Vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kì phát triển kinh tế hiện nay

Vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kì phát triển kinh tế hiện nayA. Đặt vấn đề B. Giải quyết vấn đề . Chương I. Quan niệm về bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ nền kinh tế mở . I / Bản sắc văn hoá dân tộc là gì ? II/ Bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ nền kinh tế mở . Chương II: Tại sao phải đưa ra vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ nền kinh tế mở . I/ Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến , đậm đà bản sắc dân tộc . II/ Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc . Chương III : Bản sắc dân tộc trong quá trình phát triển của đất nước. I/ Vai trò của bản sắc văn hoá dân tộc trong nền kinh tế thị trường II/ Phát huy nội lực văn hóa trong quá trình phát triển . III/ Toàn cầu hoá và bản sắc văn hoá dân tộc . Chương IV : Một số giải pháp nhằm phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ phát triển . I/ Một số giải pháp trước mắt để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến , đậm đà bản sắc dân tộc . II/ Biện pháp khắc phục những mặt tiêu cực trong đời sống văn hoá xã hội của đất nước . C. Kết thúc vấn đề

doc24 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2815 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kì phát triển kinh tế hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh thần của dân tộc ta , coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội . Đảng và Nhà nước ta đang tiến tới xây dựng một nền kinh tế mở ,hội nhập với Thế giới . Chúng ta đang sống trong một thế giới hiện đại biến chuyển nhanh chóng , đang diễn ra quá trình toàn cầu hoá , sự hội nhập khu vực và thế giới với một tốc độ rất nhanh , từ đó nảy sinh nhu cầu mở rộng giao lưu giữa các nền văn hoá . Trong khi chú trọng giữ gìn , phát huy các truyền thống văn hoá tinh thần tốt đẹp của dân tộc , văn hóa Việt Nam cần từng bước mở rộng giao lưu quốc tế , tiếp thụ những tinh hoa văn hoá thế giới và thời đại . Nền văn của chúng ta sẽ đa dạng hơn , phong phú hơn , tiên tiến hơn nhờ hấp thụ được những yếu tố lành mạnh của văn hoá thế giới . Trong nền kinh tế mở như nước ta hiện nay luôn luôn có sự trao đổi giao lưu với thế giới trên mọi lĩnh vực , trong đó có lĩnh vực văn hoá . Chúng ta không thể tránh khỏi việc du nhập những phong tục tập quán của các nước , các dân tộc trên thế giới . Tuy nhiên , không vì thế mà chúng ta quên đi truyền thống của đân tộc mình , cái gốc của mình . Việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc trong thời kỳ nền kinh tế mở là hết sức cần thiết . ĐIều đó giúp chúng ta hoà nhập chứ không hoà tan , không bị mất đi cái gốc của mình. Chúng ta một mặt tiếp thu những nét tinh hoa trong văn hoá của các nước , một mặt giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc để làm cho đời sống tinh thần của chúng ta ngày càng phong phú hơn. * Tính tất yếu của việc nghiên cứu đề tài : Đất nước ta đang trong thời kỳ tiến lên xây dựng nền kinh tế mở , hội nhập với quốc tế . Tuy nhiên , việc hội nhập cũng có những mặt tích cực và tiêu cực .Nếu chúng ta tiếp thu một cách không có chọn lọc , không có tính toán , chúng ta dễ bị tiếp thu những cái không tốt , ảnh hưởng đến đời sống văn hoá của nước ta . Mặt khác , chúng ta còn lo ngại bị đánh mất truyền thống dân tộc , chạy theo các nước trên thế giới , bị ảnh hưởng hoàn toàn bởi nền văn hoá của các nước khác. Chính vì thế , việc đặt ra những định hướng trong việc hội nhập , tiếp thu những tinh hoa trong văn hoá của các nước một cách có chọn lọc là điều hết sức cần thiết . Trong đó , bản sắc dân tộc giữ một vai trò không nhỏ trong việc hội nhập với thế giới . Mỗi một quốc gia đều có những truyền thống , những bản sắc riêng của mình . Chúng ta cần giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc , một mặt để đem những tinh hoa của mình để giao lưu với các nước , một mặt giúp chúng ta “ hoà nhập chứ không hoà tan” . Mỗi quốc gia đều có những bản sắc riêng của mình . Điều đó giúp chúng ta phân biệt rõ mỗi một quốc gia . Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc là một việc tất yếu trong nền kinh tế mở hiện nay . Chúng ta có bản sắc dân tộc thì mới có thể hội nhập , giao lưu với thế giới , mới có cái để giao lưu .Nếu không giữ gìn được bản sắc dân tộc , chúng ta sẽ lấy gì để hội nhập với thế giới , khi đó chúng ta sẽ bị nền văn hoá các nước khác chi phối , không còn bản sắc riêng của mình . Với những lý do trên , chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc . Cũng vì thế mà việc nghiên cứu đề tài “Bản sắc dân tộc trong nền kinh tế mở” là điều tất yếu và cần thiết trong giai đoạn hiện nay . B. Giải quyết vấn đề . Chương I. Quan niệm về bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ nền kinh tế mở . I / Bản sắc văn hoá dân tộc là gì ? 1 . Khái niệm : Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững , những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng năm đấu tranh dựng nước và giữ nước . Đó là lòng yêu nước nồng nàn , ý chí tự cường dân tộc , tinh thần đoàn kết cá nhân - gia đình -làng xã - Tổ quốc ; lòng nhân ái , khoan dung , trọng nghĩa tình, đạo lý , đức tính cần cù , sáng tạo trong lao động ; sự tinh tế trong ứng xử , tính giản dị trong lối sống ... Bản sắc văn hoá dân tộc còn đậm đà trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo . 2 . Vị trí của bản sắc văn hóa dân tộc : Bản sắc văn hoá dân tộc giữ vị trí rất quan trọng : a/. Chính bản sắc văn hoá dân tộc đảm bảo cho dân tộc tồn tại , đứng vững và phát triển qua các biến động của lịch sử . b/. Nhờ bản sắc văn hoá dân tộc , chúng ta biểu lộ được trọn vẹn sự hiện diện của một bản sắc trong giao lưu với quốc tế . Mục tiêu của giao lưu là thông qua giao lưu với nền văn hoá mới , ta hội nhập với văn hoá thế giới . Chỉ giữ được bản sắc văn hoá dân tộc thì ta mới có điều kiện giao lưu bình đẳng với các nền văn hoá thế giới . Còn sao chép , trở thành “ cái bóng” , “ cái đuôi” của người ta thì không còn có gì mà hội nhập bình đẳng . Trước yêu cầu của thời kỳ phát triển mới , trước nguy cơ “ đồng nhât” về văn hoá thực chất là sự thống trị của văn hoá nước lớn , nước giàu thì bản sắc văn hoá dân tộc có ý nghĩa cực kỳ lớn . 3. Bản sắc dân tộc - hệ giá trị . Văn hoá , theo UNESCO , là tổng thể những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của một xã hội thể hiện trên mặt vật chất và tinh thần , tri thức và tình cảm . Văn hoá mang bản sắc dân tộc . Bản sắc dân tộc biểu hiện ở một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển của nó , giúp cho dân tộc đó giữ được tính duy nhất ( tính độc đáo ) , tính thống nhất , tính nhất quán so với bản thân mình . Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống - ý thức thuộc về một dân tộc ( cội nguồn ) , cách tư duy , cách sống , cách dựng nước , giữ nước , cách sáng tạo văn hoá , khoa học , văn nghệ . Bản sắc dân tộc thể hiện trong giá trị của dân tộc , nó là cốt lõi của một văn hoá . Hệ giá trị là những gì nhân dân quan tâm , tin tưởng thuộc phạm vi tốt và xấu , mong muốn hoặc không đáng tin tưởng thuộc phạm vi tốt và xấu , mong muốn hoặc không đáng mong muốn . Nó là những giá trị và những niềm tin , mà nhân dân cho là thiêng liêng , bất khả xâm phạm . Hệ giá trị biểu hiện trong tư tưởng triết học ( thế giới quan ) chính trị , văn học , nghệ thuật , đạo đức , lối sống ( phong tục , tập quán ) . Hệ giá trị chuyển thành các chuẩn mực xã hội , nó định hướng cho sự lựa chọn trong hành động của con người , cá nhân và cộng đồng . Hệ giá trị có tính ổn định rất lớn và có tính bền vững tương đối , có sức mạnh to lớn đối với cộng đồng . Trong sự tiến bộ và phát triển của xã hội , các giá trị này thường không biến mất mà hoá thân vào các giá trị của thời sau , theo quy luật kế thừa và tái tạo. Di sản văn hoá là các giá trị văn hóa do lịch sử để lại . Các giá trị này sẽ trở thành truyền thống khi được thế hệ sau lựa chọn , tiếp nhận , mô phỏng , làm sống lại . Đó là quan hệ giữa truyền thống và hiện đại . Sự thích nghi của các giá trị cũ đối với sự thay đổi của thời đại , là biểu hiện của tính liên tục văn hoá . II/ Bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ nền kinh tế mở . 1 . Chủ trương của Đảng về vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong nền kinh tế mở . Nói dân tộc và bản sắc văn hoá dân tộc không thể tách khỏi quan hệ với thế giới . Chúng ta đang chứng kiến xu thế toàn cầu hoá đời sống loài người . Đó là xu thế khách quan , tất yếu mang tính thời đại , trước hết trong lĩnh vực kinh tế . Xu thế toàn cầu hoá tạo điều kiện cho các quốc gia , dân tộc xích lại gần nhau , hiểu biết nhau , bổ sung cho nhau , làm phong phú và hỗ trợ lẫn nhau . Đất nước ta nhất định nắm lấy xu thế này coi như là một thời cơ lớn , ra sức tận dụng mọi điều kiện có lợi do xu thế ấy tạo ra , đặc biệt để tranh thủ những khả năng vật chất , kỹ thuật , công nghệ , những kinh nghiệm và tri thức hiện đại rất cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá . Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay , không một quốc gia nào có thể đứng biệt lập mà có thể tồn tại và phát triển . Mặt khác , phải thấy toàn cầu hoá là một quá trình đầy mâu thuẫn phức tạp . Mặt tất yếu kỹ thuật - kinh tế là mặt tích cực , có lợi , ta phải tận dụng . Song , mặt khác không thể bỏ qua là mặt xã hội - kinh tế , mặt bản chất giai cấp của quá trình toàn cầu hóa . Xét về mặt này , trên thế giới hiện nay đang có những lực lượng nuôi tham vọng lớn toàn cầu hoá chủ nghĩa tư bản , họ muốn áp đặt hệ giá trị của riêng họ lên cả toàn cầu . Quên điều đó là ngây thơ về chính trị và trong thực tiễn không tránh khỏi phải trả giá đắt . Trong những điều kiện nêu trên về xu thế toàn cầu hoá hiện nay , chúng ta càng thấy đường lối mở rộng quan hệ quốc tế trên cơ sở độc lập tự chủ của Đảng ta nói chung và nói riêng trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc là hết sức đúng đắn và sáng suốt . Nghị quyết Hội Nghị Trung ương 5 chỉ rõ : “ phương hướng chung , đồng thời là nhiệm vụ bao quát của sự nghiệp văn hóa nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc , ý thức độc lập tự chủ , tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa , xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc , tiếp thụ những tinh hoa văn hoá nhân loại , làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội , vào từng người , từng gia đình , từng tập thể và cộng đồng , từng địa bàn dân cư , vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người , tạo nên trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp , trình độ dân trí cao , khoa học phát triển phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng văn minh , tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội . Nghị quyết Trung ương 5 “ Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến , đậm đà bản sắc dân tộc” vừa đáp ứng đúng những đòi hỏi bức xúc của cuộc sống vừa là định hướng chiến lược cơ bản cho sự nghiệp xây dựng , củng cố và không ngừng tăng cường nền tảng tinh thần xã hội ta trên con đường phấn đấu vì dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng , văn minh , tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội . 2 . Quan điểm về bản sắc văn hoá dân tộc Bản sắc văn hoá dân tộc luôn có sự biến động , bổ sung qua các thời kỳ lịch sử . Có giá trị được hình thành từ xa xưa và luôn luôn bền vững . Có giá trị đúng lúc trước , nhưng nay không thích hợp . Lại có giá trị mới nhưng phù hợp với nguyện vọng dân tộc thì nhanh chóng có sức sống bền vững . Chẳng hạn , có những giá trị mới từ 1976 , cũng là mới hơn 30 năm nay , với lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh , giá trị “ Không có gì quý hơn độc lập , tự do” đã nghiễm nhiên trở thành giá trị văn hoá rất quan trọng của dân tộc ta . Bản sắc dân tộc nằm trong các lĩnh vực như kiến trúc , hội hoạ , văn chương , âm nhạc ... nhưng đó là những vấn đề phức tạp , cần để các nhà chuyên môn nghiên cứu , thảo luận . Song đạo lý dân tộc là loại văn hoá vô hình , nhưng là tinh tuý của bản sắc dân tộc , được vun đắp qua lịch sử lâu đời của dân tộc được xác định là : Lòng yêu nước nồng nàn ; ý thức tự lập tự cường , tinh thần đoàn kết , ý thức cộng đồng , gắn cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc ; Lòng nhân ái , tính khoan dung , trọng tình nghĩa , đạo lý ; Đức tính cần cù , sáng tạo trong lao động ; Sự tinh tế trong cư sử , giản dị trong lối sống ... Cũng có ý kiến cho rằng , nhiều dân tộc trên thế giới cũng có những giá trị tương tự như trên , vì sao ta lại coi đó là bản sắc của dân tộc mình ? Chúng ta cho rằng , vấn đề quan trọng là những giá trị đó có đích thực là truyền thống của chúng ta không ? Chứ không phải là ta đi tìm những gì chỉ có ta có mà dân tộc khác không có . Quan trọng là ta xác định những chuẩn giá trị bản sắc dân tộc Việt Nam . Bản sắc dân tộc được thể hiện cả trong nội dung và hình thức . Khi nói tới bản sắc dân tộc luôn luôn gắn bó với nhau như trên đã trình bày . Khi nói tới bản sắc văn hoá dân tộc cần tránh những khuynh hướng không đúng . Đó là : “ đóng cửa , thu mình” , chỉ “ khư khư” giữ bản sắc truyền thống , không