn FDI đạt trên 100 triệu USD đã tăng lên gấp đôi so với năm 2005. tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã thu hút được 27 dự án đầu tư nước ngoài với số vốn gần 2.2 tỷ USD, nhiều nhất từ trước đến nay và vươn lên dẫn đầu cả nước về thu hút FDI… Nếu xét theo đối tác, trong số 40 nước và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, Hàn Quốc dẫn đầu trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, chiếm 31.9 tổng vốn cấp mới; tiếp theo là Hồng Kông chiếm 15.09% tổng vốn cấp mới; Nhật Bản đứng thứ 3 chiếm 10.3%; Hoa Kỳ đứng thứ 4 chiếm 9.5%. Nếu tính cả một số dự án của Hoa Kỳ đầu tư thông qua nước thứ ba thì Hoa Kỳ đứng thứ hai. Sự gia tăng các dự án của những tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, nhất là Hoa Kỳ và Nhật Bản. Chỉ trong 1 ngày, tháng 11 năm 2006 Việt Nam đã thu hút 2 tỷ USD vốn đầu tư và kinh doanh của các doanh nghiệp nước ngoài, đạt mức kỷ lục so với các năm trước. Ngoài ra còn có xu hướng gia tăng vốn FDI trên lĩnh vực công nghệ thông tin. trước đây, vốn FDI thường giới hạn trong lĩnh vực nông nghiệp và dệt may, nhưng những đầu tư gần đây đã nhằm vào công nghệ cao như ngành viễn thôngvà con chíp máy vi tính. 2. Kết quả thu hút vốn đầu tư trong 9 tháng đầu năm 2007 Nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển, ta đã vượt qua những khó khăn rất lớn, từ cúm gia cầm, hạn hán, giá xăng dầu, tai nạn giao thông, đến sự cố cầu cần thơ, bão lũ… thế nhưng, tốc độ tăng trưởng kinh tế 9 tháng qua vẫn đạt 8.16%, được coi là mức khá cao; trong khi 9 tháng đầu năm ngoái, chỉ có thể ở mức tăng 7.84%. Theo các chuyên gia kinh tế thì điều tăng lên; thị trường trong nước tiếp tục mở rộng, tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tăng22.8%; giá trị gia tăng của ngành dịch vụ tăng cao hơn nhiều và hơn cả mức tăng GDP năm nay. Sản xuất công nghiệp tăng 17.1%, cao hơn so với kế hoạch, với sự đóng góp của các thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân. Đó là mức tăng trưởng khá, về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái tăng 18.7%. Một số sản phẩm quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn duy trì tốc độ tăng cao, nhiều điạ phương tăng hơn mức tăng bình quân toàn ngành. Xuất khẩu đạt tốc độ tăng trưởng khá, kim ngạch 9 tháng qua ước tính khoảng 35.231 triệu USD, tăng 19.4%so với cùng kỳ năm ngoái. Các mặt hàng chủ yếu có mức tăng là cà phê 85.9% sản phẩm nhựa 50.9%, hàng dệt may 31.6% dây điện và dây cáp điện 27.3%... Hàng hoá nước ta vào các thị trường lớn tiếp tục tăng cao, vào EU tăng 28.5%, vào Mỹ tăng 25% Nguồn vốn đầu tư phát triển từ các nguồn đều tăng, của doanh nghiệp nhà nước là 44.4 nghìn tỷ đồng, bằng 72%kế hoạch năm; số liệu tương ứng vốn đầu tư của dân cư và tư nhân là 118.3 tỷ đồng và bằng 78.5%kế hoạch; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp phép mới và tăng thêm là 9.607 triệu USD, tăng 38% so với cùng kỳ năm ngoái, thực hiện đạt gần 3.400 triệu USD, tăng 19.6% so với cùng kỳ. Nhiều hoạt động xã hội có tiến bộ. Đáng chú ý là có1.18 triệu lượt người được giải quyết việc làm, gần bằng 74% kế hoạch cả năm. Quyết định của Thủ tướng Chính Phủ về việc thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước, quy định rõ rành hơn quyền lợi người lao động, doanh nghiệp cùng trách nhiệm bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động. Nhiệm vụ của ba tháng cuối năm 2007 là hết sức nặng nề, nhất là trong điều kiện nhiều yếu tố không thuận lợi có khả năng tác động đến nền kinh tế như thiên tai, giá xăng dầu và năng lượng khác tăng cao, ảnh hưởng lan truyền đến chi phí đầu vào của sản