Ngự sử đài có chức Đô đài Ngự sử, Phó Đô
Ngự sử, có hệ thống 6 ty Giám sát mười ba xứ
thừa tuyên kiêm giám sát một số cơ quan ở trung
ương. Bên cạnh đó, Ngự sử còn phối hợp với Lục
khoa để giám sát Lục bộ, phối hợp với Hiến ty
kiểm soát các xứ. Cơ chế giám sát hoạt động tố
tụng, kiểm soát xét xử tuân theo nguyên tắc cấp
trên trực tiếp kiểm soát cấp dưới và được thực
hiện theo 3 cấp: nhà vua giám sát các cơ quan
trung ương; Ngự sử đài, Đô sát viện giám sát các
cơ quan địa phương thuộc tỉnh: phủ, tỉnh, ty; cấp
tỉnh giám sát cấp huyện, châu, lộ, trấn.
Theo quy định của pháp luật thời Lê: Nếu 3
cấp đều xử như nhau thì đương sự không được
khiếu kiện nữa. Nếu quan đã xét xử đúng mà
đương sự còn cố phúc tụng hoặc kêu oan thì luật
định rõ “tiền tạ lỗi” đương sự phải nộp phạt. Nếu
quan xét xử sai nhầm, kết án oan thì phải tự chịu
trách nhiệm bồi thường cho các đương sự, đồng
thời phải chịu chế tài hình sự và hành chính căn
cứ vào mức độ vi phạm.
Thời Lê Sơ Lê Thánh Tông, trong QTHL, bổ
sung về chế độ soát tù, về thi hành án cuối năm
cũng được nhà vua chú trọng, khi đó, chức năng
giám sát hành chính tư pháp trong chính thể quân
chủ chuyên chế được tăng cường. Đến thời Lê
Trịnh việc kiểm soát xét xử đã được xây dựng
khá hoàn chỉnh với “Chế độ loát tụng hàng năm”.
Việc kiểm soát theo các cấp hành chính và các
vụ việc xử đúng sai, có khiếu nại hoặc không có
khiếu nại, về số tiền tạ và tiền phạt được tổng kết
theo năm, nhà nước căn cứ vào đó để xếp hạng
và thưởng phạt quan chức.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 317 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề lý luận về pháp luật tố tụng của nhà nước phong kiến Việt Nam thế kỷ XV - XIX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
58
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG CỦA NHÀ NƯỚC
PHONG KIẾN VIỆT NAM THẾ KỶ XV - XIX
Hà Thị Lan Anh1
Hà Thị Lan Phương2
Tóm tắt: Bài viết đề cập một số vấn đề cơ bản về pháp luật tố tụng của nhà nước phong kiến Việt
Nam thế kỷ XV đến thế kỷ XIX nhằm có những đánh giá sơ bộ về vai trò, bản chất và một số quan
điểm chính trị xây dựng, thiết lập nên pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam.
Từ khóa: Nhà nước phong kiến; Pháp luật tố tụng.
Ngày nhận bài: 10/01/2017 ; Ngày hoàn thành biên tập: 18/01/2018 ; Ngày duyệt đăng:
30/01/2018.
Abstract: The article mentions some basic issues about procedural law of Vietnam feudal state
from 15th century to 19th century to have general assessment on the role, nature and some political
viewpoints building, establishing procedural law of Vietnam feudality
Keywords: feudal state; procedural law.
Date of receipt: 10/01/2018; Date of revision:18/01/2018 ; Date of approval: 30/01/2018
1. Pháp luật tố tụng dưới góc nhìn lịch sử
Lịch sử loài người từ xa xưa đã manh nha
hình thành quan niệm cơ bản về hoạt động tố
tụng. Khi đó, vai trò quan tòa thường thuộc về
các vị thủ lĩnh, các tù trưởng, tộc trưởng, các vị
vua chúa ở các thị tộc, bộ lạc của những nhà
nước sơ khai. Bước sang thời kỳ cổ trung đại, các
nhà nước ở phương Đông như Ai Cập, Lưỡng
Hà, Ấn Độ, Trung Quốc, các nhà nước phương
Tây như La Mã và vương quốc Franc, các nước
Trung Đông, Đông Á, Đông Nam Á dần hình
thành nhà nước quân chủ và hệ thống pháp luật
thành văn để củng cố quyền lực chuyên chế.
Nguyên tắc quyền tối cao thuộc về nhà cầm
quyền là các Pharaon, các Calipha, nhà độc tài,
các tăng lữ, giáo chủ, nhà vua, vương hầu, lãnh
chúa. Họ đồng thời là thủ lĩnh quân sự, quan tòa
tối cao, có đặc quyền đẳng cấp quý tộc theo tục
cha truyền con nối.
