Thứ hai, sử dụng các khoản vốn vay, đặc
biệt là các khoản vay ưu đãi để khuyến
khích đầu tư, cung cấp những dịch vụ
công có chất lượng cao hơn, giúp cho
người nghèo và các nhóm yếu thế tiếp cận,
hưởng lợi nhiều hơn từ các khoản đầu tư.
Điều này đồng nghĩa với việc đảm bảo đầu
tư tăng trưởng kinh tế tạo thu nhập của
người nghèo tăng nhiều hơn, người nghèo
được hưởng nhiều hơn những dịch vụ
công nhằm góp phần giảm nhanh tỷ lệ hộ
nghèo. Bên cạnh đó, người nghèo và nhóm
người nghèo dễ bị tổn thương cũng cần
được tạo cơ hội tham gia, chủ động đối
với các hoạt động phát triển kinh tế, giảm
nghèo cho bản thân và địa phương mình.
Thứ ba, phân phối nợ công đang diễn ra
sự bất bình đẳng giữa các vùng miền, do
đó, các hoạt động đầu tư công cần được
cải thiện hơn nữa nhằm nâng cao hiệu
quả các dự án đầu tư công, cải thiện môi
trường, cuộc sống của người dân. Cân đối
các khoản giải ngân ODA cũng cần hướng
đến các tỉnh vùng sâu, xa, vùng khó khăn.
Thực hiện phân bổ vốn đầu tư, đặc biệt là
các khoản vốn vay một cách hợp lý, ưu
tiên đối với địa phương, vùng miền gặp
nhiều khó khăn , hướng đến người nghèo,
đảm bảo gánh nặng nợ không còn là nỗi lo
của mỗi người dân.
Thứ tư, thực hiện chính sách an sinh xã
hội đối với những khu vực kém phát triển
và đối với người nghèo. Điều này có thể
thực hiện thông qua nhiều kênh như thực
hiện các chương trình trợ giúp về phát
triển cơ sở hạ tầng, đất đai, vốn, các trợ
giúp về dạy nghề, tạo việc làm, truyền đạt
kinh nghiệm sản xuất, đồng thời, thực hiện
các ưu đãi về y tế, giáo dục, văn hoá, nhà
ở Do vậy, trong quá trình tăng trưởng
kinh tế, cần kiểm soát thường xuyên, chặt
chẽ các chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội,
trong đó trọng tâm là xoá đói giảm nghèo,
giảm bất bình đẳng thu nhập.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 299 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề nợ công và bất bình đẳng thu nhập: Lý thuyết đến thực tiễn tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
21
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 216- Tháng 5. 2020
Vấn đề nợ công và bất bình đẳng thu nhập: Lý thuyết
đến thực tiễn tại Việt Nam
Lê Thị Diệu Huyền
Học viện Ngân hàng
Ngày nhận: 13/12/2019 Ngày nhận bản sửa: 10/01/2020 Ngày duyệt đăng: 05/02/2020
Những năm qua đã chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ nợ công của các quốc
gia thông qua đẩy mạnh việc vay nợ nhằm thực hiện đầu tư bắt kịp tốc độ
tăng trưởng kinh tế thế giới. Tuy nhiên, việc gia tăng nợ công không được
kiểm soát có thể trở thành một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng
đói nghèo và gia tăng bất bình đẳng. Trong nghiên cứu của Oxfarm (2017)
đã chỉ ra con số, 8 tỷ phú đã sở hữu khối tài sản tương đương với một nửa
người nghèo trên thế giới (khoảng 3,6 tỷ người). Lý do được đề cập ở đây
chính sự phát triển của kinh tế đem lại lợi ích cho những người giàu nhất,
bộ phận còn lại của xã hội, đặc biệt là những người nghèo dường như lại
không được hưởng lợi. Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới (WB) năm
2018, hệ số GINI của Việt Nam đã đạt mức khoảng 0,4. Điều đáng lo ngại
là bất bình đẳng thu nhập tăng trong hai thập kỷ qua và số người giàu đang
chiếm phần thu nhập quá lớn. Gánh nặng nợ công càng gia tăng trên vai
người dân trong khi đó xu hướng gia tăng khoảng cách giàu nghèo càng
trở nên trầm trọng. Bài viết dựa trên cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa
nợ công và bất bình đẳng thu nhập, từ đó phân tích các khía cạnh tác động
của nợ công đến tình trạng bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam. Qua đó, đề
xuất quản lý nợ công gắn với tăng trưởng kinh tế - xã hội, vay nợ công phải
Public debt and Income inequality: From theory to pratice in Vietnam
Abstract: Over the past few years, there has been a dramatic increase in public debt of countries. However,
uncontrolled increase in public debt may cause poverty and income inequality. In Vietnam, income inequality
has increased over the past two decades when the burden of public debt has been increasing on the shoulders
of each people. The paper shows the relationship between public debt and income inequality, then analyzing
the impact of public debt on income inequality in Vietnam. Therefore, management of public debt need to
associate with socio-economic growth, public debt must be used to invest to stimulate economic growth, loans
must to be used efficiently and coordinating in policy to distribute public resources towards the millennium
goal of eradicating poverty and social equality.
