Cơ quan thi hành án với chức năng nhiệm
vụ pháp luật quy định chỉ thi hành các phán
quyết của Tòa án, nên mang tính chất hành
chính tư pháp. Do đó, hoạt động thi hành án
không thuộc phạm vi của quyền tư pháp và cơ
quan thi hành án không phải là cơ quan tư
pháp. Ngoài ra, hoạt động của tổ chức luật sư,
giám định, như tên gọi là hoạt động bổ trợ tư
pháp, góp phần bảo vệ công lý, nhưng các hoạt
động này được tiến hành bởi các tổ chức, cá
nhân bên ngoài, không được giao thực hiện
quyền lực nhà nước, nên không coi là hoạt
động thực thi quyền tư pháp.
Trong khi đó, Tòa án là chủ thể thực hiện
quyền tư pháp một cách “tuyệt đối” nên tham
gia trong mọi lĩnh vực để phân xử đưa ra phán
quyết bảo đảm sự công bằng, lẽ phải, bảo vệ
công lý theo quy định của pháp luật. Trong điều
kiện đất nước ta đang xây dựng nền tư pháp
phụng sự nhân dân, gần nhân dân, đáp ứng
những yêu cầu của nhân dân phải giải quyết
nhanh chóng những tranh chấp, sự việc phát
sinh để kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích của người
dân thì mức độ và phạm vi kiểm sát hoạt động
xét xử, giải quyết các vụ việc khác của Tòa án
cần được cụ thể hoá bằng văn bản pháp luật.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 299 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề thực hiện quyền tư pháp theo pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
14
1. Quyền tư pháp theo pháp luật Việt Nam
Nội dung cơ bản của thuyết tam quyền
phân lập là sự phân chia ba nhánh quyền lực,
trong đó lập pháp là biểu hiện ý chí chung của
quốc gia, thuộc về toàn thể nhân dân, được trao
cho hội nghị đại biểu nhân dân là Quốc hội.
Hành pháp là việc thực hiện luật pháp được
thiết lập. Tư pháp là để xử lý những hành vi vi
phạm pháp luật và giải quyết xung đột giữa các
cá nhân. Các thẩm phán được lựa chọn từ dân
và khi xử án chỉ tuân theo pháp luật. Ba nhánh
quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp), do
ba cơ quan khác nhau nắm giữ để không một
cá nhân hay tổ chức nào nắm trọn vẹn quyền
lực nhà nước. Điển hình như ở Mỹ, Nghị viện
nắm quyền lập pháp, Chính phủ, Tổng thống
nắm quyền hành pháp, Tòa án nắm quyền tư
pháp. Hoạt động của các cơ quan quyền lực
công có sự chuyên môn hóa, mỗi cơ quan chỉ
hoạt động nhằm thực hiện chức năng riêng của
mình, không làm ảnh hưởng tới hoạt động của
các cơ quan khác. Quyền lực giữa các cơ quan
này cân bằng nhau, không có loại quyền lực
nào vượt trội, lớn hơn quyền lực nào. Các cơ
quan quyền lực giám sát, kiềm chế, đối trọng
và chế ước lẫn nhau, để không một cơ quan
nào có khả năng lạm quyền.
Từ nguồn gốc hình thành trong học thuyết
tam quyền phân lập thì quyền tư pháp là quyền
xét xử, được thực hiện thông qua cơ quan có
chức năng xét xử là Tòa án. Đây là quyền áp
dụng các quy định của pháp luật có liên quan để
xác định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, hậu
quả pháp lý của các bên tham gia tranh chấp dựa
trên những tình tiết khách quan của vụ việc.