Khác với loại hình nhà nước quân chủ
chuyên chế phương Đông là nền cộng hòa Hy
Lạp và La Mã phương Tây cổ đại. Điển hình là
nền Cộng hòa dân chủ chủ nô Athens, nơi mà các
công dân có tài sản được định giá bằng các
medin lương thực, họ có quyền tham gia chính
quyền, bầu cử và được nói lên tiếng nói của
mình. Tổ chức nhà nước thành lập Hội nghị công
dân, Hội đồng tướng lĩnh, Hội đồng quan chấp
chính, Hội đồng xét xử công khai. Nền dân chủ
Athens với cơ chế hội đồng, đề cao quyền công
dân trong xã hội thời kỳ cổ đại.
Những quy định về tố tụng thời cổ trung đại
xuất hiện trong các văn bản pháp luật như bộ luật
Hammourabi, Luật Manou, Đỉnh hình, Trúc
Hình, Cửu chương luật, trong đó Luật Dracon,
Luật La Mã và Luật Salic đã đặt nền tảng giá trị
công lý cho con người về tính mạng và quyền tài
sản cũng như đảm bảo giá trị của khế ước trong
giao dịch dân sự, hợp đồng thương mại và việc
phân chia di sản thừa kế trong gia đình.
Tố tụng thời trung cổ ở Tây Âu bị chi phối
bởi nhiều thế lực cát cứ phân quyền, lãnh địa
phong kiến trong đó có sự đối trọng quyền lực
về kinh tế chính trị, về tố tụng xét xử giữa nhà
vua, nhà thờ, lãnh chúa và thị dân. Trong thời kỳ
này, sở hữu lãnh địa của lãnh chúa phong kiến là
đặc trưng của nền kinh tế Tây Âu. Các chế tài
hình phạt được áp dụng ở Tòa án giáo hội, Tòa án
nhà vua và ở các lãnh địa cũng không kém phần
man rợ như phanh thây, treo cổ, hỏa thiêu.
Nhà nước quân chủ phong kiến phương
Đông, trong đó có Việt Nam đã hình thành và
1 Phòng Quản lý khoa học và Trị sự Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp
2 Giảng viên, Khoa Pháp luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học luật Hà Nội
Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
59
phát triển qua hàng nghìn năm. Qua các thời kỳ
lịch sử đó, pháp luật tố tụng ra đời, phát triển và
đã đạt được nhiều giá trị trong quản lý kinh tế và
xã hội.
Về khái niệm khi nghiên cứu các hình thức
nhà nước phong kiến ở cả phương Tây và
phương Đông cho thấy:
Nhà nước phong kiến là nhà nước của chế
độ quân chủ chuyên chế, trong đó xác định mối
quan hệ giữa giai cấp địa chủ, quý tộc với việc sở
hữu ruộng đất, tư liệu sản xuất và tầng lớp nông
dân, người làm thuê bằng việc sử dụng đất đai,
phương tiện sản xuất tạo ra sản phẩm để đóng
thuế hoặc để bán sức lao động.
Nghiên cứu pháp luật tố tụng của nhà nước
phong kiến cũng xuất phát điểm bắt đầu từ việc
nghiên cứu nhà nước và chế độ phong kiến. Vai
trò và bản chất pháp luật tố tụng của nhà nước
phong kiến Việt Nam về cơ bản thực hiện được
những mục tiêu bảo vệ chính thể nhà nước, đảm
bảo trật tự an ninh xã hội, bảo vệ con người về
tính mạng, tài sản và danh dự. Pháp luật phong
kiến Việt Nam đã có những bước phát triển đáng
kể, đóng góp cho lịch sử xây dựng pháp luật
trong thế kỷ XV – XIX và cả sau này.
2. Vị trí vai trò của pháp luật tố tụng
phong kiến Việt Nam
Theo Lời tựa trong Hoàng Việt luật lệ
(HVLL), vua Gia Long viết: “Trẫm nghĩ: Thánh
nhân cai trị thiên hạ đều dùng luật pháp để xử
tội, dùng đạo đức để giáo hóa họ. Hai điều ấy
không thiên bên nào bỏ bên nào”3. Nhà nước
phong kiến Việt Nam đã nhận thấy vai trò rất
quan trọng của việc ban hành pháp luật tố tụng
trong quản lý nhà nước. Thực tế khách quan
trong từng thời kỳ lịch sử cho thấy xã hội ổn
định, kinh tế phát triển, chế độ chính trị vững
mạnh, kỷ luật nghiêm minh đã chứng minh vai
trò của pháp luật tố tụng thời kỳ này.
Để đạt được những thành quả trong xây dựng
và thực thi pháp luật, pháp luật tố tụng của nhà
nước phong kiến mang mục tiêu và ý nghĩa sau:
Thứ nhất, xuất phát từ nhu cầu tất yếu trong
quản lý xã hội.
Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội,
để xây dựng và phân cấp quyền lực, xây dựng
chế tài thông qua công cụ pháp luật, pháp luật tố
tụng được ban hành nhằm mục tiêu kiểm soát
các bên.Trong quá trình giải quyết các tranh
chấp phát sinh một số lĩnh vực của đời sống xã
hội, mỗi nền văn hóa, thiết chế chính trị khác
nhau thiết lập nên các quy tắc, các thủ tục tố
tụng khác nhau.