Keywords: Public debt, Income inequality, Economic growth
Huyen Thi Dieu Le
Email: huyenltd@hvnh.edu.vn
Banking Academy of Vietnam
Vấn đề nợ công và bất bình đẳng thu nhập: Lý thuyết đến thực tiễn tại Việt Nam
22 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
được sử dụng để đầu tư kích thích tăng trưởng kinh tế, sử dụng vốn vay hiệu
quả, phối hợp đồng bộ trong điều hành chính sách nhằm phân phối nguồn
lực công hướng tới mục tiêu thiên niên kỉ là xóa đói giảm nghèo, đảm bảo
công bằng xã hội.
Từ khóa: Nợ công, bất bình đẳng thu nhập, tăng trưởng kinh tế.
1. Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa
nợ công và bất bình đẳng thu nhập
Nghiên cứu trong nước và nước ngoài
cho thấy vấn đề bất bình đẳng và nợ công
có những mối quan hệ cụ thể khác nhau,
các nghiên cứu đều cho thấy các kênh
truyền dẫn tác động của nợ công đến bất
bình đẳng thu nhập thông qua tăng trưởng
kinh tế, giá tài sản, lãi suất, chi tiêu công,
thuế...
Một số nghiên cứu cho rằng bất bình
đẳng thu nhập đang ngày càng gia tăng,
nợ công có thể làm trầm trọng hơn vấn
đề này. Nghiên cứu của Cơ quan Nghiên
cứu quốc gia Mỹ (NBER, 2014) đối với
44 quốc gia, đã kết luận rằng tăng trưởng
kinh tế sẽ giảm trung bình 4% khi nợ công
vượt ngưỡng 90% GDP; về mặt xã hội,
khủng hoảng nợ công gây ra thất nghiệp,
bất ổn và bất bình đẳng. Điều này cho
thấy, gia tăng nợ công khiến tăng trưởng
kinh tế giảm, gia tăng bất ổn, thất nghiệp
tăng sẽ làm gia tăng bất bình đẳng trong
xã hội. Nghiên cứu của Victor Amourreux
(2014) đưa ra kết luận rằng cuộc khủng
hoảng nợ công tại Anh vào thế kỉ thứ 19
đã dẫn đến việc tài sản được chuyển từ
tầng lớp có thu nhập thấp và trung bình
sang tầng lớp có thu nhập cao do Chính
phủ tăng thuế nhằm tạo nguồn thu để trả
nợ. Bên cạnh đó, để giải quyết gánh nặng
nợ, Chính phủ phải cắt giảm ngân sách
hỗ trợ cho các chương trình xã hội như
giáo dục, y tế, làm giảm cơ hội tiếp
cận các dịch vụ công của người có thu
nhập thấp, khiến bất bình đẳng gia tăng.
Ngoài ra, nghiên cứu của Domaski và
cộng sự (2016) phát hiện sự gia tăng bất
bình đẳng thu nhập hộ gia đình tại các
nước phát triển bằng cách xem xét tác
động của vay nợ lên giá tài sản và nợ của
hộ gia đình, nghĩa là tác động của nợ lên
bất bình đẳng ảnh hưởng thông qua chính
sách tiền tệ như lãi suất và giá tài sản, điều
này đồng nghĩa với mức lãi suất thấp và
tăng giá trái phiếu Chính phủ là nhân tố
gia tăng bất bình đẳng. Trong nghiên cứu
của Azzimonti và cộng sự (2012) cũng
phân tích mối quan hệ giữa nợ công, hội
nhập tài chính quốc tế và bất bình đẳng
thu nhập ở các quốc gia OECD cho thấy
Chính phủ có xu hướng duy trì nợ công
cao khi thị trường tài chính hội nhập quốc
tế sâu hơn và bất bình đẳng thu nhập gia
tăng. Cùng với kết quả đó, nghiên cứu của
Chatzouz (2014) và Floden (2011) phân
tích ở một số quốc gia khi thị trường tài
chính chưa phát triển thì việc gia tăng nợ
Chính phủ tác động thông qua nhiều yếu
tố, trong đó nhấn mạnh về tác động tổng
thể. Ông cho rằng, khi Chính phủ sử dụng
thuế để trả nợ sẽ ảnh hưởng tới hành vi tiết
kiệm của người nghèo, có nghĩa là điều
chỉnh nợ có thể ảnh hưởng tới thu nhập
và tiết kiệm của người nghèo, vấn đề liên
quan tới tái phân phối các khoản nợ.