Quyền tư pháp gắn với Tòa án và chỉ Tòa án là
cơ quan duy nhất có chức năng thực hiện quyền
tư pháp, vì vậy, Tòa án còn được gọi là cơ quan
VẤN ĐỀ THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Trần Hồng Tình1
1 Thạc sỹ, Công ty luật Nhân dân Hà Nội
Tóm tắt: Quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền hành pháp tạo thành quyền lực
thống nhất của Nhà nước được quy định tại khoản 3 Điều 2 và khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm
2013. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến ở nước ta, quyền tư pháp và cơ quan thực thi quyền
tư pháp được quy định rõ. Tuy nhiên, khái niệm về quyền tư pháp vẫn chưa được định nghĩa hoặc
giải thích một cách chính thống. Vì vậy, chúng ta chỉ xác định quyền tư pháp trên cơ sở các quy
định hiện hành trong các văn bản luật như Luật Tổ chức Tòa án, các luật về tố tụng. Bài viết
này đề cập đến một số vấn đề về quyền tư pháp theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
Từ khóa: Quyền tư pháp, Hiến pháp, Quốc hội, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra.
Nhận bài: 05/10/2016; Hoàn thành biên tập:25/11/2016; Duyệt đăng: 20/12/2016
Implementation of judicial authorities under the Law of Vietnam
Abstract: That judicial power with legislative and executive powers forms unified power of
the State is stipulated in Clause 3 of Article 2 and Clause 1 of Article 102 of the Constitution
2013. It is the first time in the constitutional history in Vietnam, the judicial authority and
enforcement of judicial authority are clearly defined. However, the judicial power has not yet
been defined or explained orthodoxly. So, the judicial authorities are defined based on the
current provisions in the legislation such as the Law on Organization of Courts, the procedural
laws. This paper refers to some issues of judicial power under the current laws of Vietnam.
Keywords: Judicial power, The Constitution, The National Assembly, The Court, Procuratorate,
The Investigation Agency.
Received: Oct 05th, 2016; Editingcompleted: Nov 25th, 2016; Accepted for publication:
Dec 20 th, 2016.
Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
15
tư pháp và chỉ Tòa án mới là cơ quan tư pháp. Đó
là quan niệm phổ quát chung nhất được thừa
nhận một cách rộng rãi trên thế giới hiện nay.
Riêng ở Việt Nam, như chúng ta đều biết,
quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền
hành pháp tạo thành quyền lực thống nhất của
Nhà nước,Tại khoản 3 Điều 2 và khoản 1 Điều
102 Hiến pháp năm 2013 quy định:“Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp.”; “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực
hiện quyền tư pháp.”.
Như vậy, Lần đầu trong lịch sử lập hiến ở
nước ta, quyền tư pháp và cơ quan thực thi
quyền tư pháp được quy định rõ. Tuy nhiên,
khái niệm về quyền tư pháp vẫn chưa được
định nghĩa hoặc giải thích một cách chính
thống. Quyền tư pháp vì vậy, chúng ta chỉ xác
định được trên cơ sở các quy định hiện hành
trong các văn bản luật như luật tổ chức Tòa án,
các luật về tố tụng. Xoay quanh nội dung cơ
bản này, hiện nay có các nhóm quan điểm sau:
Một là: Quyền tư pháp được hiểu là hoạt
động xét xử của Tòa án và những hoạt động
của các cơ quan, tổ chức khác trực tiếp liên
quan đến hoạt động xét xử của Tòa án, nhằm
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế, trật
tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Theo
quan điểm này, quyền tư pháp được thực hiện
không chỉ bởi cơ quan xét xử (tòa án), mà cả
Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra và các
cơ quan trợ giúp tư pháp, như: Luật sư, Công
chứng, Giám định, Tư vấn pháp luật. Điều đó
được khẳng định tại Nghị quyết 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020.