Pháp luật tố tụng thời kỳ này đề cao trách
nhiệm công vụ trong quản lý xã hội, khách quan
trong việc thiết lập trật tự xã hội và bên cạnh đó,
pháp luật tố tụng phong kiến xây dựng cơ chế
giám sát hoạt động xét xử, cơ chế giám sát vi
phạm pháp luật không chỉ đối với người dân mà
với cả các quan lại và có các chế tài áp dụng
tương đối cụ thể, khắt khe nhằm hạn chế sự lạm
quyền trong hoạt động tố tụng.
Thứ hai, phản ánh chế định chính trị, pháp
lý của nhà nước phong kiến
Để bảo vệ vương quyền và xây dựng một
hình thức nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền chuyên chế, buộc nhà nước phong kiến
phải sử dụng bộ máy quyền lực pháp trị. Đó là sự
kết hợp giữa hệ tư tưởng Nho giáo và Pháp trị.
Nhà nước phong kiến xây dựng và thực thi pháp
luật trên nền tảng của Nho giáo. Hệ tư tưởng Nho
giáo được điều chỉnh bởi pháp luật tạo sự ổn định
trật tự xã hội. Hệ tư tưởng Pháp trị đưa xã hội
vào vòng kiểm tỏa, buộc các chủ thể phải tuân
thủ, không có sự nhượng bộ hoặc thỏa hiệp.
Những quy tắc pháp luật được ban hành minh
chứng cho phương pháp thống trị của nhà nước
phong kiến, trong đó có sự kết hợp giữa pháp trị
với đức trị để thực hiện quyền cai trị tuyệt đối
của mình.
Thứ ba, pháp luật tố tụng là công cụ xây
dựng và củng cố quyền lực quân chủ tập quyền
3 PGS.TS. Đinh Khắc Thuân, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,“Bộ Hoàng Việt luật lệ do Tổng tài Nguyễn Văn Thành
tổ chức biên soạn từ năm 1805, đến năm 1811 thì hoàn tất và năm 1812 cho khắc in lần đầu, đến năm 1815 thì ban
hành và áp dụng trong cả nước có Lời tựa do vua Gia Long đề.”
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
60
Pháp luật tố tụng thể hiện ý chí và bảo vệ lợi
ích của giai cấp thống trị phong kiến tập quyền.
Pháp luật tố tụng là phương tiện chủ yếu và hữu
hiệu nhất để điều chỉnh các quan hệ cơ bản giữa
các chủ thể để nhằm đạt được lợi ích của giai cấp
cầm quyền trong xã hội phong kiến.
Đối với nhà nước phong kiến, một mặt pháp
luật khẳng định quyền cai trị tối cao của nhà vua.
Mặt khác, ban hành các điều luật điều chỉnh trật
tự xã hội, nhằm mục đích giúp cơ quan hành
chính do quan lại cai quản hết sức phụng sự cho
triều đình.
Thứ tư, pháp luật tố tụng bảo vệ quyền lợi
của các chủ thể trong quá trình tố tụng
Quyền của chủ thể trong xã hội phong kiến
được pháp luật đảm bảo về người, nhà ở, giấy tờ,
đất đai, tài sản, không ai có quyền xâm phạm.
Trong tố tụng hình sự, người bị cáo buộc
được hưởng quyền xét xử nhanh chóng và bình
đẳng trước tòa. Theo quy định pháp luật tố tụng,
các cơ quan tố tụng phải khách quan khi tham
gia xét xử. Chế tài áp dụng không phải chỉ với
người tham gia tố tụng mà còn áp dụng với cả
người tiến hành tố tụng. Ở đây, trong quá trình tố
tụng, pháp luật quy định người tiến hành tố tụng
phải thực hiện đúng thẩm quyền: “Các Nha môn
trong ngoài coi việc khám xét, nhận đơn phúc
cáo hoặc phúc khiếu, trước tiên phải tra văn án
lần trước, chiểu theo văn án đó, luận theo Lệ nào
trong lúc tra xét mới được bắt bên bị, không
được căn cứ vào lời cáo mà tự tiện gom xét đầu
cuối luận bác đi”4 và “các quan xét án, phải theo
tờ cáo trạng mà xét hỏi, nếu ra ngoài tờ cáo
trạng, tìm việc khác để buộc tội người, thì xử là
cố ý bắt tội người.”5
Để bảo vệ quyền của các chủ thể, trong quá
trình tố tụng, điều quan trọng là tất cả mọi người
đều được đối xử bình đẳng, các bên đều được thể
hiện quan điểm của chính mình. Mọi chứng cứ
đều được quan tòa xem xét cân nhắc. Dù hoạt
động tố tụng thời kỳ này tuy có tính áp đặt nhưng
vấn đề quan trọng là các điều luật đều quy định
một cách rõ ràng và công bằng trong xét xử,
chứng cứ về nhân chứng, vật chứng đều được đặt
lên hàng đầu. Pháp luật tố tụng thời kỳ này đã
đạt được những yêu cầu này.
Thứ năm, thể hiện giá trị đạo đức nhân văn
Tuy bản chất là nhà nước tập quyền, quyền
tối thượng thuộc về nhà vua. Nhà nước luôn bảo
đảm quyền và lợi ích của hoàng tộc nhưng khi
xây dựng Bộ luật tố tụng để điều chỉnh các hoạt
động của xã hội thì các giá trị đạo đức đều được
đặt ra rất rõ ràng, mọi chủ thể trong xã hội đều
phải tuân thủ pháp luật.
Pháp luật thời kỳ này đảm bảo và đề cao
Pháp trị kết hợp Đức trị, trên cơ sở tôn trọng
hương ước lệ làng, phong tục, tập quán, thực hiện
kết hợp lợi ích của cá nhân với cộng đồng.
Thứ sáu, đạt thành tựu quan trọng trong quá
trình lập pháp của nhà nước phong kiến
Việt Nam
Nghiên cứu pháp luật tố tụng của nhà nước
phong kiến thời kỳ từ thế kỷ XV – XIX, chủ yếu
thông qua ba bộ luật cơ bản là Quốc triều hình
luật (QTHL), Quốc triều khám tụng điều lệ
(QTKTĐL) và Hoàng Việt luật lệ (HVLL), cho
thấy, trong quá trình xây dựng và ban hành Bộ
luật tố tụng, nhà nước phong kiến đã đạt được
những thành tựu cơ bản. Pháp luật tố tụng thời kỳ
trước đó và ngay cả thời kỳ sau đó có nhiều điểm
tiến bộ cần kế thừa.
Các Bộ luật này đều có cơ cấu ngắn gọn, chỉ
gồm có một Bộ nhưng chứa đựng các điều luật
cụ thể, điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực từ hình án
đến dân án. Kết cấu nội dung điều chỉnh không
tách rời việc quản lý hành chính và hoạt động tố
tụng, văn bản pháp luật kỳ này được quy định
trong điều luật dẫn chiếu từ những quy định cụ
thể để đảm bảo rằng việc xét xử công bằng, đúng
quy định. Người dân dù ở trình độ nào, đẳng cấp
nào cũng có thể hiểu và có ý thức tuân thủ pháp
luật. Khi xét xử, các quan án cũng dễ chiểu theo
điều luật ra phán quyết mà không sợ vi phạm
pháp luật dẫn đến bị kết tội.
4 Quốc triều Khám tụng điều lệ, Thông lệ về khám tụng, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, Mục 23,Sđd.
5 Quốc triều Hình luật, NXB Pháp lý, 1991, Chương Đoán ngục, Lệ 670. Sđd.
Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
61
Mặc dù vậy, khi xây dựng Bộ luật, để hoạt
động tố tụng cũng như quản lý bộ máy hành
chính từ trung ương đến địa phương được đồng
nhất, hoạt động xét xử nhằm đưa ra phán quyết
cho mỗi vụ án, pháp luật tố tụng còn được quy
định thống nhất cơ chế kiểm soát soát tụng theo
cấp và được giao cho cơ quan có thẩm quyền
chịu trách nhiệm thi hành.
Nói chung, pháp luật tố tụng giữ một vai trò
quan trọng trong quản lý nhà nước thời kỳ này,
vai trò còn quan trọng hơn nữa bởi cấu trúc trong
một điều luật bao chứa cả quyền và nghĩa vụ, nội
dung điều chỉnh cụ thể nhằm phòng ngừa sai lệch
trong xét xử và ra phán quyết.
3. Bản chất của pháp luật tố tụng nhà
nước phong kiến Việt Nam
Khi nghiên cứu về bản chất của nhà nước và
pháp luật tố tụng của nhà nước phong kiến Việt
Nam, cần nghiên cứu nền móng hệ tư tưởng của
nhà nước phong kiến để hình thành nên chế độ
quân chủ tập quyền, từ đó áp dụng trong việc xây
dựng Bộ luật tố tụng, công cụ cai trị và quản lý
xã hội.
3.1. Quan điểm chính trị về xây dựng pháp
luật của nhà nước phong kiến
Trường phái tư tưởng thiết lập nên nhà nước
trong thời kỳ phong kiến được quy định thông
qua chủ yếu hai học thuyết hệ tư tưởng đạo đức
về Nho giáo và hệ tư tưởng Pháp trị của trường
phái pháp gia.
Một là, nhà nước phong kiến theo quan điểm
hệ tư tưởng Nho giáo, lấy việc cai trị và quản lý
xã hội bằng niềm tin đạo đức, lễ nghĩa, nhân trí
đức của quan chức. Thông qua mô phỏng hình
tượng của các bậc thánh nhân, quân tử, từ đó đề
ra các thuyết về đạo đức, lấy các hình mẫu tượng
trưng, xây dựng hệ thống cai trị dựa trên các quy
tắc đạo đức theo chế độ quân chủ cầm quyền.