Một số nghiên cứu khác cho thấy những
tác động ngược chiều về việc gia tăng bất
bình đẳng thu nhập có thể ảnh hưởng đến
LÊ THỊ DIỆU HUYỀN
23Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
mức nợ công thông qua kênh tăng trưởng
kinh tế. Nghiên cứu của Tibi (2015) cho
thấy bất bình đẳng thu nhập có tác động
dương đến mức nợ công của quốc gia ở
hầu hết các quốc gia ngoại trừ các quốc
gia ở Châu Âu và các nước phát triển.
Ngược lại, quy mô nợ công cũng có ảnh
hưởng có ý nghĩa đến vấn đề phân phối
thu nhập. Kết quả này làm nảy sinh câu
hỏi về khả năng kiểm soát nợ của Chính
phủ để giảm bất bình đẳng thu nhập.
Trong nghiên cứu của Aksman (2017)
cũng xem xét tác động của đói nghèo và
bất bình đẳng thu nhập lên nợ công ở các
quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu. Kết
quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ nhất
định giữa cả đói nghèo và bất bình đẳng
thu nhập với tỷ lệ nợ công/GDP. Cùng
với đó, Hoàng Thủy Yến (2015) nghiên
cứu tác động của bất bình đẳng thu nhập
đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam cũng
chỉ ra một số nguyên nhân của bất bình
đẳng thu nhập như đặc trưng của nhóm
dân số, sự khác biệt về địa lý, sự khác biệt
về các động lực tăng trưởng nông nghiệp
và phi nông nghiệp giữa các vùng, những
thay đổi trong mô hình sản xuất, từ công
việc, tay nghề thấp đến công việc có kỹ
năng cao. Do vậy, bất bình đẳng sẽ ảnh
hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên, nghiên cứu này chưa xem xét liệu
có tác động đến vấn đề nợ công ra sao
khi tăng trưởng kinh tế sụt giảm. Trong
nghiên cứu của Lê Quốc Hội (2008) cho
thấy bất bình đẳng thu nhập có thể xuất
phát từ cơ cấu kinh tế, tức là phân bổ thu
nhập không cân bằng, tham nhũng, nợ
công quá nhiều, nền kinh tế không có hiệu
quả, thiếu những nguồn lực có thể trả nợ.
Bên cạnh đó, nghiên cứu của Nguyễn
Thị Hằng (2003) về các nguyên nhân của
nghèo đói và bất bình đẳng tại Thành phố
Hồ Chí Minh (TP. HCM) cho thấy, dù tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng quá trình
phát triển và mở cửa nền kinh tế của TP.
HCM cũng đã tác động tiêu cực đến người
nghèo. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ
đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn
thấp, vốn đầu tư xây dựng cơ bản ngành
nông lâm thủy sản của thành phố thấp.
Tăng trưởng kinh tế giúp xóa đói giảm
nghèo trên diện rộng nhưng cải thiện tình
trạng thu nhập của người nghèo lại phụ
thuộc vào mô hình tăng trưởng kinh tế.
Người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh
tế nhiều hơn người nghèo và như vậy đã
làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo
giữa nội thành và ngoại thành.
Một số nghiên cứu cho thấy những tác
động chưa rõ ràng của nợ công đến bất
bình đẳng thu nhập. Nghiên cứu của
Sigrid và cộng sự (2017) cho rằng tác
động của nợ công đến chênh lệch giầu
nghèo phụ thuộc nhiều vào mức độ chênh
lệch giầu nghèo. Nếu mức chênh lệch giàu
nghèo càng lớn thì nợ công có tác động
mạnh đến phân hóa giàu nghèo trong dài
hạn, đối với mức chênh lệch giàu nghèo
chưa rõ rệt thì nợ công có mức độ tác
động ít hơn. Nghiên cứu ở các quốc gia
Nam Á, Akram (2016) đã chỉ ra mặc dù
nợ công có tác động tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế nhưng nợ công nước ngoài
không có tác động đến bất bình đẳng thu
nhập. Tuy nhiên, nợ công trong nước thì
có mối quan hệ dương với hệ số GINI, do
đó nợ trong nước tác động xấu đến người
nghèo thông qua tăng trưởng kinh tế. Kết
quả này tương đồng với kết quả nghiên
cứu của Salti (2011) tại 109 quốc gia trong
giai đoạn 1990- 2007 cho thấy nợ công
trong nước đã tác động đến việc phân phối
thu nhập và từ đó càng làm gia tăng gánh
nặng nợ đối với người nghèo.
Các nghiên cứu cho thấy vấn đề bất bình
đẳng và nợ công có những mối quan hệ
Vấn đề nợ công và bất bình đẳng thu nhập: Lý thuyết đến thực tiễn tại Việt Nam
24 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các kênh
truyền dẫn như tăng trưởng kinh tế, thuế,
chi tiêu công, lãi suất, giá tài sản...Vì thế,
với qui mô và tốc độ gia tăng nợ công lớn,
không kiểm soát một cách chặt chẽ, cũng
như việc phối hợp chính sách tài khóa,
chính sách tiền tệ trong phân bổ nguồn lực
công không nhịp nhàng có thể khiến gia
tăng bất bình đẳng trong xã hội.