Hai là: Quyền tư pháp là quyền mà Nhà
nước giao cho các cơ quan có thẩm quyền xem
xét, giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành
chính, kinh doanh, thương mại, lao động,
theo trình tự, thủ tục tố tụng tư pháp, bao gồm
các thủ tục tố tụng hình sự, thủ tục tố tụng dân
sự, thủ tục tố tụng hành chính, Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân ,
Cơ quan thi hành án đều thực hiện quyền tư
pháp theo những mức độ khác nhau. Việc thực
hiện quyền tư pháp của Tòa án gắn liền với
chức năng xét xử và chỉ thực hiện khi và chỉ
khi xét xử chứ không bao trùm cả chức năng
điều tra, chức năng công tố và chức năng kiểm
sát hoạt động tư pháp. Hoạt động thực hiện
quyền tư pháp của Tòa án nhân dân chỉ xảy ra
khi vụ việc được chuyển đến Tòa án xem xét,
giải quyết và hoàn toàn độc lập với hoạt động
điều tra của cơ quan điều tra, hoạt động thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp của Viện kiểm sát. Do vậy,
Quyền tư pháp được hiểu là tập hợp những
hoạt động cụ thể do cơ quan tư pháp thực hiện
trong tố tụng tư pháp, liên quan trực tiếp đến
việc giải quyết vụ án, các tranh chấp pháp luật,
hướng tới mục đích giải quyết các vụ án, tranh
chấp một cách khách quan, đúng đắn và các
hoạt động liên quan đến thi hành các phán
quyết của Tòa án mà các hoạt động đó thuộc
về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và
cơ quan thi hành án.
Ba là: Nói đến tư pháp là nói đến lĩnh vực
hoạt động xét xử của Tòa án và ngược
lại.Theo GS.TS Nguyễn Đăng Dung, “Tư
pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà nước,
được thực hiện thông qua hoạt động phân xử
và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của
các hành vi, các quyết định pháp luật khi có
sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa
các chủ thể pháp luật”2.
Theo đó, quyền tư pháp trước hết là quyền
xét xử, quyền kiểm tra, đánh giá, kết luận về
tính hợp pháp và có căn cứ của các quyết định,
hành vi tố tụng do các cơ quan tư pháp thực
hiện trong suốt quá trình tố tụng và thi hành
bản án, quyết định của Tòa án.
Tuy nhiên, chỉ riêng trong lĩnh vực tố tụng
hình sự, BLTTHS năm 2015 (có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/7/2016) vẫn quy định các Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền ban
2 Sách chuyên khảo “Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền”, NXB Tư pháp, 2004, trang 11.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
16
hành các quyết định có liên quan đến việc hạn
chế quyền con người, quyền công dân, trong
đó, đặc biệt là các quyền về tự do thân thể, nhà
ở, đồ vật, thư tín, bắt, tạm giữ, tạm giam, khám
xét nhà ở. Chẳng hạn, theo quy định tại các
điểm a, b khoản 1 Điều 113 BLTTHS năm
2015: Những người sau đây có quyền ra lệnh,
quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải
được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước
khi thi hành;
b) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân và Viện trưởng,Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát quân sự các cấp;
Tương tự như vậy, theo quy định tại khoản
1 Điều 193 BLTTHS năm 2015, những người
có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113
Bộ luật này, có quyền ra lệnh khám xét (khám
xét người, khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa
điểm, phương tiện , thu giữ thư tín, điện
tín,). Trong khi các quyền này có ảnh
hưởng lớn đến quyền con người, quyền công
dân, thì lại chưa được Quốc hội giao cho Tòa
án với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư
pháp phán quyết hoặc kiểm tra việc ra phán
quyết để bảo vệ quyền con người, quyền cơ
bản của công dân.
Trên thực tế, quyền tư pháp ở Việt Nam có
nghĩa rộng hơn nhiều, xuất phát từ đặc điểm tổ
chức bộ máy quyền lực nhà nước. Ở Việt Nam,
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông
qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là
những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân3 trong đó Quốc hội
là cơ quan quyền lực cao nhất. Suốt thời kỳ
xây dựng và phát triển đất nước từ năm 1945,
Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan
nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, “quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Như vậy, ở Việt Nam không có sự phân chia
quyền lực, vì vậy quyền tư pháp và cơ quan tư
pháp ở Việt Nam có nhiều nét đặc thù so với
nhiều quốc gia trên thế giới.
Hiện nay, chưa có một văn bản pháp luật
của Việt Nam chính thức xác định khái niệm
tư pháp, cơ quan tư pháp gồm những cơ quan
nào, nhưng điều này đã được thể hiện qua chủ
trương của Đảng nêu trong các Nghị quyết về
cải cách tư pháp và thông qua cách thức tổ
chức bộ máy nhà nước cùng với các hoạt động
thực thi quyền lực nhà nước. Nghị quyết số 08-
NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới (Nghị quyết số 08-NQ/TW)
lần đầu tiên tiếp cận khái niệm tư pháp và cơ
quan tư pháp dưới góc độ đường lối chính sách
của Đảng về công tác tư pháp. Theo đó, nội
dung của công tác tư pháp và cơ quan tư pháp
có phạm vi rất rộng, từ điều tra, truy tố, xét xử
đến thi hành án.