sáng tạo mới , không mở cửa giao lưu , tiếp thụ những tinh hoa văn hoá thế giới trở thành dân tộc hẹp hòi , cực đoan , kiêu ngạo . Hoặc là “ mở toang cửa” không chọn lọc , bản sắc dân tộc bị chèn ép , lu mờ , trở thành nền văn hoá thiếu bản sắc . Hoặc phục hồi tất cả kể cả những cáI lạc hậu , lỗi thời trong quá khứ , không còn thích hợp trong xã hội mới ... Chương II: Tại sao phải đưa ra vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ nền kinh tế mở . I/ Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến , đậm đà bản sắc dân tộc . Điều kiện xã hội : Thực trạng đời sống văn hoá nước ta hiện nay không phải là vấn đề dễ đánh giá . Có người quá bi quan với tình hình cho là trong khi đời sống kinh tế có khá lên từ đổi mới đến nay thì đời sống tinh thần lại sa sút như chưa bao giờ có . Ngược lại , có người quá lạc quan cho mọi sự đều tốt đẹp , những hiện tượng tiêu cực là tự nhiên và không đáng kể . Thật ra , bức tranh không chỉ có một màu , hoặc toàn tối hoặc toàn sáng . Trước hết , cần khẳng định đời sống văn hoá xã hội ta so với thời kỳ trước có bước tiến bộ rõ rệt . Điều dễ thấy là tính năng động xã hội - kinh tế và tính tích cực công dân được khơi dậy và phát huy thay cho tâm lý thụ động , ỷ lại trong cơ chế cũ . Bầu không khí dân chủ , cởi mở trong xã hội tăng lên . Mặt bằng dân trí được nâng cao , sở trường , năng lực cá nhân con người được khuyến khích , tôn trọng . Những nét mới nổi bật ấy trong đời sống được phản ánh qua hoạt động khởi sắc , phong phú , đa dạng trên các lĩnh vực báo chí , xuất bản , phát thanh , truyền hình , giáo dục , văn học , nghệ thuật , v.v... Trong sự phong phú , đa dạng và bộn bề của đời sống và hoạt động văn hoá , chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng và phát triển sáng tạo vẫn là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam bảo đảm cho xã hội phát triển đúng hướng . Kinh tế thị trường và mở cửa với bên ngoài làm sống động nền kinh tế và các hoạt động xã hội , phát triển giao lưu hàng hoá , du lịch và các sản phẩm văn hoá , giúp nhân dân ta mở rộng chân trời hiểu biết và kến thức tiếp nhận từ bốn phương . Các mặt trái của kinh tế thị trường và mở cửa , dù tác động dữ dội , đã không thể ngăn nổi nhân dân ta duy trì và phát triển truyền thống tốt đẹp , như thấy tõ nhất vaò những dịp kỷ niệm lớn , hướng về cội nguồn , về cách mạng và kháng chiến , tưởng nhớ các anh hùng dân tộc , đền ơn đáp nghĩa những người có công , giúp đỡ những người hoạn nạn ... Đương nhiên , bức tranh không chỉ toàn màu sáng . Nghị quyết Trung ương 5 đã nghiêm khắc chỉ ra những mảng tối cùng nguyên nhân chủ quan . Đó là trạng thái dao động , hoài nghi , giảm sút niềm tin lý tưởng ở một số người , kể cả một bộ phận đảng viên , cán bộ . Đó là những hiện tượng suy thoái đạo đức , đặc biệt là nạn tham nhũng , hối lộ , buôn lậu , gian lận thương mại trước sự tấn công của thói ích lỷ , chủ nghĩa cá nhân , lối sống tiêu dùng , sức mạnh động tiền và chủ nghĩa thực dụng . Đó là một số hiện tượng nhức nhối trước đây không hề có trong quan hệ gia đình , đạo lý thầy trò , quan hệ bạn bè , sự đảo lộn một số chuẩn giá trị và nếp sống vốn tốt đẹp . Đó là trong một bộ phận dân cư , kể cả một số thanh niên , học sinh , sinh viên sự hiểu biết còn quá ít về lịch sử dân tộc , về các giá trị truyền thống mà lịch sử và cách mạng đã xây nên trong khi đó lại phục hồi không phân biệt tốt xấu các vốn cổ dân tộc đồng thời đi liền với tâm lý sùng ngoại đôi khi đến mức mù quáng , phi lý , kệch cỡm . Đó là các tệ nạn xã hội có chiều gia tăng , sự đam mệ nhu cầu vật chất cùng những dục vọng thấp hèn , lối sống bất chấp đạo lý , dư luận xã hội và pháp luật đang xô đẩy một số người đi vào con đường phạm tội . Tất cả những hiện tượng trên đang làm vẩn đục môi trường xã hội - văn hoá , gây bất bình trong nhân dân , làm xói mòn nền tảng tinh thần xã hội , tạo miếng đất màu mỡ cho sự xâm nhập những sản phẩm văn hóa độc hại ngoại lai . Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến , đậm đà bản sắc dân tộc . Trước tình hình xã hội đã phân tích ở trên , việc tập trung xâu dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến , đậm đà bản sắc dân tộc , có tầm quan trọng đặc biệt không chỉ cho hiện tại mà cả tương lai Tổ quốc ta . Nhưng nên văn hóa thế nào là “ tiên tiến” ? Thế nào là “ đậm đà bản sắc dân tộc” ? a>. Nền văn hoá tiên tiến Đọc Nghị quyết Trung ương 5 , ta có thể hiểu nền văn hoá tiên tiến có mấy đặc trưng : Một là , yêu nước . Hai là , tiến bộ . Ba là , có nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh . Bốn là , nhân văn : tất cả vì con người ... Năm là , tiên tiến không chỉ trong nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện , trong các phương tiện chuyển tải nội dung . Đất nước ta đang ở thời kỳ quá độ với nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đòi hỏi huy động tối đa tiềm năng vật chất và tinh thần của cả dân tộc , của tất cả các thành phần kinh tế . Chủ nghĩa yêu nước ở đây là một động lực cực kỳ to lớn . Nền văn hóa tiên tiến do đó trước hết phải là một nền văn hoá yêu nước . Có thể coi yêu nước là tién bộ đặc trưng bao quát nhất củavăn hoá tiên tiến .Yêu nước là ý chí đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn , lạc hậu , phấn đấu vì dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng văn minh - đó là một nội dung tư tưởng lớn của nền văn hoá tiên tiến . Gắn liền với yêu nước là tiến bộ . Nền văn hoá tiên tiến phải là nền văn hoá kết tinh tất cả những gì là tiến bộ , là chân , là thiện , là mỹ của dân tộc , của thời đại , của loài người . Nếu đặc trưng bao quát nhất của nền văn hoá tiên tiến là yêu nước, thì hạt nhân cốt lõi của nền văn hoá tiên tiến là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh . Nói văn hóa không thể không nói hệ tư tưởng . Vì hệ tư tưởng chi phối quan niệm về giá trị , chi phối đạo đức , lối sống và hành vi con người . Đành rằng hệ tư tưởng không đồng nhất với văn hoá , không thể quy toàn bộ các giá trị văn hoá vào hệ tư tưởng ; nhưng xét chung và xét cho cùng , trong xã hội có giai cấp , văn hóa bao giờ cũng có cốt tuỷ là hệ tư tưởng giai cấp . Vì vậy , thật sai lầm nếu đồng nhất hệ tư tưởng với văn hoá , bởi căn hoá có nội hàm rộng hơn nhiều so với hệ tư tưởng . Song , cũng phạm sai lầm nghiêm trọng nếu phủ nhận vai trò hệ tư tưởng đối với văn hoá , nhất là khi nói đến cả một nền văn hoá , cả một dòng văn hoá . C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ : “ Lịch sử tư tưởng chứng minh cái gì , nếu không phải là chứng minh rằng sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất vật