2. Nợ công và bất bình đẳng thu nhập ở
Việt Nam
Qui mô và tốc độ tăng giảm nợ công có xu
hướng tương đồng với sự gia tăng và cải
thiện về bất bình đẳng thu nhập
Sau khi Luật Quản lý nợ công lần đầu tiên
tại Việt Nam được thông qua và có hiệu lực
năm 2010, nợ công có xu hướng ngày càng
tăng nhanh cả về qui mô và tốc độ và có xu
hướng chững lại trong 2 năm trở lại đây.
Từ năm 2010, nợ công Việt Nam ở mức
56,3% GDP, tăng liên tục tới 63,7% năm
2016 và có xu hướng giảm dần trong hai
năm trở lại đây và ở mức 58,4% GDP năm
2018. Trong khi đó, dư nợ Chính phủ năm
2010 ở mức 44,6% GDP tăng tới 52,7 năm
2016 và giảm xuống 50% năm 2018 và dư
nợ nước ngoài của quốc gia tăng nhanh từ
42,2% GDP năm 2010 lên tới 46% GDP
năm 2018, tiến sát mức trần mà Quốc hội
cho phép. Tốc độ tăng nợ công trung bình
cả giai đoạn khoảng 15- 17%, mặc dù
tốc độ tăng nợ trong hai năm trở lại đây
đã giảm. Theo đồng hồ nợ công toàn cầu
The Global Debt Clock, tỷ lệ nợ công trên
đầu người tại Việt Nam đang có xu hướng
gia tăng liên tiếp từ mức khoảng 15 triệu
đồng/người năm 2010 lên mức khoảng 32
triệu đồng/người năm 2018.
Trong khi đó, bất bình đẳng của Việt Nam
cũng có xu hướng tăng giảm cùng với nợ
công. Hệ số GINI theo thu nhập gia tăng
từ 0,42 năm 2012 lên 0,43 năm 2016 và
sau đó giảm xuống còn 0,42 năm 2018.
Điều này cho thấy, có sự tương đồng trong
toàn giai đoạn khi nợ công có xu hướng
giảm xuống thì hệ số GINI cũng có giảm
xuống trong hai năm trở lại đây. Mặc dù
mức giảm không nhiều nhưng cũng khẳng
định mức nợ công đang được điều chỉnh
giảm và xu hướng bất bình đẳng thu nhập
cũng đang được dần cải thiện, cho thấy
những dấu hiệu khả quan về mức độ bình
đẳng thu nhập.
So sánh với một số quốc gia Châu Á cho
thấy, hệ số GINI của Việt Nam đứng ở
mức trung bình, cao nhất là Trung Quốc
Hình 1. Tình hình nợ công Việt Nam giai đoạn 2010- 2018
Đơn vị: %
Nguồn: Tổng hợp từ Bản tin nợ công số 5,6,7,8- Bộ Tài chính, 2018* là số ước tính
LÊ THỊ DIỆU HUYỀN
25Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
với hệ số GINI là 0,51 và thấp nhất là
Lào với hệ số GINI là 0,36. Theo Cornia
và Court (2001), hệ số GINI nằm trong
khoảng 0,30- 0,45 là phạm vi bất bình
đẳng thu nhập trong vùng khá an toàn.
Với ngưỡng này, mức độ bất bình đẳng
thu nhập là chấp nhận được để đánh đổi
đạt mức tăng trưởng kinh tế cao. Dựa trên
số liệu GINI thực tế, có thể thấy rằng bất
bình đẳng thu nhập của Việt Nam vẫn nằm
trong vùng an toàn nhưng có xu hướng
tăng lên nếu không kiểm soát tốt.
Hiệu quả sử dụng các khoản nợ, cấu trúc
nợ an toàn, đảm bảo khả năng thanh toán
nợ có những tác động không nhỏ tới kích
thích đầu tư và cải thiện mức thu nhập cho
người dân
Trong tổng đầu tư vốn của Nhà nước vẫn
chủ yếu từ ngân sách (Hình 3) nhưng
cũng có xu hướng giảm dần thay thế bằng
nguồn vốn vay. Theo Tổng cục Thống kê,
giai đoạn 2010- 2018, ICOR của Việt Nam
giảm từ mức 6,42 năm 2016 xuống 6,11
năm 2017 và 5,97 năm 2018, bình quân
giai đoạn 2016- 2018, hệ số ICOR ở mức
6,17, thấp hơn so với hệ số 6,2 của giai
đoạn 2010- 2015. Kết quả này cho thấy
việc vay nợ tập trung đầu tư phát triển
kinh tế, mặc dù có sự cải thiện về hiệu quả
đầu tư nhưng hiệu quả sử dụng nợ công ở
Việt Nam chưa cao. Bên cạnh đó, một số
dự án vay lại từ nguồn vốn vay nước ngoài
của Chính phủ, dự án được Chính phủ bảo
lãnh khó khăn trong trả nợ. Tình trạng số
dự án được phê duyệt nhiều, điều chỉnh
tăng tổng mức đầu tư so với phê duyệt ban
đầu, giải ngân vốn vay vẫn còn chậm trễ,
các dự án, công trình thi công dở dang,
chuyển tiếp, kéo dài, chậm tiến độ... còn
nhiều. Điều này cùng với thiếu kỷ luật tài
chính trong đầu tư công, hoạt động của
các doanh nghiệp Nhà nước và các tập
đoàn lớn, dẫn đến đầu tư dàn trải, lãng phí,
thất thoát vốn đầu tư lớn. Một số dự án
đầu tư không trả được nợ, phải tái cơ cấu
nợ khiến gia tăng nghĩa vụ trả nợ trực tiếp
của Chính phủ.