xuất, các cấp, các ngành, các địa phương sẽ tập trung vào những công việc chủ yếu, mang tính đột phá. Đó là tìm mọi biện pháp thúc đẩy sản xuất – kinh doanh đi đôi với giảm chi phí để nâng cao giá trị tăng thêm. Các doanh nghiệp cải tiến công nghệ, tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu đặc biệt là điện và xăng dầu. Tiết kiệm líc này không chỉ là khẩu hiệu hành động mà còn là sự sống còn của từng doanh nghiệp. Những khó khắn, vướng mắc nhất là về đất đai, yếu tố bảo đảm sản xuất- kinh thông suốt cần được các cơ quan chức năng tháo gỡ kịp thời. Trong nông nghiệp cần thực hiện triệt để các biện pháp phòng, chống tthiên tai. Không để dịch cúm gia cầm, lở mồm nong móng ở gia súc bùng phát trở lại. Huy động đến mức cao nhất các nguồn lực phục vụ đầu tư phát triển là yêu cầu đối với tất cả các ngành, cơ sở của trung ương và địa phương. cần điều chỉnh những điểm chưa hớp lý trong cácvăn bản hướng dẫn thi hành Luật đầu tư, luật đấu thầu , luật xây dựng cơ bản…để có thể tháo gỡ những vướng mắc về thủ tục khởi công dự án mới. Đẩy mạnh nhanh tiến độ các công trình quy mô lớn, nhất là đối với giao thông vận tải, thuỷ lợi. Tập trung lực lượng, bố trí đủ vốn, lực lượng, bố trí đủ vốn, lực lượng cho công trình chậm tiến độ vượt lên. Thực hiện nghiêm việc giám sát thi công bảo đảm an toàn lao động và chất lượng công trình. Bảo đảm mức tăng giá thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Cần thực hiện nghiêm các biện pháp kiềm chế tăng giá , bình ổn thị trường. các cấp, các ngành kịp thời dự báo diễn biến cùng các tác động của thị trường, gia cả, nhất là đối với giá xăng dầu, giá điện, vật tư , lương thực, thực phẩm. Tăng cường quản lý thị trường, chống buôn bán lậu, đầu cơ, tăng giá, đặc biệt là đối với những hàng hoá thiết yếu của sản xuất và đời sống. Ổn định thị trường tiền tệ, không để xảy ra đột biến. Những vấn đề xã hội cũng cần được quan tâm giải quyết, nhất là kiềm chế sự gia tăng, tiến tới giảm dần tai nạn giao thông. Khó khăn nhiều, nhưng chắc chắn với quyết tâm của chính phủ và các cấp, các ngành, các địa phương, chúng ta sẽ đạt kế hoạch đề ra để năm 2007 là năm vượt lên những nỗi đau của rủi ro, thiên tai, tiếp tục giữ vững đà phát triển. III. Các giải pháp thu hút vốn FDI 1.Về mặt luật, chính sách. - Coi trọng việc giữ vững sự ổn định, không làm ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI khi áp dụng các luật mới. - Chuẩn bị các điều kiện để triển khai tốt thực hiện tốt luật doanh nghiệp và luật đầu tư chung. Ban hành các nghị định và mọi thông tư hướng dẫn hai luật trên; tuyên truyền, tập huấn và phổ biến nội dung của hai luật nói trên và các văn bản có liên quan. Kịp thời hướng dẫn cụ thể về việc chuyển đổi thủ tục hành chính. - Ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, nhất là kinh tế nhân dân và nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào phát triển hạ tầng, kinh doanh bất độn sản đáp ứng nhu cầu và thực tế của hội nhập kinh tế quốc tế. - Đa dạng hoá hình thức đầu tư để khai thác thêm các kênh đầu tư mới như thành lập công ty hợp danh, mua bán và sát nhập, công ty quản lý vốn để điều hành chung các dự án. Tổng kết việc thực hiện thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp FDI để nhân rộng. - Chấn chỉnh ngay việc ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư của các địa phưong như: + Rà soát, sửa đổi bỏ ngay các quy định về ưư đãi đầu tư vượt thẩm quyền, vượt khung quy định trong luật và các quy định chính phủ để bảo đảm tính thống nhất về ưu đãi đầu tư. + Quy định rõ quy trình lấy y kiến Bộ ngành có liên quan trong quá trình xây dựng, ban