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 (Nghị quyết 49-NQ/TW) tiếp
tục chỉ ra hệ thống các cơ quan tư pháp mà
trọng tâm là Tòa án nhân dân thực hiện quyền
xét xử; Viện kiểm sát thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp; các cơ quan
điều tra thực hiện nhiệm vụ điều tra trong tố
tụng hình sự và các cơ quan thi hành án.
Ngoài những cơ quan tư pháp kể trên, Nghị
quyết 08-NQ/TW đề cập đến hoạt động luật sư,
cảnh sát tư pháp, tổ chức giám định, hoạt động
công chứng, thống kê tư pháp với tư cách là các
hoạt động bổ trợ tư pháp; Nghị quyết số 49-
NQ/TW xác định nhiệm vụ hoàn thiện các chế
định bổ trợ tư pháp này như một hoạt động quan
trọng trong công tác tư pháp và hoàn thiện các
chế định bổ trợ tư pháp là một khâu quan trọng
trong công tác cải cách tư pháp.
Như vậy, theo các nghị quyết của Bộ Chính
trị, các cơ quan tư pháp của Việt Nam gồm cơ
quan điều tra, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử
và cơ quan thi hành án. Theo đó công tác tư
pháp hay hoạt động tư pháp gồm hoạt động
3 Điều 4 Hiến pháp năm 1959, Điều 6 Hiến pháp năm 1980, Điều 6 Hiến pháp năm 1992.
Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
17
điều tra, hoạt động truy tố, hoạt động xét xử và
hoạt động thi hành án. Nếu ở nhiều nước, “Tư
pháp” là xét xử và cơ quan tư pháp là Tòa án
thì ở Việt Nam, “Tư pháp” được hiểu theo
nghĩa rộng là hoạt động bảo vệ pháp luật, trong
đó hoạt động xét xử của Tòa án là trung tâm.
Ngoài ra, còn có các hoạt động bổ trợ tư pháp
như luật sư, công chứng, đấu giá, giám định tư
pháp. Sự khác biệt giữa nhận thức, quan niệm
về tư pháp của Việt Nam và nhiều quốc gia trên
thế giới, xuất phát từ sự khác nhau giữa cách
thức tổ chức và quản lý xã hội. Nhiều nước trên
thế giới tổ chức bộ máy quyền lực để quản lý
xã hội theo học thuyết tam quyền phân lập,
trong đó có sự phân chia quyền lập pháp,
quyền hành pháp, quyền tư pháp; các quyền
này độc lập, cân bằng, có đối trọng và chế ước
lẫn nhau nhằm tránh sự lạm quyền, sự độc
quyền và độc tài; bảo đảm sự dân chủ, công
bằng, bảo đảm quyền và lợi ích của người dân
được thực thi theo quy định của hiến pháp và
pháp luật. Việt Nam không theo học thuyết này
mà tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, quyền lực nhà nước là thống
nhất và tập trung trong tay nhân dân; nhân dân
trao cho người đại diện là các cơ quan nhà nước
thực hiện quyền lực của mình, có sự phân công
và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện quyền lực ấy là quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Vì không có sự phân chia
quyền lực, nên từ góc độ này thì ở Việt Nam
không có quyền tư pháp theo nghĩa mà nhiều
nước trên thế giới hiện nay đang quan niệm.