Bên cạnh đó, theo số liệu của Bản tin nợ
công của Bộ Tài Chính, cấu trúc nợ công
Việt Nam chủ yếu vẫn là nợ Chính phủ
(trung bình khoảng 70% tổng nợ công),
nợ của Chính phủ bảo lãnh chủ yếu là
nợ của doanh nghiệp, của các tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước và khoản
vay nước ngoài chiếm khoảng 17%, nợ
của Chính quyền địa phương chiếm tỷ
trọng nhỏ khoảng 3%. Trong quá trình cơ
Hình 2. Hệ số GINI của Việt Nam giai đoạn 2008- 2018
Nguồn: Tổng hợp từ Wealth Distribution and Income Inequality by Country (2018)
Vấn đề nợ công và bất bình đẳng thu nhập: Lý thuyết đến thực tiễn tại Việt Nam
26 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
cấu lại danh mục nợ theo hướng an toàn
nhưng nợ nước ngoài vẫn chiếm tỷ trọng
đáng kể, trong đó vay ODA và các khoản
vay ưu đãi chiếm trên 90% danh mục
nợ vay nước ngoài, ODA chiếm khoảng
75%. Nếu trước năm 2010, thời gian trả
nợ trung bình đối với các khoản vay ODA
(bao gồm cả giai đoạn gia hạn) là 30- 40
năm với mức lãi suất khoảng 0,7- 0,8%/
năm. Đến giai đoạn sau 2010, thời gian trả
nợ giảm xuống còn 10- 20 năm và mức
lãi suất tối thiểu là 2%/năm. Bên cạnh
đó, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với
thu ngân sách không có sự biến động quá
lớn, nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ
và trả nợ vay về cho vay lại không xảy ra
tình trạng nợ quá hạn, các chỉ tiêu vẫn ở
trong phạm vi kiểm soát và giới hạn được
duyệt là 25% theo quy định của Quốc hội.
Tuy nhiên, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ
có xu hướng ngày càng tăng cả về con số
tuyệt đối lẫn tương đối, điều này gây áp
lực đối với việc sắp xếp nguồn để trả nợ
của ngân sách, khả năng cân đối nguồn bố
trí chi trả nợ hàng năm chưa tương xứng
với nghĩa vụ trả nợ đến hạn, vay đảo nợ
tăng nhanh với khối lượng lớn trong nhiều
năm, tiềm ẩn nguy cơ vỡ nợ nếu không
được kiểm soát tốt.
Hình 3. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư của khu vực Nhà nước giai đoạn
2010- 2018
Đơn vị: %
Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục Thống kê
2018* là số ước tính
Hình 4. Cơ cấu nợ công Việt Nam giai đoạn 2010- 2018
Đơn vị: %
Nguồn: Tổng hợp từ Bản tin nợ công số 5,6,7,8- Bộ Tài chính
2018* là số liệu ước tính
LÊ THỊ DIỆU HUYỀN
27Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Hơn nữa, từ tháng 7/2017, Việt Nam trở
thành quốc gia có thu nhập trung bình,
không còn là nước có thu nhập thấp nên
sẽ không được vay theo điều kiện ODA
mà tiến tới vay theo điều kiện thị trường,
áp lực gia tăng trả nợ càng cao. Trong khi
đó, nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế
ngày càng lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng,
tăng phúc lợi xã hội nhằm cải thiện đời
sống của người dân. Theo số liệu tổng
hợp từ Tổng cục Thống kê, thực tế hiện
nay ở Việt Nam, mức độ bất bình đẳng về
thu nhập ở hai khu vực thành thị và nông
thôn rất khác nhau. Cụ thể, thu nhập bình
quân đầu người/tháng ở thành thị năm
2010 mới chỉ là 2.130 nghìn đồng, sau đó
tăng lên đến 5.523 nghìn đồng năm 2018,
trong khi đó khu vực nông thôn tương
ứng là 762 nghìn đồng năm 2010 và 2.940
nghìn đồng năm 2018 (Hình 5). Từ năm
2016 xu hướng về mức độ bất bình đẳng
về thu nhập cũng dần được cải thiện giữa
khu vực thành thị và nông thôn cùng với
sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, xã hội,
thu nhập và mức sống của quốc gia. Tuy
nhiên, nếu như trước đây, bất bình đẳng
thu nhập ở khu vực thành thị thường cao
hơn nông thôn thì sau năm 2010, bất bình
đẳng thu nhập ở thành thị có xu hướng
giảm nhưng vẫn tăng nhanh hơn ở khu
vực nông thôn. Điều này cho thấy, cần lựa
chọn và chuẩn bị các dự án đầu tư công
đem lại hiệu quả để phát triển kinh tế- xã
hội bền vững, đồng thời nâng cao hiệu quả
sử dụng các khoản nợ, cấu trúc nợ công an
toàn sẽ đảm bảo nguồn thanh toán chi trả
nợ, sẽ góp phần thực hiện đầu tư cho các
chương trình phát triển kinh tế, cải thiện
đời sống, tăng thu nhập của người dân,
góp phần xóa đói giảm nghèo.