Nho giáo được đề cập đến trong Tứ thư Ngũ
kinh: Đó là tiêu chuẩn tài đức của người làm vua
quan, chế độ bổng lộc trong khoa cử, trách nhiệm
của vua quan với dân, với đồng liêu, đồng môn,
đưa ra chế độ giám sát, khảo xét và xử phạt
nghiêm minh đối với những vi phạm của quan
chức. “Quan chức phải kính cẩn đối với chức vụ,
thận trọng khi ra mệnh lệnh. Lệnh đã ban phải
nghiêm túc thi hành. Lấy công bỏ tư thì dân
chúng đều tin phục. Đạo làm vua trước phải
thành kính chăm lo cho dân chúng, sau hãy tra
xét những kẻ tham nhũng, những kẻ giết người
tàn bạo. Làm vua phải giữ gìn phép tắc, cẩn
trọng hình ngục, giữ đạo trung chính”6
Hai là, quan điểm quản lý nhà nước theo hệ
tư tưởng Pháp trị của nhà nước phong kiến thì
thuyết cai trị được thể hiện từ hệ tư tưởng lập
pháp của các bậc tiền nhân, nói chung đều
không đặt niềm tin vào tính đạo đức của quan
chức. Pháp trị chỉ tin vào pháp luật (dựa trên tội
danh và hình phạt) để xây dựng chế tài, trong
đó áp dụng biện pháp bổ nhiệm, thưởng phạt và
trừng trị nghiêm khắc, những tiêu chí đó được
coi trọng nhất.
Các học thuyết Tôn quân quyền của Nho gia
(Nhân trị, Lễ trị, Đức trị) và Pháp gia (Pháp trị,
Thế trị, Thuật trị) cho dù hình thức ban hành và
vận dụng có khác nhau nhưng về cơ bản, bản
chất quản lý nhà nước đều là một, trong đó Đức
trị và Pháp trị hỗ trợ bổ sung cho nhau, nếu đức
trị là tính chất và mục tiêu của nền chính trị thì
pháp trị là phương tiện thực hiện các mục tiêu
đó. Bản chất pháp luật tố tụng của nhà nước
phong kiến Việt Nam về cơ bản là Pháp trị.
3.2. Bản chất của pháp luật tố tụng nhà
nước phong kiến
Bản chất pháp trị của pháp luật tố tụng nhà
nước phong kiến gồm đầy đủ các tố chất của một
bộ quy tắc pháp luật trong quản lý nhà nước. Giá
trị tối cao của pháp luật tố tụng là công cụ tư
pháp không trùng với bất cứ công cụ quản lý nhà
nước nào. Nhà nước phong kiến, nhất là thời kỳ
từ thế kỷ XV – XIX đã thành công trong xây
dựng ban hành và thực thi pháp luật tố tụng.
Nghiên cứu bản chất pháp luật tố tụng nhà nước
phong kiến cho thấy đặc trưng pháp luật tố tụng
của nhà nước phong kiến được hiểu thông qua
khái niệm cơ bản về pháp luật tố tụng.
6 Kinh thư (2004), Nxb Văn hóa Thông tin, tr. 350, 351.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
62
Khái niệm pháp luật tố tụng nhà nước
phong kiến: là công cụ chuyên chế có tính quyền
lực, đảm bảo tính răn đe nhằm bảo toàn quyền
tối cao của nhà vua, tạo ranh giới pháp lý buộc
các chủ thể phải tuân thủ tuyệt đối. Pháp luật tố
tụng phổ cập toàn dân dưới hình thức ban hành
Bộ luật, được quy định thống nhất và nhất quán
thi hành.
Tìm hiểu bản chất của pháp luật tố tụng nhà
nước phong kiến, về cơ bản căn cứ vào nội dung
quy định của các điều luật, khái niệm về bản chất
của pháp luật tố tụng, để từ đó đánh giá đúng
thực chất công cụ chuyên chế mang tính quyền
lực này.
Thứ nhất, tính bảo toàn quyền lực
Theo tác giả, nhà nước phong kiến duy trì chế
độ quân chủ. Chế độ quân chủ là hệ thống chính
trị trong đó tất cả quyền lực được nhà vua nắm
giữ ở một vị trí tối cao trong một quốc gia hoặc
vương quốc. Nhà vua là người thống lĩnh và có
quyền đưa ra quyết định cuối cùng về mọi vấn
đề liên quan đến nhà nước đó.
Trong chế độ quân chủ, quyền lực tối cao của
nhà vua được trao lại theo nguyên tắc “cha truyền
con nối”. Trật tự quyền lực chỉ bị phá vỡ và xóa
bỏ khi nhà vua bị lật đổ, truất ngôi hoặc bị một
hình thức nhà nước khác thay thế. Nhà vua ban
hành pháp luật để bảo vệ uy quyền và pháp luật
tố tụng là một trong những công cụ hữu hiệu đó.