Thực tế hiện nay có những cách hiểu khác
nhau về quyền tư pháp theo quy định của Hiến
pháp năm 2013. Rất nhiều vấn đề cần được tiếp
tục giải quyết như: Quyền tư pháp theo quy
định của Hiến pháp năm 2013 có nội hàm thế
nào? Quyền xét xử được giới hạn đến đâu và
có mối liên hệ thế nào với quyền điều tra,
quyền truy tố, quyền thi hành án? Những cơ
quan được xác định là cơ quan tư pháp (theo chủ
trương, đường lối của Đảng, thể hiện qua các
nghị quyết của Bộ Chính trị) nay có còn là cơ
quan tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm
2013 hay không? Hiện đang có các ý kiến, quan
điểm khác nhau, trong đó bao gồm cả cách hiểu
điều luật quy định về những vấn đề này. Có ý
kiến cho rằng, Hiến pháp năm 2013 quy định
Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư
pháp nhưng điều đó không khẳng định chỉ có
Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất thực hiện
quyền tư pháp hoặc quyền tư pháp ở Việt Nam
có nghĩa rất rộng, không phải chỉ là quyền xét
xử mà còn những quyền khác như quyền điều
tra, quyền truy tố, quyền thi hành án.
Thật ra,với đặc điểm tổ chức các cơ quan
nhà nước theo nguyên tắc tập trung thống nhất
thì việc phân định một cách rõ ràng cơ quan tư
pháp với các cơ quan khác liên quan đến hoạt
động tư pháp, dù chức năng, nhiệm vụ của các
cơ quan đã được quy định trong Hiến pháp hoặc
các văn bản pháp luật khác, cần thời gian để đạt
được sự thống nhất trong nhận thức, trong hoạt
động của các cơ quan liên quan đến tư pháp, phù
hợp với tinh thần mới của Hiến pháp năm 2013,
tiếp cận được với quan niệm về quyền tư pháp
của nhiều quốc gia trên thế giới. Việc hiểu đúng
về quyền tư pháp và cơ quan tư pháp trong bối
cảnh Hiến pháp mới đã được ban hành không
phải chỉ là những vấn đề lý luận mà có tác động
trực tiếp tới định hướng cải cách tư pháp và việc
thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp trong bối
cảnh hội nhập quốc tế ngày nay.
2. Cơ quan thực hiện quyền tư pháp theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Ở Việt Nam, việc tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước là theo nguyên tắc quyền
lực nhà nước là tập trung thống nhất, không
phân chia nhưng có sự phân công, phối hợp
giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Do vậy, việc quy định quyền tư pháp đã xuất
phát từ nguyên tắc đó và được ghi nhận trong
Hiến pháp năm 2013 là phù hợp với đặc thù về
thể chế chính trị, thực tế và truyền thống pháp
luật của Việt Nam. Như vậy, ở nước ta quyền
tư pháp thông qua hoạt động của nhiều cơ quan
như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án,
Cơ quan thi hành án và thiết chế bổ trợ tư pháp.
Quyền tư pháp chỉ là hoạt động xét xử của Tòa
án có một số điểm chưa hợp lý sau:
Một là, các quan điểm nói trên mới chỉ nói
đến chức năng và thẩm quyền xét xử của Tòa
án, mà chưa đề cập đến thẩm quyền nhiều mặt
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
18
khác của cơ quan này, bởi lẽ, ở nhiều quốc gia
khác, ngoài hoạt động xét xử, Tòa án còn thực
hiện nhiều hoạt động khác, như kiểm tra tính
hợp pháp và tính có căn cứ của các quyết định
mà cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền
giải thích, hướng dẫn, áp dụng pháp luật.
Hai là, nhận thức về quyền tư pháp theo
phương diện chủ thể thực thi quyền tư pháp bao
gồm cơ quan điều tra, Viện kiểm sát sẽ phân biệt
được rõ ràng chức năng hành pháp và chức năng
tư pháp. Các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát về
bản chất là cơ quan hành pháp và hoạt động của
các cơ quan này sẽ tham gia vào các vụ án hình
sự, trong khi đó, các vụ án không phải là hình sự
thì theo quy định của pháp luật nghĩa vụ chứng
minh thuộc về các đương sự, nên các cơ quan
điều tra sẽ không xuất hiện và chức năng thực
hiện quyền kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện
kiểm sát lại càng rất mờ nhạt.