Khi các khoản nợ không được chi trả, việc
Chính phủ dự kiến tăng thuế, cùng với quá
trình đô thị hoá nhanh chóng dẫn đến phát
sinh nhiều vấn đề xã hội mới liên quan
đến bất bình đẳng như nông dân mất việc
làm, di cư lao động từ nông thôn ra thành
thị Cùng với đó các khoản chi tiêu công
tăng lên nhưng chưa thực sự giúp cho
người nghèo tiếp cận với các dịch vụ công
với chất lượng tốt, điều này khiến phân
hoá giàu nghèo ngày càng gia tăng. Bất
bình đẳng gia tăng, đòi hỏi nhà nước cần
phải có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ
đến năng cao hiệu quả sử dụng vốn vay
mà không làm gia tăng gánh nặng nợ đối
với người dân.
Phân bổ nguồn vốn vay đang tạo ra sự
bất bình đẳng giữa các vùng lãnh thổ, địa
phương, vùng miền
Hình 5. Thu nhập bình quân đầu người/tháng theo khu vực thành
thị- nông thôn ở Việt Nam giai đoạn 2010- 2018
Đơn vị: nghìn đồng
Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ Lao động thương binh xã hội
2018* là số liệu sơ bộ
Vấn đề nợ công và bất bình đẳng thu nhập: Lý thuyết đến thực tiễn tại Việt Nam
28 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
Theo báo cáo của Chính phủ năm 2018,
việc phân bổ vốn đầu tư từ nguồn vốn
vay nợ công còn dàn trải, phát sinh những
rủi ro từ các dự án sử dụng vốn dẫn đến
không trả được nợ, Chính phủ phải trả nợ
thay, thiếu gắn kết giữa quyết định đầu
tư với cân đối nghĩa vụ trả nợ, chưa gắn
trách nhiệm vay và trả nợ với việc phân
bổ, sử dụng nợ công... Bên cạnh đó, việc
huy động nguồn lực ODA chưa có chiến
lược, thiếu tập trung, chưa có trọng tâm,
trọng điểm. Tại nhiều địa phương cho
thấy, dự án có quy mô nhỏ lẻ, không mang
tính đồng bộ, chưa gắn kết với quy hoạch
tổng thể, kế hoạch, phân bổ vốn vay nhiều
trường hợp chưa sát với nhu cầu thực tế,
chất lượng kém. Tính đồng bộ, kết nối
của một số dự án chưa được chú trọng,
chưa có sức lan tỏa và kết nối vùng, miền.
Điều này dẫn tới chênh lệch về thu nhập
giữa nông nghiệp và công nghiệp, dịch
vụ, giữa thành thị và nông thôn, giữa lao
động trong các công ty nước ngoài và lao
động khu vực trong nước. Nếu so sánh
khoảng cách chi tiêu, thu nhập của người
giàu và người nghèo được đại diện bởi
nhóm 20% những người giàu nhất và 20%
những người nghèo nhất ở Việt Nam, sự
chênh lệch này đã và đang gia tăng liên
tục và đáng kể. Sự chênh lệch về thu nhập
tuyệt đối ở Việt Nam đang tăng lên nhanh,
tuy nhiên hiện tượng bất bình đẳng ở Việt
Nam không phải là hiện tượng người giàu
giàu lên, người nghèo nghèo đi mà là
người giàu giàu nhanh hơn người nghèo.