Ở Việt Nam, chế độ phong kiến đã trải qua
hàng ngàn năm tồn tại và phát triển. So với các
triều đại trước đó, pháp luật tố tụng của nhà nước
phong kiến từ thế kỷ XV – XIX đã đạt những
thành tựu cơ bản, đa dạng về hình thức, phong
phú về nội dung, quản lý hầu hết mọi khía cạnh
của đời sống xã hội.
Bản chất pháp luật tố tụng đó là kết hợp giữa
pháp luật và phong tục, tập quán, đạo đức, từ đó
tạo ra các quy tắc xã hội điều chỉnh hoạt động
của các chủ thể nhằm duy trì quyền lực hoàng
gia và ổn định trật tự xã hội.
Thứ hai, tính răn đe
Chế độ phong kiến xây dựng và ban hành
các Bộ luật với chế tài trong các điều khoản
được ví về mức độ trừng phạt tàn bạo như thời
trung cổ ở Châu Âu. Xuất phát bởi quyền tối
thượng thuộc về nhà vua, để bảo vệ nhà nước và
quyền lực chính trị của mình, ngoài các cuộc
chinh phạt đẫm máu xâm chiếm các vùng đất
mới, còn thiết lập cơ cấu hình ngục với những
hình phạt tàn bạo theo kiểu thời trung cổ. Tuy
nhiên, mối quan hệ của nhà nước và người dân
được duy trì bởi quyền lợi chung nên có sự bảo
vệ và tôn trọng, pháp luật tố tụng là công cụ để
bảo vệ quyền lợi chung đó. Chỉ khi chủ thể có
hành vi vi phạm các quy định pháp luật mới phải
chịu chế tài hình phạt.
Thứ ba, tạo ranh giới pháp lý
Xã hội phong kiến đã đạt được những bước
phát triển nhất định về kinh tế, xã hội. Sự thay
đổi kinh tế, văn hoá, xã hội buộc con người trong
xã hội đó cũng thay đổi theo. Pháp luật cần phải
điều chỉnh cho phù hợp nhằm mục đích giảm
thiểu những rủi ro trong quản lý nhà nước.
Theo tác giả, khi pháp luật ban hành, các thiết
chế tư pháp được thiết lập buộc mọi chủ thể trong
xã hội đó phải tuân thủ tuyệt đối. Ranh giới pháp
luật thiết lập có hai yếu tố cấu thành. Đó là các
quy tắc phải tuân thủ theo quy định của pháp
luật. Yếu tố thứ hai là khi vượt qua ranh giới của
sự cho phép, tức là vượt qua những điều mà pháp
luật không cấm, thì lập tức sẽ được điều chỉnh
bởi các chế tài. Pháp luật tố tụng thực hiện kiểm
soát các hành vi của mọi chủ thể các tổ chức và
cá nhân trong xã hội.
Thứ tư, phổ cập toàn dân
Pháp luật tố tụng ban hành để bảo vệ quyền
lợi ích của giai cấp thống trị. Những quy định của
pháp luật đều được điều chỉnh và thực thi bởi bộ
máy công quyền.
Nhưng trong xã hội mà quyền lực chính trị
mang tính tập quyền, pháp luật chủ yếu bảo vệ
lợi ích của giai cấp cầm quyền, cho nên, để
chung hòa lợi ích phải có sự đồng thuận của cả
cộng đồng, vì thế, các quy phạm pháp luật ban
hành nhằm điều chỉnh mọi đối tượng trong xã
hội.Tính khách quan của pháp luật tố tụng sẽ tạo
cân bằng cán cân quyền lực. Thành công của nhà
nước phong kiến trong quản lý hành chính chính
là ban hành được Bộ luật mà điều chỉnh được
Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
63
mọi đối tượng trong xã hội, theo đó, “Quan vi
phạm thì cũng bị xử như thứ dân”.
Thứ năm, thống nhất và nhất quán thi hành
Việc xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật
có liên quan chặt chẽ với nhau. Nhà nước phong
kiến nhất quán trong quy trình lập pháp và quá
trình thực thi, kiểm soát pháp luật bằng hoạt động
soát tụng được thực hiện hàng năm nhằm rà soát
mọi hoạt động của cơ quan hành pháp để đảm
bảo tính công bằng và nhất quán trong quá trình
tố tụng.
Cơ quan thi hành pháp luật bằng chế tài xử
phạt thông qua các biện pháp trừng phạt được áp
dụng theo quy định của các quy phạm pháp luật.
Việc áp dụng các biện pháp trừng phạt bằng các
khung hình phạt được quy định rõ và rất cụ thể
trong Bộ luật.
Khi xét xử, việc cân nhắc mức độ và hiệu quả
của việc áp dụng hình phạt tương đồng với hành
vi phạm tội. Mọi hoạt động tố tụng đều được dự
liệu một cách chi tiết cụ thể và nhất quán khi áp
dụng pháp luật. Pháp luật còn đưa các chế tài
nhằm hạn chế thấp nhất các hành vi vi phạm
pháp luật của các quan lại được pháp luật trao
quyền tố tụng. Tất cả mọi hoạt động của quy
trình tố tụng đều được quy định thống nhất bằng
các điều luật.