Ba là, nếu coi chủ thể thực hiện quyền tư
pháp không chỉ là các cơ quan nhà nước mà còn
cả các tổ chức bổ trợ tư pháp, thì điều này dẫn
đến, quyền tư pháp không còn được hiểu đúng
theo nghĩa của một nhánh quyền lực trong
quyền lực Nhà nước của bộ máy Nhà nước.
Theo quy định khoản 1 Điều 102 Hiến
pháp năm 2013, như trên đã dẫn, việc cụ thể
hóa nội hàm về quyền tư pháp, xác định chính
danh Tòa là cơ quan thực hiện quyền tư pháp
trong văn bản pháp luật là điều rất cần thiết, từ
đó mới quy định đúng, đủ, chính xác chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án, tạo cơ
sở pháp lý cho Tòa án thực hiện có hiệu quả
quyền tư pháp, góp phần xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Qua nghiên cứu, theo quan điểm của người
viết, nội hàm của quyền tư pháp được xác định
bao gồm các lĩnh vực sau:
Thứ nhất, quyền tư pháp là xét xử và giải
quyết các việc khác theo quy định của pháp
luật; áp dụng, kiểm tra, hủy bỏ việc áp dụng
các biện pháp cưỡng chế Nhà nước hạn chế
quyền con người, quyền công dân đã được
Hiến pháp và pháp luật quy định; kiểm tra, kết
luận tính hợp pháp và có căn cứ của các hành
vi, quyết định tố tụng của cơ quan tố tụng,
người tiến hành tố tụng.
Thứ hai, xử lý vi phạm hành chính; xem xét
đề nghị của cơ quan quản lý nhà nước và quyết
định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
liên quan đến quyền con người; quyền cơ bản
của công dân theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, quyết định, giám sát việc thi hành
bản án, quyết định của Tòa án;
Thứ tư, trong quá trình xét xử vụ án, Tòa
án phát hiện và kiến nghị với cơ quan có thẩm
quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ
văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
UBTVQH;
Thứ năm, quyền kiểm soát việc thực hiện
các hoạt động tư pháp. Hiến pháp đã xác định
Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, thì
trong quá trình thực hiện quyền tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử, giải quyết các vụ
việc thuộc thẩm quyền, các hoạt động của cơ
quan, tổ chức tiến hành tố tụng hoặc hỗ trợ cho
tòa án trong việc thực hiện quyền tư pháp đều
phải chịu sự kiểm soát tư pháp của Toà án.
Từ những phân tích nội hàm quyền tư
pháp nêu trên, theo quan điểm của người viết,
quyền tư pháp được hiểu: Quyền tư pháp là
quyền lực nhà nước giao cho tòa án thực
hiện, bao gồm trước hết là quyền xét xử và
giải quyết các việc khác theo quy định của
pháp luật; áp dụng, kiểm tra, hoặc hủy bỏ
việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà
nước hạn chế quyền con người, quyền công
dân; áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
liên quan đến quyền con người, quyền cơ bản
của công dân theo quy định của pháp luật;
quyết định, giám sát việc thi hành bản án,
quyết định của Tòa án; hướng dẫn thống nhất
áp dụng pháp luật; kiểm soát hoạt động tư
pháp, hoạt động của cơ quan hành pháp theo
cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát việc
thực hiện quyền lực nhà nước và các quyền
khác bảo đảm để Tòa án thực thi quyền lực tư
pháp theo quy định của pháp luật.
Hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ
quan nhà nước bảo vệ pháp luật có trách nhiệm
duy trì, bảo vệ công lý và trật tự pháp luật,
trong đó, Tòa án với chức năng hiến định là xét
xử với vai trò trung tâm và thể hiện rõ nét nhất
Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
19
các đặc tính của quyền tư pháp. Hoạt động điều
tra, hoạt động thực hành quyền công tố được
thực hiện bởi các cơ quan hành pháp, bởi suy
cho cùng Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát về
bản chất thuộc cơ quan hành pháp, nên việc
sắp xếp các cơ quan này vào hệ thống các cơ
quan tư pháp là không hợp lý, hơn nữa, theo
khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013: “Viện
kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp”. Kiểm sát hoạt
động tư pháp mà thực chất là kiểm sát hoạt
động xét xử của Tòa án, là hình thức kiểm soát
quyền lực nhà nước, xuất phát từ nguyên tắc
độc lập xét xử. Theo quy định tại khoản 1 Điều
4 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014: “ Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát
tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư
pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết
vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành
chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi
hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác
theo quy định của pháp luật.” Vấn đề đặt ra,
kiểm soát quyền lực tư pháp thực hiện như thế
nào là hợp lý? Cách giải thích phù hợp với
Hiến pháp hiện nay là quyền kiểm soát hoạt
động xét xử, được Quốc hội giao cho Viện
kiểm sát với vai trò công cụ kiểm soát quyền
lực nhà nước nói chung, trong đó có quyền lực
tư pháp. Mà nếu như vậy, Viện kiểm sát phải
độc lập với hoạt động xét xử, hoạt động tố tụng
thì mới có thể kiểm sát hoạt động xét xử, kiểm
sát hoạt động tố tụng, nghĩa là Viện kiểm sát
phải đứng ngoài tư pháp, không phải là cơ
quan tư pháp. Mặt khác, cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát xuất hiện trong quan hệ tố tụng
trong từng lĩnh vực là khác nhau, cụ thể, trong
quan hệ tố tụng hình sự thì luôn luôn có sự
tham gia của các cơ quan này theo thẩm quyền
pháp luật quy định, nhưng với lĩnh vực dân sự,
lao động, kinh doanh, thương mại. Cơ quan
điều tra không tham gia, còn Viện kiểm sát chỉ
tham gia với chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp việc
thực hiện chức năng công tố với chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp chưa rõ ràng, nghĩa
là lúc nào thì Viên kiểm sát thực hiện quyền
công tố, khi nào thì Viện kiểm sát thực hiện
quyền kiểm sát hoạt động xét xử của Toà án.
Cơ quan thi hành án với chức năng nhiệm
vụ pháp luật quy định chỉ thi hành các phán
quyết của Tòa án, nên mang tính chất hành
chính tư pháp. Do đó, hoạt động thi hành án
không thuộc phạm vi của quyền tư pháp và cơ
quan thi hành án không phải là cơ quan tư
pháp. Ngoài ra, hoạt động của tổ chức luật sư,
giám định, như tên gọi là hoạt động bổ trợ tư
pháp, góp phần bảo vệ công lý, nhưng các hoạt
động này được tiến hành bởi các tổ chức, cá
nhân bên ngoài, không được giao thực hiện
quyền lực nhà nước, nên không coi là hoạt
động thực thi quyền tư pháp.
Trong khi đó, Tòa án là chủ thể thực hiện
quyền tư pháp một cách “tuyệt đối” nên tham
gia trong mọi lĩnh vực để phân xử đưa ra phán
quyết bảo đảm sự công bằng, lẽ phải, bảo vệ
công lý theo quy định của pháp luật. Trong điều
kiện đất nước ta đang xây dựng nền tư pháp
phụng sự nhân dân, gần nhân dân, đáp ứng
những yêu cầu của nhân dân phải giải quyết
nhanh chóng những tranh chấp, sự việc phát
sinh để kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích của người
dân thì mức độ và phạm vi kiểm sát hoạt động
xét xử, giải quyết các vụ việc khác của Tòa án
cần được cụ thể hoá bằng văn bản pháp luật./.
Tài liệu tham khảo
Hiến pháp năm 1959; Hiến pháp năm 1980;
Hiến pháp năm 1992; Hiến pháp năm 2013.
Nguyễn Đăng Dung, Sách chuyên khảo
“Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp
quyền”, NXB Tư pháp, 2004.
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020.
1Thạc sỹ, Công ty luật Nhân dân Hà Nội
2 Sách chuyên khảo “Thể chế tư pháp trong Nhà
nước pháp quyền”, NXB Tư pháp, 2004, trang 11.
3 Điều 4 Hiến pháp năm 1959, Điều 6 Hiến pháp
năm 1980, Điều 6 Hiến pháp năm 1992.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_de_thuc_hien_quyen_tu_phap_theo_phap_luat_viet_nam.pdf