hành chính sách về ưu đãi đầu tư. + Quy định rõ những nội dung mà các địa phương được ban hành các chính sách ưu đãi và phân cấp cho địa phương những vấn đề được quy định trong khung khổ của luật pháp hiện hành. +Rà soát các cam kếtquốc tế, bổ sung cơ chế, chính sách xử lý vấn đề pháp lý liên quan đến việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập 2. Về thủ tục hành chính Giảm thiểu các thủ tục hành chính theo hướng: -Thu hẹp diện các dự án thẩm định giấy phép đầu tư. - Loại bỏ các tiêu chí thẩm định không cần thiết đối với dự án FDI. - Mở rộng diện các dự án đăng ký chứng nhận đầu tư. - Minh bạch hoá thủ tục cấp đất và sử dụng đất. - Hoàn chỉnh các biện pháp và quy trình thủ tục giao quyền sử dụng đất liên quan đến dự án FDI, tiến tới giảm bớt các đầu mối trung gian không cần thiết để rút ngắn khoảng thời gian chờ đợi kéo dài cho các chủ đầu tư. - Cải tiến quy trình và cơ chế phối hợp giữa chính quyền các cấp trong việc triển khai các thủ tục cho thuê. - Nghiên cứu tiếp việc phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài cho phù hợp với quy định của luật đầu tư mới nhằm nâng cao hiệu qua trong quản lý FDI. 3. Về quản lý nhà nứoc đối với hoạt động FDI Phân công lại các chức năng nhiệm vụ, quyền hạn giưa các cấp từ Trung ương đến địa phương trong quả lý nhà nước đối với FDI theo hứong giảm dần sự thiệp của cơ quan quản lý TƯ vào xử lý các vấn đề cụ thẻ. Công tác quản lý nhà nứơc nên tập trung vào việc hướng dẫn, kiểm tra giám sát việc thực hịện chính sách pháp luật của các địa phương nhằmphát hiệ và xử lý các trường hợp ban hành chính sách ưu đãi vượt khung và thực hiện không đúng chức năng thẩm quyền trong quản lý nhà núớc đối với hoạt động FDIở địa phương. Tiến hành đều đặn chương trình giao ban vùng; duy trì và nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư để giải quyết kịp thời các khó khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư. Thực hiện tốt và có hiệu quả cơ chế một cửa; giải quyết kịp thời các vướng mắc phát sinh giúp cho các doanh nghiệp triển khai dự án được thuận lợi; khuyến khích họ đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất để đạt hiệu quả cao cả về kinh tế và xã hội Tiếp tục đẩy mạnh việc ứng công nghệ tin học vào quản lý và điều hành hoạt động FDI từ TƯ đến địa phươngnhằm nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI. 4. Về kết cấu hạ tầng Khắc phục các trở ngại về kết cấu hạ tầng trong nước, nhất là về cung cấp điện nước, viễn thông, dịch vụ vận tải. Thay đổi bộ máy và cơ chế quản lý nguồn vốn ODA nhằm hạn chế thất thoátvà nâng cao hiệu quẳ dụng vốnODA Khuyến khích tư nhân đầu tư xấy dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng. 5. Vể đổi mới hoạt động xúc tiến đầu tư Thiết lập chiến lược tiến FDI để phục vụ cho chiến lược thu hút FDI Xây dựng chương trình và kế hoạch xúc tiến đầu tư cụ thể và công bố trước cho các địa phương trong cả nước biết và chủ động đăng ký kế hoạch tham gia chương trình khai thác các nhà đầu tư tiềm năngmột cách có hiệu quả. Cần xây dựng một chương trình xúc tiến đầu tư Tổ chức nhiều hơn các cuộc hội thảo giới thiệu về môi trường đầu tư chungcủa từng địa bàn cụ thể, hoạc hội thảo chuyên ngành có sự tham gia của các cơ quan chuyên ngành để giới thiệu các cơ hội đầu tư tại địa bàn có thế mạnh. Đưa nội dung giới thiệu môi trường đầu tư của Việt Nam vào vào các chương trình đi thăm viếng, hoặc trong các cuộc hội thảo, triển lãm tại nước ngoài nhằm xây dựng hình ảnh tốt về sự quan tâm của chính phủ Việt Nam đối với FDI IV. Kết luận MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0199.doc
Tài liệu liên quan