chất ? Những tư tưởng thống trị cua tmột thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị”. Là hệ tư tưởng mang bản chất giai cấp ( công nhân ) như mọi hệ tư tưởng , nhưng khác với bất cứ hệ tư tưởng nào khác , chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết cách mạng và khoa học kết tinh những tinh hoa văn hoá nhân loại , hướng vào giải phóng toàn xã hội , giải phóng dân tộc , giải phóng con người , khắc phục triệt để tình trạng con người bị tha hoá , tạo điều kiện phát triển và không ngừng hoàn thiện con người . Chủ nghĩa cộng sản trong bản chất của nó như C. Mác nói , là “ chủ nghĩa nhân đạo hiện thực” . Nguyễn ái Quốc đi từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc và những hiểu biết sâu sắc nhiều nền văn hoá lớn Đông Tây , đến với chủ nghĩa Mác - Lênin như một bước ngoặt quyết định hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh . Sự gặp gỡ thần kỳ này đã sản sinh ta một nhân cách , hơn thế , một mẫu hình văn hoá mới , mẫu hình “ văn hoá của tương lai” như nhà thơ Xô Viết Mandenxtam với một tình cảm đặc biệt đã sớm khám phá từ năm 1923 khi tiếp xúc với Bác . Như vậy , thật là chính xác và tự nhiên khi Nghị quyết Trung ương 5 nêu lên mục tiêu nền văn hóa tiên tiến là tất cả vì con người , vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú , tự do , toàn diện con người trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng , giữa xã hội và tự nhiên . ở đâylà tính nhân văn cao cả , trong đó giai cấp , dân tộc và nhân loại , cá nhân và xã hội , xã hội và tự nhiên là thống nhất trên lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh - hệ tư tưởng thấu suốt nền văn hoá mà chúng ta xây dựng . Tính chất tiên tiến của nền văn hoá còn phảI thể hiện cả trong hình thức biểu hiện , trong những cơ sở vật chất kỹ thuật , phương tiện để chuyển tảI nội dung . Ví dụ : trong phong cách văn chương , trong công nghệ truyền hình , điẹn ảnh , trong kiểu dáng kiến trúc , trong thiết kế những công trình tượng đàI , những khu vui chơi giải trí , v.v... ở đây , tiên tiến thường có nghĩa là hiện đại , song không phải đã là hiện đại thì loại trừ bản sắc dân tộc và càng không được nhầm lẫn hiện đại với “ chủ nghĩa hiện đại” tắc tị, bệnh hoạn , nhất là trong nghệ thuật , văn thơ . b>. Nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc . Tính chất tiên tiến của nền văn hoá Việt Nam không tách rời bản sắc dân tộc.Nói đến văn hoá là nói đến dân tộc . Văn hoá bắt rễ sâu trong đời sống dân tộc qua trường kỳ lịch sử . Văn hoá là bộ mặt tinh thần của dân tộc . Bản sắc dân tộc của văn hoá , như người ta thường nói , là cái căn cước , cái chứng chỉ của một dân tộc . Nó chỉ rõ anh là ai , thiéu nó , anh không tồn tại như một giá trị . Lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước đã hun đúc cho dân tộc ta biết bao giá trị truyền thống tốt đẹp . Đó là chủ nghĩa yêu nước , lòng nhân ái bao dung , trọng nghĩa tình , đaọ lý , là tính cố kết , cộng đồng ... Nhờ sức mạnh những giá trị đó , dân tộc Việt Nam đã chiến thắng bao thử thách khắc nghiệt của thiên tai , địch hoạ để tồn tại và phát triển như ngày hôm nay . Bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc của văn hoá trước hết là bảo vệ và phát huy những giá trị tinh thần đó . Cố nhiên bản sắc dân tộc có cả nội dung và hình thức . Cùng với những giá trị tinh thần , bản sắc dân tộc của văn hoá còn được đặc trưng bởi các phương thức biểu hiện độc đáo . Đó là tiếng nói của dân tộc , là tâm lý , là phong tục tập quán , là cách cảm nghĩ của dân tộc , là những hình thức nghệ thuật truyền thống ,v.v... Nước ta có 54 dân tộc . Trong nền văn hóa đa dân tộc của nước ta , mỗi dân tộc anh em đều có bản sắc riêng của mình . Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc của tất cả các dân tộc anh em sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam , tạo nên sự phong phú đa dạng trong tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam . II/ Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc . Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là chăm lo cho sự trường tồn và phát triển sức sống của dân tộc . Song đIều này khác hẳn xu hướng phục cổ như đã xảy ra gần đây ở nhiều nơI trong ma chay , cưới xin , lễ hội . Trong bàI nói tại Hội nghị cán bộ văn hóa ngày 30-10-1958 , Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ : “ Nói khôi phục vốn cũ , thì nên khôi phục cái gì tốt , còn cái gì không tôt thì phải loại dần ra . Xem ra thì năm nay tương đối khá , còn như năm ngoái , thì khôi phục vốn cũ , thì khôi phục cả đồng bóng , rước xách thần thánh . Vì khôi phục như thế , nên ở nông thôn nhiều nơi quên cả sản xuất , cứ trống mõ bì bõm , ca hát lu bù ...” . Trong vốn cổ dân tộc , chúng ta giữ lấy và phát huy những di sản nào , từ bỏ những di sản nào , điều đó không thể không đặt ra khi nói về những giá trị truyền thống . Sự cân nhắc và lựa chọn ấy thể hiện quá trình tự ý thức dân tộc , quá trình tự nhận thức , tự khám phá về mình xuất phát xuất phát từ tầm cao mới của lịch sử , là quá trình “ gạn đục khơi trong” và là sự tiếp nối dòng chảy liên tục của lịch sử dân tộc trong thế giới hiện đại . Với ý nghĩa đó , phát huy và bảo vệ bản sắc dân tộc của văn hoá đòi hỏi sự phát triển , sự sáng tạo không ngừng . Mệnh đề “ đậm đà bản sắc dân tộc” đó không thể tách rời mệnh đề “ văn hóa tiên tiến” và ngược lại . * Trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường mở rộng giao lưu quốc tế lại càng phải nhấn mạnh yêu cầu ra sức kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc . Đó không chỉ là ý thức trách nhiệm , mà còn là niềm tự hào , tự tôn dân tộc , bởi “ Nước Đại Việt ta từ trước , Vốn xưng nền văn hiến đã lâu” . Những đặc trưng nổi bật nhất của văn hóa Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước , yêu lao động , lòng nhân ái , vị tha và tính cộng đồng . Những giá trị truyền thốngđó đã từng là nguồn sức mạnh to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước . Ngày nay , bước vào thời kỳ công nghiệp hoá , hiện đại hoá , những truyền thống ấy vẫn đang là những đòi hỏi cần phải có đối với mọi người . Không phải bất cứ dân tộc nào trên hành tinh này cũng có được may mắn kế thừa những truyền thống và bản lĩnh văn hoá như vậy . Dân tộc Việt Nam có truyền thống tự tôn nhưng không tự cao , tự đại ; càng không đóng cửa để tự ngắm tự cô lập mình . Cũng như suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc , từ khi Đảng ta ra đời , phần lớn thời gian là phải lãnh đạo nhân dân tiến hành chiến tranh chống xâm lược , bảo vệ nền độc lập dân tộc . Thế nhưng , chúng ta chưa bao giờ chủ trương một thái độ bài ngoại về văn hoá , kể cả với nền văn hóa của nước đang là kể thù xâm lược . Trái lại , Đảng ta luôn nhấn mạnh tính dân tộc đồng thời với tính khoa học và đại chúng ; tính tiên tiến gắn với yêu cầu phải đậm đà bản sắc dân tộc . Đó chính là bản lĩnh văn hoá của Việt Nam . Nhờ đó , dù trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, đứng trước âm mưu đồng hoá văn hoá của đủ loại kẻ thù , nhưng “ Bốn nghìn năm ta lại là ta” ; bản sắc văn hóa Việt Nam không biến mất , không phai nhạt , trái lại , càng ánh lên nét riêng long lanh , đặc sắc . Nó đã góp cho nền văn hoá nhân loại không chỉ là trống đồng Đông Sơn , Truyện Kiều , các làn đIệu dân ca quan họ ... mà còn là những danh nhân văn hoá mà nổi bật là Hồ Chí Minh , một con người , một sự nghiệp , một giá trị văn hoá vừa đậm đà bản sắc Việt Nam , vừa chứa chan tính nhân loại . Và cả hai phẩm chất ấy đều ở đỉnh cao . Phải với một dân tộc có ý chí tự lập , tự cường và là lòng tự tôn mãnh liệt mới sản sinh ra những áng hùng văn Nam quốc sơn hà , Bình ngô đại cáo ... Phải với một dân tộc rất tự hào với truyền thống văn hóa của mình mới có thể tuyên thệ : “ Đánh cho để dài tóc , đánh cho để đen răng ... đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ” . Nền văn hoá ấy chính là khí phách , là tôm hồn dân tộc , là tài sản vô giá của đất nước và của mỗi con người Việt Nam . Nó là nồi cơm văn hoá Thạch Sanh không bao giờ vơi , được phân chia đến từng dòng sữa mẹ , từn lời ru những đứa con vừa lọt lòng mẹ của dân tộc , là trăm nghìn câu chuyện truyền từđời này qua đời khác . Chính nó là cội nguồn sâu lắng trong mỗi con người Việt Nam dù đến lúc có dư thừa các tiện nghi vật chất, nhưng vẫn ước mong được nghe các làn đIệu dân ca , được tắm hồn mình trong nền văn hoá dân tộc . Trong nền văn hóa có chiều sâu và tầm cao như vậy , càng đi vào kinh tế thị trường , mở rộng giao lưu quốc tế , đi vào công nghiệp hoá , hiện đại hoá , chúng ta càng phải nâng niu , gìn giữ và phát huy để góp phần vào sự nghiệp vẻ vang là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội . Chủ trương giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc không hề đồng nghĩa với bảo thủ , tự cô lập , đóng kín , khư khư bám giữ lấy cái cũ . Bản sắc văn hoá không phải là những giá trị tạm thời , nay còn mai mất ; song nó cũng không là cái không bao giờ thay đổi được và khôn gcần sửa đổi . Trái lại , bản sắc văn hóa dân tộc cũng không ngừng phát triển , đổi mới , phản ánh sự phát triển và đổi mới của dân tộc . Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy : “ Cái gì cũ mà xấu , thì phảI bỏ ... Cái gì cũ mà không xấu , nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý ... Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm” . * Chương III : Bản sắc dân tộc trong quá trình phát triển của đất nước. I/ Vai trò của bản sắc văn hoá dân tộc trong nền kinh tế thị trường Ngày nay , phát triển đang là vấn đề ưu tiên hàng đầu của mọi quốc gia , đồng thời cũng là thách thức hết sức gay gắt dối với toàn nhân loại . Cần phải huy động những nguồn lực nào để phát triển và phải làm gì để ngăn ngừa những tiêu cực phát sinh trong quá trình phát triển ,v.v... đang là những câu hỏi lớn đặt ra đối với nhiều quốc gia . Cho đến bây giờ , tuy còn có các ý kiến khác nhau trong việc định nghĩa văn hoá là gì , nhưng mọi người đều thống nhất trong sự thừa nhận về mối quan hệ qua lại của văn hoá với kinh tế , vai trò động lực của văn hoá đối với kinh tế . Những ý kiến coi văn hoá đứng ngoài kinh tế hay lệ thuộc một cách thụ động đối với kinh tế không còn được chấp nhận . Tuy nhiên , khi chúng ta nhấn mạnh yếu tố văn hoá thì đIều đó không có nghĩa là đặt vị trí của văn hoá cao hơn kinh tế , mà để thấy sự gắn bó của chúng trong khi hướng tới mục tiêu phát triển . Những thành tựu hoặc vấp váp trong quá trình phát triển kinh tế , xã hội ở nhiều nước trên thế giới đều chứng minh tầm quan trọng của nhân tố văn hoá , trước hết là ở việc có bảo vệ , phát triển được hay không những tiềm năng phong phú và đặc sắc của văn hóa dân tộc đối với sự phát triển của đất nước . Sự đúng đắn hay sai lạc trong định hướng phát triển văn hoá đều đưa đến thành tựu hay thất bại không riêng cho văn hoá , mà cho cả kinh tế và mọi mặt khác của đời sống xã hội , đặc biệt là về tư tưởng , đạo đức , lối sống . Những hậu quả của sự sai lầm về chính sách văn hoá thường kéo dài và khó sửa hơn những hậu quả về kinh tế . Do đó không phải không có cơ sở khi người ta lo ngại một sự “ phá sản” , “ xuống cấp” về văn hoá hơn sự phá sản , xuống cấp trong kinh tế , bởi những mất mát trong lĩnh vực văn hoá thường dẫn tới những hậu quả rất lâu dài và nghiêm trọng. Với điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như hiện nay , trong vòng vài ba chục năm , một dân tộc có thể vượt lên rất nhanh , chiếm lĩnh được những đỉnh cao về kinh tế , kỹ thuật , công nghệ . Nhưng để trở thành một quốc gia phát triển về văn hoá , thì vài ba chục năm hoàn toàn chưa thấm vào đâu . Một quốc gia giàu có về kinh tế , trong mười năm có thể đổi mới , nâng cấp toàn bộ hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật , nhưng để có được một cơ sở hạ tồng văn hoá tiến bộ và phát triển , thì còn khó gấp trăm lần và không thể chỉ bằng tiền mà giải quyết được . Đất nước ta đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện , thực hiện cơ chế thị trường và chính sánh đối ngoại rộng mở , làm bạn vớ tất cả các nước , phấn đấu vì hoà bình , độc lập và phát triển . Đối với nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá , đây vừa là cơ hội lớn đồng thời là thách thức lớn . Chuyển sang nền kinh tế thị trường , văn hoá là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế , góp phần thay đổi nếp nghĩ , cách làm ; kích thích tính sáng tạo , năng động , nhưng trong môi trường đó văn hoá cũng có thể nhiễm phải những căn bệnhcủa kinh tế thị trường : chủ nghĩa cá nhân phát triển , sùng bái đồng tiền , lối sống tiêu thụ , thực dụng ... Không ít hoạt động văn hoá bị lôi cuốn vào xu hướng thương mại hoá , xuất hiện những sản phẩm văn hoá kém chất lượng chiều theo thị hiếu thấp kém của một bộ phận người có tiền . Đồng tiền xuất hiện với tư cách là thước đo các giá trị , nhưng đồng thời nó cũng trở thành sức mạnh có khả năng làm xuyên tạc mặt bản chất tốt đẹp của con người , của nhữn quan hệ xã hội , kích thích chủ nghĩa cá nhân , tính ích kỷ , nhiềt hủ tục , mê tín , dị đoan phát triển ... Đó là những nguy cơ cần phải kiên quyết bài trừ , khắc phục . Trong đời sống hằng ngày , chúng ta thấy nhiều sản phẩm văn hoá như tranh ảnh . sách , báo ... được đem ra mua bán trên thị trường , nhưng đIều đó không có nghĩa là mọi sản phẩm văn hoá đều phải tính toán , có lãi mới sản xuất . Trong nền kinh tế hàng hoá không thể không thừa nhận sự chi phối của quy luật giá trị trong lĩnh vực sản xuất tinh thần . Nhiều sản phẩm văn hóa cũng cần phải định giá , phải thông qua mua , bán , trao đổi để phân phối tới người sự dụng . Song sự định giá , trao đổi , mua bán này không thể chỉ căn cứ vào quy luật kinh tế mà phải tuân theo quy luật của văn hoá , tư tưởng , đạo đức ; phải phục vụ mục tiêu phát triển toàn diện con người , cho tiến bộ và công bằng , văn minh . Thực hiện chính sách đối ngoại đa phương hoá , đa dạng hoá , đất nước ta có cơ hội giao lưu , tiếp nhận , học hỏi vô cùng thuận lợi . Trong quá trình đó , chúng ta bắt gặp nhiều cái hay , cái đẹp và những đIểm tương đồng trên lĩnh vực văn hoá , nhưng điều đó hoàn toàn không có nghĩa là mọi dân tộc sẽ đi tới sự thống nhất về văn hoá . Traí lại , nhờ quá trình giao lưu đó , mỗi dân tộc đều có thể đóng góp những bản sắc độc đáo của riêng mình vào kho tàng văn hoá chung của nhân loại , làm cho nền văn hoá của nhân loại ngày càng thêm phong phú , tốt đẹp . Bên cạnh việc tiếp thụ những cái tốt , cái tương đồng , chúng ta cũng phải tỉnh táo phòng ngừa , loại trừ những cái xấu , cái dở , cái không phù hợp . Sự học tập , lựa chọn tiếp nhận phải rất chủ động , tinh tường nhất định không để mắc phải thói “ ham thanh chuộng lạ” sùng bái một cách mù quáng mọi cái lạ của bên ngoài . Chúng ta cương quyết khước từ , chống lại sự di nhập những thứ văn hoá phẩm phản động kích động bạo lực , tình dục , hạ thấp các giá trị đạo đức , nhân văn , trái với các truyền thống đạo đức , văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta . Trong quá trình giao lưu văn hóa , chúng ta mạnh dạn hội nhập , tiép thụ , nhưng không đánh mất , không “ hoà tan” bản sắc của mình . Trái lại , chúng ta có trách nhiệm bổ sung , đóng góp cho nhân loại những gì đặc sắc của chúng ta và tiếp nhận , bổ sung những tinh hoa nhân loại để bản sắc văn hoá Việt Nam ngày càng giàu đẹp . Làm được như vậy , văn hoá luôn luôn là động lực của sự phát triển là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá , đưa đất nước ta tiến nhanh tới mục tiêu dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , văn minh . II/ Phát huy nội lực văn hóa trong quá trình phát triển . Trong quá tình xây dựng đất nước vì mục tiêu “ Dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng , văn minh” , vai trò của văn hóa ngày càng được Đảng , Nhà nước và nhân dân quan tâm . Văn hoá dân tộc được xác định trở thành nội lực bên trong của quá trình phát triển . Quan hệ giữa văn hoá và phát triển được bàn luận sôi nổi cả về phương diện lý luận và thực tiễn trong thời gian gần đây . Để phát huy tốt nội lực của văn hoá đối với sự phát triển bền vững và lâu dài của đất nước , cần chú ý đến một số phương diện cơ bản bao gồm ? Thứ nhất : Chưa bao giờ văn hoá dân tộc ta có những bước chuyển biến toàn diện và sâu sắc như hiện nay . Đây là thời kỳ chuyển đổi mạnh mẽ cả về quan niệm giá trị , chuẩn mực văn hoá , chuyển đổi cả công nghệ , kỹ thuật và cơ sở vật chất của văn hóa , chuyển đổi về đội ngũ nhân sự , bộ máy hoạt động văn hoá , cùng với nó là sự chuyển đổi lối sống , nếp tư duy , tầm nhìn và cách nhìn của cá nhân và cộng đồng với hàng loạt các nhu cầu văn hó phong phú và đa dạng của nhân dân . Sự chuyển đổi này có cơ sở khách quan từ sự đổi mới toàn diện của đất nước mà cốt lõi cơ bản là phát triển kinh tế thị trường đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa , tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế , đa phương hoá , đa dạng hoá các mối quan hệ quốc tế . Sự chuyển đổi này là kết quả của quá trình vận động đầy mâu thuẫn , đầy xung đột , mang kịch tính cao đến mức khắc nghiệt , nhưng đây chính là mâu thuẫn trong quá trình vận động phát triển của đất nước . Vì vậy , sự bình tĩnh và khách quan trong đánh giá các hiện tượng văn hóa - xã hội là một yêu cầu lớn hiện nay . Thứ hai : Chưa bao giờ sức ép của xu thế toàn cầu hoá , khu vực hoá được sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại tác động vào nền văn hóa của các dân tộc , các quốc gia lại mạnh mẽ , toàn diện và sâu sắc như hiện nay . Sự đầu tư trực tiếp , gián tiếp của các công ty đa quốc gia và xuyên lục địa , sự giao lưu thương mại và dịch vụ với khối lượng hàng hóa khổng lồ , sự tăng cường dịch vụ du lịch , giải trí , sự mở rộng hệ thống thông tin truyền thông đại chúng , v.v... và v.v... đã làm cho “ tan băng” ở các quốc gia “ đóng” và “sốt” lên ở các quốc gia “ mở” . Ranh giới địa lý hữu hình giữa các quốc gia không cản nổi sự xâm tràn của các trào lưu văn hóa xa lạ . Xu thế toàn cầu hoá , khu vực hóa vừa mang lại thời cơ lớn , đồng thời vừa là thách thưc lớn đối với mỗi nền văn hoá khác nhau , đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển . Thứ ba : Mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế trở thành một trong những vấn đề trung tâm của thời đại . Các dân tộc trong quá trình phát triển đang tìm cách kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại , tranh thủ thời cơ , chống lại các nguy cơ để tập trung xây dựng đất nước . Sức mạnh của sự liên kết cộng đồng được đặc trưng ở việc giữ gìn , phát huy bản sắc và bản lĩnh văn hoá của dân tộc trong giao lưu quốc tế . Do đó , cùng với xu thế hội nhập quốc tế là xu thế bảo vệ , giữ gìn và phát huy bản sắc và bản lĩnh dân tộc , chống lại xu hướng “ đồng hoá” hay “ nhất thể hoá” về văn hóa . Bản săc văn hoá là những dấu hiệu đặc trưng để phân biệt văn hoá của cộng đồng này với cộng đồng khác , dân tộc này với dân tộc khác , quốc gia này với quốc gia khác . Đây là “ gien” di truyền văn hoá của từng dân tộc . “ Gien” di truyền này kết tinh ở truyền thống văn hoá dân tộc thể hiện trong lối sống , trong phong tục , tập quán , trong các hoạt động sản xuất vật chất và tinh thần của cộng đồng . Trong giao lưu quốc tế , các dân tộc sẽ đánh mất sự tồn tại của mình nếu mất bộ “ gien” di truyền văn hoá . Cần tránh sai lầm đồng nhất bản sắc văn hoá dân tộc với những hình thức thể hiện bên ngoài của nó . Bản sắc văn hoá dân tộc bao chứa cả “ cái tĩnh” và “ cái động” , “ cái cổ truyền” và “ cái hiện đại” , cả hình thức và nội dung , cả “ cái ngoại sinh” được “ nội sinh” hoá . Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc không có nghĩa là quay về “ phục cổ” , quay về với cái cũ mà phải căn cứ vào quan điểm phát triển đất nước vì mục tiêu “ dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng và văn minh” trong thời kỳ công nghiệp hoá , hiện đại hoá . Yêu cầu phát triển đất nước là tiêu chí để lựa chọn giữa cái cũ và cái mới , cái bên trong và cái bên ngoài , cái nội sinh và cái ngoại sinh . Tính tự giác của quá trình lựa chọn văn hóa sẽ khắc phục được tính tản mạn , tự tuỳ thuộc vào tậm nhìn , điểm nhìn , trình độ , nhân cách và bản lĩnh của chủ thể lựa chọn . Thứ tư : Phát huy nội lực của văn hoá dân tộc chính là tạo nên một dòng chảy liên tục của truyền thống văn hóa dân tộc nhằm khẳng định bản sắc và bản lĩnh văn hoá. Truyền thống văn hoá là những giá trị văn hoá do lịch sử để lại được các thế hệ sau làm sống lại trong thời đại của họ . Trong truyền thống văn hóa Việt Nam có hai dòng chủ lưu xuyên suốt là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo . Trong chiến tranh chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc , hai dòng chủ lưu này đã phát huy sức mạnh để đoàn kết dân tộc , dưới sự lãnh đạo của Đảng , tạo nên sức mạnh của hào khí Việt Nam , đặc biệt là trong kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mỹ , cứu nước vừa qua . Ngày nay , sự thành công của quá trình đổi mới tuỳ thuộc vào việc phát huy sức mạnh tổng hợp của hai dòng chủ lưu của hai dòng chủ lưu của truyền thống văn hóa dân tộc nếu bị xem nhẹ , không được thế hệ sau tiếp nối sẽ dẫn tới khủng hoảng văn hoá nghiêm trọng . Ngược lại , bản lĩnh văn hoá dân tộc luôn cần tới dấu hiệu và sắc thái riêng . Như vậy , nội lực văn hoá dân tộc vừa bao trùm bản sắc văn hóa vừa bao hàm bản lĩnh văn hóa dân tộc . Đây là nền tảng chủ yếu để xây dựng “ nền văn hoá tiên tiến , đậm đà bản sắc dân tộc” , là “ bộ lọc” các giá trị văn hóa ngoại nhập , chống lại những tác động phi văn hoá , phản văn hoá từ bên ngoài . Nội lực văn hoá không chỉ là một lý thuyết , nó chính là cuộc sống , nó chỉ thực sự phát huy được sức mạnh khi trở thành tinh thần tự giác của mọi thanh viên trong xã hội . Điều đó cũng có nghoã là sự nghiệp phát triển đất nước một cách bền vững phải được đặt trên nền tảng văn hóa dân tộc , phải khơi dậy và phát huy tới mức cao nhất nội lực của một nền văn hóa đã được khẳng định trong suốt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước . III/ Toàn cầu hoá và bản sắc văn hoá dân tộc . Tài nguyên con người của mỗi quốc gia nằm trong bản sắc văn hoá dân tộc . Đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc là đánh mất tiềm năng của nguồn lực con người . Vì lẽ đó , việc bảo vệ và phát huy những giá trị bản sắc của nền văn hoá truyền thống - văn hóa tinh thần - là một vấn đề cấp bách và thiết thân đặt ra ở hầu hết các quốc gia. Bởi vì trên thế giới ngày nay nền văn hoá đa dạng của thế giới nói chung và của từng quốc gia nói riêng đang đứng trước nguy cơ bị mai một , tha hoá , đánh mất những giá trị đích thực của mình . Toàn thế giới e ngại vì “ một mẫu hình văn hoá đồng phục” . Do tính hai mặt của toàn cầu hoá = Một mặt là sự bùng nổ thông tin , sự hợp tác kinh tế quốc tế , sự trao đổi văn hoá và du lịch thúc đẩy các quốc gia xích lại gần nhau , mở ra những chân trời văn hóa và kiến thức mới . Mặt khác là nguy cơ san bằng và đồng nhất hoá các tiêu chuẩn , các hệ giá trị , đe doạ và làm suy kiệt khả năng sáng tạo của các nền văn hoá . Đặc biệt đối với các nước thế giới thứ ba đang công nghiệp hoá có những nguy cơ tha hoá về văn hóa , cụ thể là Tây phương hóa . Đồng nhất hiện đại hoá và Tây phương hoá . Không vong quốc nhưng vong bản . Mà đã vong bản thì quốc gia còn mà dân tộc không còn , nghĩa là văn hóa dân tộc cùng với các giá trị của nó bị thủ tiêu . Quốc gia bị tha hóa văn hóa sẽ không còn sức sống . Giữ gìn bản sắc dân tộc không có nghĩa là cố thủ trong truyền thống di sản mà phải khai thác , phát triển để đáp ứng những yêu cầu mới , đáp ứng những thách thức mới . Bản sắc dân tộc trườnh tồn trong quá trình tái tạo không ngừng trong tiến hoá của lịch sử . Theo một phép biện chứng kế thừa và đổi mới , kết hợp truyền thống và tính hiện đại . Một số giá trị mới đương hình thành trong hệ giá trị Việt Nam . Giữ gìn bản sắc không co vào cố thủ trong tính riêng biệt , khước từ giao lưu văn hoá . Trên thế giới này không có một nền văn hoá nào có tính thuần nhất bản địa . Sự thay đổi giữa các nền văn hoá là do trao đổi . Khi trao đổi ngừng thì cả hai địa bàn đều chững lại trong phát triển . Đây là phép biện chứng của nhân tố ngoại sinh trong sự phát triển nội sinh . Tuy nhiên sự hội nhập các giá trị văn hóa khác với sự tha hóa về văn hóa cũng như sự lai giống tốt khác với lai ghép vào cơ thể những gien lạ hoắc , gây nên sự biến dị , thậm chí những quái thai . Khi các nhân tố ngoại quá khác lạ và quá mạnh ghép vào một cơ thể có thể phá vỡ cấu trúc của cơ thể nhận , gây nên sự suy thoái . Như vậy cái mới nảy sinh từ trao đổi với bên ngoài luôn luôn nội sinh hoá , cái hiện đại nhập vào cái truyền thống . Và truyền thống sẽ mang tính hiện đại và phục vụ nhu cầu hiện đại . * Chương IV : Một số giải pháp nhằm phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ phát triển . I/ Một số giải pháp trước mắt để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến , đậm đà bản sắc dân tộc . Để góp phần thực hiện tư tưởng cốt lõi của Đảng ta về văn hóa , trước mắt cần thiến hành tốt những giải pháp lớn sau đây : 1 . Trước hết , phải tạo ra bước chuyển biến cơ bản trong nhận thức của toàn Đảng và toàn xã hội , tiếp tục củng cố niềm tin ở chủ nghĩa Mác- Lênin và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội , có nhận thức đúng về lý tưởng , lẽ sống , nếp sống phù hợp với truyền thống dân tộc và truyền thống cách mạng . 2 . Tăng cường đầu tư các nguồn lực và hoàn chỉnh hệ thống chính sách phát triển văn hoá , nhất là trên lĩnh vực cấp bách : nâng cao các hoạt động văn hoá thông tin ở cơ sở ; bảo tồn , tôn tạo các di tích lịch sử - văn hoá ; phát triển các loại hình nghệ thuật ; sưu tầm , khai thác các vốn văn hoá dân tộc ,v.v... 3 . Phải đổi cới thể chế phát triển sự nghiệp văn hoá trong điều kiện cơ chế thị trường . Trên cơ sở định hướng chính trị và pháp luật , nêu cao vai trò nòng cốt của các cơ quan văn hóa , nghệ thuật của Nhà nước ; từng bước thực hiện xã hội hoá về văn hoá . 4 . Tạo chuyển biến tích cực trong xây dựng đạo đức , nếp sống văn minh , ngăn chặn có hiệu quả các tệ nạn xã hội , những biểu hiện tiêu cực trong xã hội , những hủ tục và nếp sống không lành mạnh , khắc phục tình trạng thoái hoá , biến chất của một số cán bộ , Đảng viên , những hủ tục và tệ nạn xã hội đang có chiều hướng gia tăng ở cả thành thị , nông thôn và miền núi . 5 . Quan tâm xây dựng đội ngũ những người hoạt động văn hoá , mở rộng hợp tác quốc tế về văn hoá . 