Bản chất của pháp luật tố tụng nhà nước
phong kiến được xây dựng bởi các quyền cũng
như nghĩa vụ. Nhà nước quản lý xã hội bằng quy
định về trật tự pháp lý, mặc dù khoa học kỹ thật
chưa phát triển, nền kinh tế chủ yếu phát canh
nông, lâm, ngư nghiệp theo tiêu chí tự cấp tự túc,
nhưng những quy định đó là một trong những
thẩm quyền mà không có cơ cấu quyền lực nào
có được. Cũng từ đặc trưng đó, nhà nước phong
kiến thiết lập nên pháp luật tố tụng để bảo vệ
quyền lợi ích của giai cấp mình, xây dựng và
thúc đẩy xã hội phát triển.
4. Chính thể nhà nước quân chủ phong
kiến thiết lập nên pháp luật tố tụng phong
kiến Việt Nam
Về cơ cấu tổ chức hệ thống hành chính tư
pháp thời quân chủ phong kiến được thiết kế và
vận hành đồng bộ trong một hệ thống quản lý
trên mọi lĩnh vực kể cả an ninh và quốc phòng.
Việc xây dựng và điều hành cơ cấu hành chính
cũng đồng thời điều hành hoạt động của cơ quan
tố tụng. Cơ cấu này vừa có ưu điểm vừa có
nhược điểm. Ưu điểm cơ bản là tạo nên sự vận
hành thống nhất, đồng bộ và hiệu quả của bộ máy
nhà nước cả về hành pháp và tư pháp. Từ mục
tiêu, nguyên lý, quy tắc vận hành sao cho hiệu
quả và đồng thời xử lý vi phạm thành một thể
thống nhất. Quyền lực tập trung tạo nên sức
mạnh của chính quyền, cho phép giải quyết đối
với mọi tình huống. Nhược điểm là xuất phát từ
chính thể mang tính tập quyền, mọi quyết định
trong hoạt động xét xử đều nằm trong thẩm
quyền của người đứng đầu, đồng thời thống lĩnh
chính quyền, quyền hành lớn nên không tránh
khỏi mang tính chuyên chế. Do bản chất tập
quyền, quyền quyết định tối cao về lập pháp,
hành pháp và tư pháp đều thuộc về nhà vua nên
cơ cấu hành chính xét xử đều do nhà vua và quan
lại quyết định.
Trong cơ cấu các cơ quan tố tụng, mối quan
hệ giữa các cơ quan xét xử ở trung ương và địa
phương theo nguyên tắc cấp trên kiểm soát cấp
dưới, cấp dưới tuân thủ phục tùng cấp trên. Việc
thực thi các bản án có hiệu lực pháp luật được áp
dụng thi hành và dưới sự giám sát của các cơ
quan tra soát có thẩm quyền.
Trong hoạt động tố tụng thì vấn đề nhân sự
lựa chọn quan lại thực hiện tiến hành các hoạt
động tố tụng rất quan trọng và pháp luật thời kỳ
này cũng đã có những quy định cụ thể rõ ràng
thông qua việc tuyển bổ, khảo khóa, giám sát và
thưởng phạt theo quy định.
Về quy định tuyển bổ, khảo khóa, giám sát
và xử phạt quan xét xử thời Lê sơ, Lê Trịnh và
nhà Nguyễn.
Thứ nhất, về tuyển bổ các các chức danh
trong cơ quan xét xử
Trong chính thể quân chủ tập quyền, các
chức danh trong bộ máy hành chính đồng thời
đảm nhiệm chức năng xét xử. Quy trình và chế
độ tuyển bổ bao gồm các chế độ như: Nhiệm tử
theo chế độ tập ấm, ấm sung kiểu cha truyền con
nối; Bảo cử theo đề cử, tiến cử có sự bảo đảm
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
64
vào các chức vụ hoặc tiến cử lên vua; Khoa cử
theo quy định tuyển qua tổ chức thi Hương, thi
Hội, thi Đình hoặc nhà vua ban quan tước thông
qua chính sách “Nạp tiền thóc”.
Chế độ khoa cử PKVN đã được quy định từ
thời Lý Trần, sang thời Lê Nguyễn đã ban hành
những quy định rất chặt chẽ. Thời Lê Thánh
Tông, các văn bản sắc, lệnh, chỉ đều quy định về
việc tuyển bổ quan chức. Đối với quan xét xử,
thông lệ phải là người đỗ đạt trong các kỳ khoa
bảng, sau khi trải nghiệm công việc quản lý tại
các Nha môn từ 6 đến 9 năm, phải qua các kỳ sơ
khảo, tái khảo và thông khảo mới được bổ làm
quan xét xử các cấp từ địa phương đến trung
ương. Các chức vụ ở cơ quan xét xử trung ương,
chức Hiến ty, Án sát, Giám sát Ngự sử, các xứ
thừa tuyên và các tỉnh đều do nhà vua trực tiếp
lựa chọn và bổ dụng.