Thực tế cho thấy, thu nhập bình quân
đầu người của hộ nghèo đã tăng lên và tỷ
lệ hộ nghèo đã giảm mạnh. Cụ thể, tỷ lệ
hộ nghèo giảm nhanh qua các năm, nếu
năm 2010 cả nước có 14,2% số hộ nghèo
nhưng đến 2018, tỷ lệ này giảm xuống còn
5,4%. Trong khi đó, khu vực thành thị có
tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh và năm 2018
chỉ ở mức 1,88% thì ở khu vực nông thôn,
tỷ lệ này vẫn là 6,9%, chênh lệch tỷ lệ
nghèo giữa khu vực nông thôn và khu vực
thành thị khá lớn. Điều này cho thấy, tăng
thu nhập của người dân chưa bền vững,
có nghĩa là thu nhập bình quân đầu người
tăng lên nhưng khoảng cách thu nhập giữa
người giàu và người nghèo ngày càng lớn.
Quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc
tế, vay nợ để thực hiện đầu tư đã tạo ra
những thuận lợi cho một số vùng, một số
ngành và một số bộ phận dân cư trong nền
kinh tế. Tuy nhiên, việc định hướng chiến
lược ưu tiên của Chính phủ đối với những
địa phương nghèo vẫn chưa rõ ràng, có thể
tạo ra những lỗ hổng khiến cho chênh lệch
ngày càng lớn.
3. Một số khuyến nghị
Vay nợ để đầu tư góp phần tăng trưởng
kinh tế nhưng xa hơn là mở rộng khả năng
tiếp cận cho người nghèo hưởng lợi từ
tăng trưởng và phát triển kinh tế- xã hội.
Bảng 1. Tỷ lệ hộ nghèo khu vực thành thị, nông thôn của Việt Nam giai đoạn 2010- 2018
Đơn vị tính: %
Năm 2010 2012 2014 2016 2018*
Cả nước 14,2 11,1 8,4 5,8 5,4
Thành thị 6,9 4,3 3 2 1,88
Nông thôn 17,4 14,1 10,8 7,5 6,9
Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục Thống kê và Bộ Lao động thương binh xã hội
2018* là số liệu sơ bộ
LÊ THỊ DIỆU HUYỀN
29Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Do vậy, khi vay nợ công và thực hiện
phân phối tốt hơn nguồn lực công nhằm
giảm bất bình đẳng về thu nhập trong xã
hội, cần tập trung vào một số vấn đề sau:
Thứ nhất, quản lý nợ công gắn với kết
hợp tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công
bằng trong xã hội. Mô hình này xuất phát
từ nhu cầu tăng trưởng kinh tế đòi hỏi
phải có nguồn vốn lớn, vay nợ là điều
không thể tránh khỏi, nhưng việc gia tăng
nợ công phải được kiểm soát và phân bổ
vốn vay một cách hợp lý. Trong mô hình
này cần phát huy vai trò của khu vực Nhà
nước trong vấn đề định hướng và chiến
lược ưu tiên rõ ràng trong phân bổ vốn
vay, chỉ sử dụng vốn vay nước ngoài cho
các lĩnh vực, dự án đầu tư công trong nước
không đáp ứng được hoặc khu vực tư nhân
không có động lực đầu tư do không có lợi
nhuận hoặc một số lĩnh vực đặc thù cần
nhà nước đầu tư để kiểm soát. Còn các
ngành, lĩnh vực khác để tư nhân đầu tư
hoặc phối hợp công tư nhằm mở rộng sự
tham gia của các bên vào chiến lược xoá
đói giảm nghèo của quốc gia.
Thứ hai, sử dụng các khoản vốn vay, đặc
biệt là các khoản vay ưu đãi để khuyến
khích đầu tư, cung cấp những dịch vụ
công có chất lượng cao hơn, giúp cho
người nghèo và các nhóm yếu thế tiếp cận,
hưởng lợi nhiều hơn từ các khoản đầu tư.
Điều này đồng nghĩa với việc đảm bảo đầu
tư tăng trưởng kinh tế tạo thu nhập của
người nghèo tăng nhiều hơn, người nghèo
được hưởng nhiều hơn những dịch vụ
công nhằm góp phần giảm nhanh tỷ lệ hộ
nghèo. Bên cạnh đó, người nghèo và nhóm
người nghèo dễ bị tổn thương cũng cần
được tạo cơ hội tham gia, chủ động đối
với các hoạt động phát triển kinh tế, giảm
nghèo cho bản thân và địa phương mình.
Thứ ba, phân phối nợ công đang diễn ra
sự bất bình đẳng giữa các vùng miền, do
đó, các hoạt động đầu tư công cần được
cải thiện hơn nữa nhằm nâng cao hiệu
quả các dự án đầu tư công, cải thiện môi
trường, cuộc sống của người dân. Cân đối
các khoản giải ngân ODA cũng cần hướng
đến các tỉnh vùng sâu, xa, vùng khó khăn.
Thực hiện phân bổ vốn đầu tư, đặc biệt là
các khoản vốn vay một cách hợp lý, ưu
tiên đối với địa phương, vùng miền gặp
nhiều khó khăn , hướng đến người nghèo,
đảm bảo gánh nặng nợ không còn là nỗi lo
của mỗi người dân.