6 . Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng . Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước trong sự nghiệp quản lý và phát triển văn hoá , đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá , nghệ thuật . II/ Biện pháp khắc phục những mặt tiêu cực trong đời sống văn hoá xã hội của đất nước . 1 . Những mặt tiêu cực trong đời sống văn hoá trong xã hội : Đối với nước ta hiện nay , xu hướng toàn cầu hoá với cả hai mặt tích cực và tiêu cực kể trên lại đồng thời diễn ra cùng với quá trình nền kinh tế quốc dân chuyển sang sử dụng cơ chế thị trường và chính sách mở cửa nhằm đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế , đẩy tới một bước sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hoá . Bên cạnh những tiến bộ và thành tựu to lớn đã đạt được trong 10 năm qua , cơ chế thị trường và chính sách mở cửa cũng đã và đang làm cho chúng ta phải đối mặt với nhiều hiện tượng đáng lo ngại trong đời sống văn hoá của đất nước : Tâm lý sùng bái hàng hoá , sùng báI tiền tệ , chỉ coi trọng các tiện nghi vật chất đơn thuần mà xem thường các giá trị văn hóa nảy sinh trong một bộ phận dân cư . Bệnh sùng ngoại , chạy theo lối sống tiêu thụ của phương Tây lây lan trong không ít người , nhất là trong lớp trẻ . Các sách báo , tranh ảnh , băng nhạc , băng hình có nội dung kích động dâm ô , bạo lực nhập lậu ồ ạt gây tác động xấu đến nhiều thuần phong mỹ tục của dân tộc , v.v... 2 . Giải pháp : Để đấu tranh đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực kể trên , làm lành mạnh hoá đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc , bên cạnh luật pháp và các chính sách kinh tế - xã hội khác , việc chấn hưng nền văn hoá dân tộc để làm cơ sở định hướng cho việc mở rộng giao lưu văn hoá quốc tế của nước ta ngày nay được xem là giải pháp cơ bản , có ý nghĩa chiến lược lâu dài . Những bài học kinh nghiệm ngàn đời của cha ông ta trong quá trình giao lưu văn hoá với thế giơí trước đây cần được nghiên cứu sâu sắc , toàn diện hơn để khai thác , vận dụng để phát triển sáng tạo trong điều kiện mới ngày nay . Làm được như vậy , chúng ta có thể vững tin và chủ động tăng cường giao lưu văn hoá với các nước trên cơ sở biết mình , biết người một cách thực tế khách quan . Cần biết cả chỗ mạnh , chỗ yếu của mình và của người , qua đó mà lựa chọn , tiếp thu các yếu tố nhân bản , hợp lý , khoa học , tiến bộ của văn hoá thế giới - cả phương Đông và phương Tây - để làm phong phú thêm bản sắc văn hoá dân tộc , xem đó là nhân tố cực kỳ quan trọng thức dậy các tiềm năng , phát huy mọi nguồn cảm hứng sáng tạo , làm nên những giá trị vật chất và tinh thần mới trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . Chúng ta không tự hãm mình trong tính riêng biệt văn hoá , khước từ giao lưu , trao đổi , đối thoại với bên ngoài . Đồng thời , chúng ta cũng kiên quyết phản đối sự tiếp nhận xô bồ mọi thứ gọi là “ tân kỳ” của văn hoá ngoại lai mà không phân biệt hay dở , tốt xấu để đi đến chỗ mất gốc , lai căng và cuối cùng khó tránh khỏi sẽ bị đồng hóa , bị hoà tan chứ không phải hội nhập với nền văn minh nhân loại . Trong kinh tế , sự đa dạng của phân công mới làm nảy sinh tính tất yếu của giao lưu , hợp tác giữa các quốc gia . Trong văn hoá lại càng như vậy . Do đó chỉ có trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc và cốt cách riêng của văn hoá Việt Nam - nghĩa là tính độc đáo của nó trong quá trình vươn tới sự hoàn thiện con người theo hướng Chân - Thiện - Mỹ , thì văn hoá dân tộc mới có sức nặng trong tiếp xúc , đối thoại với các nền văn hoá khác , nhất là mới có những cái đáng giá để góp vào kho tạng văn hoá phong phú , đa dạng của nhân loại . Thực hiện được như thế , thì chắc chắn công cuộc đổi mới toàn diện đất nước của chúng ta , trong đó có đổi mới về giao lưu văn hoá với thế giới sẽ gặt hái được nhiều hoa thơm quả ngọt vì mục tiêu dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , văn minh . C. Kết thúc vấn đề Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI , qua đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII tới đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII , Đảng Cộng Sản Việt Nam , đã đề ta và thực hiện một đường lối đổi mới toàn diện để đạt được mục tiêu “ Dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng và văn minh” . Mục tiêu ấy là kết hợp cả mấy nhân tố kinh tế , xã hội và văn hoá trong quá trình phát triển . Tương lai của văn hoá Việt Nam , phải được đặt trong quá trình ấy , mà xem xét . Đường lối đổi mới của Đảng ta đã khẳng định cơ chế thị trường đang là đIều kiện và phương tiện cho sự phát triển của đất nước . Thực tế , cơ chế này đã đem lại những thành tựu to lớn và còn tiếp tục mở ra nhiều triển vọng cho sự phát triển kinh tế . Thế nhưng , mặt trái của nó cho ta thấy nhiều hiện tượng tiêu cực không thể xem thường , nhất là trên góc độ nhìn văn hoá học . Mặt khác , từ quan đIểm chiến lược , kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại , việc mở rộng quan hệ với bên ngoài là tất yếu . Trong thời đại ngày nay , không có một dân tộc nào có thể tách rời , sống biệt lập với thế giới . Riêng với văn hoá , tiến bộ của khoa học công nghệ thông tin lại càng đặt ra việc phát triển văn hoá không thể tách rời với văn hoá thế giới . Hằng số của văn hoá Việt Nam là mở cửa đón nhận truyền thống văn hoá bốn phương , tiếp nhận cái tốt , cái thích hợp , loại bỏ cái xấu , không thích hợp . Vì thế , nếu mất bản sắc dân tộc thì cũng mất văn hoá , và khi mất văn hoá thì cũng mất dân tộc . Mục tiêu của chúng ta là xây dựng một nền văn hoá tiên tiến , đậm đà bản sắc dân tộc . Đó là vấn đề đáng quan tâm trong thời đại hiện nay của nước ta .Để hiểu rõ hơn về tính cấp thiết và tất yếu của việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc , đồng thời cũng để hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của bản sắc dân tộc trong nền kinh tế mở , em đã chọn đề tài này nghiên cứu . Qua nghiên cứu đề tài này , ta có thể hiểu rõ hơn về vấn đề bản sắc dân tộc trong nền kinh tế mở của nước ta trong thời kỳ này . Danh mục tài liệu tham khảo : Những vấn đề văn hoá Việt Nam hiện đại – Nhà xuất bản Giáo dục – Tác giả : Lê Quang Trang- Nguyễn Trọng Hoàn . C. Mác và Ph. Ăngghen. Toàn tập – NXB Chính trị quốc gia , Hà Nội –1995. Văn kiện Đại hội VIII Chính trị quốc gia – 1996. Cơ sở văn hoá Việt Nam – Nhà xuất bản giáo dục – 1999 – Tác giả :Trần Quốc Vượng ( Chủ biên ) – Tô Ngọc Thanh – Nguyễn Chí Bền – Lâm Mỹ Dung – Trần Thuý Anh .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNQM_bansacvanhoa.doc
Tài liệu liên quan