Nhìn chung, trong thời phong kiến quan xét
xử là những người có nhiều kinh nghiệm quản lý
về hành chính, quân sự, tư pháp. Thời Lê Thánh
Tông quy định ít nhất phải qua 2 kỳ khảo khóa là
6 năm làm quản lý hành chính.
Thứ hai, về khảo khóa, khảo xét quan lại
Thời nhà Lê, Nguyễn theo định kỳ: 1 năm
(hàng năm để kịp thời xếp hạng và thăng giáng,
gồm 4 hạng: ưu, bình, thứ, liệt), 3 năm kỳ sơ
khảo, 6 năm kỳ tái khảo, 9 năm kỳ thông khảo.
Một trong các tiêu chuẩn xếp hạng là việc xét xử
các vụ án không trái quy định của Bộ luật, không
bị kháng cáo phúc thẩm nhiều lần, không có oan
sai, bên cạnh các tiêu chuẩn về quản lý và thực
thi mệnh lệnh hành chính công vụ. Việc bổ
nhiệm căn cứ vào khảo khóa định kỳ hàng năm
và theo nhiệm kỳ sơ, tái, thông khảo để thực hiện
sàng lọc quan lại.
Thứ ba, về giám sát hoạt động tố tụng
Trong hệ thống cơ quan giám sát tố tụng triều
Lê, Nguyễn thì Ngự sử đài, Đô sát viện là cơ
quan giám sát quan chức hoạt động trong bộ máy
nhà nước, trong đó có chức quan Gián nghị đại
phu là chức quan luôn ở bên cạnh và được phép
can gián nhà vua.
Thời Lê, cơ quan và chức danh Ngự sử được
đề cao. Lê Thánh Tông đã lập một hệ thống cơ
quan “đàn hặc bách quan” để thực hiện phối hợp
nhiều chiều từ trung ương đến địa phương.
Ngự sử đài có chức Đô đài Ngự sử, Phó Đô
Ngự sử, có hệ thống 6 ty Giám sát mười ba xứ
thừa tuyên kiêm giám sát một số cơ quan ở trung
ương. Bên cạnh đó, Ngự sử còn phối hợp với Lục
khoa để giám sát Lục bộ, phối hợp với Hiến ty
kiểm soát các xứ. Cơ chế giám sát hoạt động tố
tụng, kiểm soát xét xử tuân theo nguyên tắc cấp
trên trực tiếp kiểm soát cấp dưới và được thực
hiện theo 3 cấp: nhà vua giám sát các cơ quan
trung ương; Ngự sử đài, Đô sát viện giám sát các
cơ quan địa phương thuộc tỉnh: phủ, tỉnh, ty; cấp
tỉnh giám sát cấp huyện, châu, lộ, trấn.
Theo quy định của pháp luật thời Lê: Nếu 3
cấp đều xử như nhau thì đương sự không được
khiếu kiện nữa. Nếu quan đã xét xử đúng mà
đương sự còn cố phúc tụng hoặc kêu oan thì luật
định rõ “tiền tạ lỗi” đương sự phải nộp phạt. Nếu
quan xét xử sai nhầm, kết án oan thì phải tự chịu
trách nhiệm bồi thường cho các đương sự, đồng
thời phải chịu chế tài hình sự và hành chính căn
cứ vào mức độ vi phạm.
Thời Lê Sơ Lê Thánh Tông, trong QTHL, bổ
sung về chế độ soát tù, về thi hành án cuối năm
cũng được nhà vua chú trọng, khi đó, chức năng
giám sát hành chính tư pháp trong chính thể quân
chủ chuyên chế được tăng cường. Đến thời Lê
Trịnh việc kiểm soát xét xử đã được xây dựng
khá hoàn chỉnh với “Chế độ loát tụng hàng năm”.
Việc kiểm soát theo các cấp hành chính và các
vụ việc xử đúng sai, có khiếu nại hoặc không có
khiếu nại, về số tiền tạ và tiền phạt được tổng kết
theo năm, nhà nước căn cứ vào đó để xếp hạng
và thưởng phạt quan chức.
Thứ tư, về thưởng phạt quan chức
Quy định pháp luật về thưởng phạt quan lại
xét xử thường được kiểm soát theo chế độ công
vụ. Trong trường hợp cá biệt nhà vua sẽ trực
tiếp ban lệnh thưởng đối với quan lại có công.
Thông lệ là thưởng tiền, vàng bạc, vinh hàm,
chức vụ, bổng lộc, gia nô, đất đai, nhà ở. Pháp
luật phong kiến rất chú trọng các chế tài phạt
đối với quan lại. Hình phạt được quy định rất rõ
trong các Bộ luật. (Xem tiếp trang 70)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_de_ly_luan_ve_phap_luat_to_tung_cua_nha_nuoc_phong_kien.pdf