Thứ tư, thực hiện chính sách an sinh xã
hội đối với những khu vực kém phát triển
và đối với người nghèo. Điều này có thể
thực hiện thông qua nhiều kênh như thực
hiện các chương trình trợ giúp về phát
triển cơ sở hạ tầng, đất đai, vốn, các trợ
giúp về dạy nghề, tạo việc làm, truyền đạt
kinh nghiệm sản xuất, đồng thời, thực hiện
các ưu đãi về y tế, giáo dục, văn hoá, nhà
ở Do vậy, trong quá trình tăng trưởng
kinh tế, cần kiểm soát thường xuyên, chặt
chẽ các chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội,
trong đó trọng tâm là xoá đói giảm nghèo,
giảm bất bình đẳng thu nhập.
Thứ năm, phối kết hợp công cụ chính
sách pháp luật, quy hoạch, chính sách
phân phối cùng với tài khóa và tiền tệ góp
phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền
vững, bảo đảm công bằng xã hội.
Chính vì vậy, từ nghiên cứu lý thuyết cho
đến cơ sở thực tiễn tại Việt Nam cho thấy
gia tăng nợ công, sử dụng các khoản nợ
không hiệu quả có những tác động không
nhỏ tới kích thích đầu tư và cải thiện mức
thu nhập cho người dân. Bên cạnh đó, phân
bổ vốn vay không phù hợp, không trả được
nợ có thể khiến tình trạng chênh lệch về thu
Vấn đề nợ công và bất bình đẳng thu nhập: Lý thuyết đến thực tiễn tại Việt Nam
30 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
nhập giữa các địa phương và gia tăng tình
trạng bất bình đẳng thu nhập. Qua đó, đề
xuất quản lý nợ công gắn với tăng trưởng
kinh tế, vay nợ công phải được sử dụng để
đầu tư, phân bổ và sử dụng vốn vay hiệu
quả, phối hợp trong điều hành chính sách
nhằm phân phối nguồn lực công hướng tới
mục tiêu là xóa đói giảm nghèo, đảm bảo
công bằng xã hội ■
Tài liệu tham khảo
1. Aksman, E. (2017). Do Poverty and Income Inequality Affect Public Debt? Gospodarka Narodowa, (6), 79-93.
2. Akram, N. (2016). Public debt and pro-poor economic growth evidence from South Asian countries. Economic research-
Ekonomska istraživanja, 29(1), 746-757.
3. Azzimonti, M., De Francisco, E., & Quadrini, V. (2012). Financial globalization, inequality, and the rising public debt.
American Economic Review, 104(8), 2267-2302.
4. Bộ Tài chính, Bản tin Nợ công số 5,6,7,8, năm 2016, 2017, 2018, 2019.
5. Chính phủ (2018), Quyết định số 195/BC-CP ngày 17/5/2018 về báo cáo sử dụng vốn vay và quản lý nợ công năm 2017
và kế hoạch năm 2018.
6. Chatzouz, M. (2014). Government Debt and Wealth Inequality: Theory and Insights from Altruism.
7. Cornia and Court (2001), Inequality, Growth and Poverty in the Era of Liberlization and Globalization”, UNU-WIDER,
No. 4. Helsinki: United Nations University.
8. Domanski, M. Scatigna, A, Zabai (2016), Wealth inequality and monetary policy.
9. Floden, M. (2001). The effectiveness of government debt and transfers as insurance. Journal of Monetary Economics,
48(1), 81-108.
10. Hoàng Thủy Yến (2015), tác động của bất bình đẳng thu nhập đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Luận án tiến sĩ.
11. Lê Quốc Hội (2008), The Linkages between Growth, Poverty and Inequality in Vietnam: An Empirical.
12. Nguyễn Thị Hằng (2003), Các nguyên nhân của nghèo đói và bất bình đẳng tại Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ.
13. Oxfarm (2017), Báo cáo bất bình đẳng, Báo cáo Nghiên cứu chính sách 12/1/2017.
14. Salti, N. (2015), Income inequality and the composition of public debt. Journal of Economic Studies, 42(5), 821-837.
15. Sigrid Röhrs, S., & Winter, C. (2017). Reducing government debt in the presence of inequality. Journal of Economic
Dynamics and Control, 82, 1-20.
16. Tibi (2015), National debt and income inequality.
17. Victor Amourreux (2014), Public debt and its unequalizing effects, Master thesis disertation.
18. https://www.gso.gov.vn
19.
20. https://www.gfmag.com/global-data/economic-data/wealth-distribution-income-inequality
21. https://www-cdn.oxfam.org/s3fs-public/file_attachments/bp-economy-for-99-percent-160117-en.pdf
22. https://admin.nber.org/xsearch?q=public+debt+and+inequality+2014&whichsearch=ftpub&restrict_papers=yes&fullr
esults=1&datefilter=&b=search+again
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_de_no_cong_va_bat_binh_dang_thu_nhap_ly_thuyet_den_thuc.pdf