MỤC LỤC
I. . MỞ ĐẦU3 3
II. . CƠ SỞ LÝ THUYẾT3 4
1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức3 4
2. . Phép biện chứng duy vật3 5
3. . Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến3 6
1.Khái quát về mối liên hệ phổ biến& 6
2.Các tính chất của mối liên hệ& 6
4. . Nguyên lý về sự phát triển3 7
1.Những quan niệm khác nhau về sự phát triển& 7
2.Tính chất của sự phát triển& 9
III. . VẬN DỤNG3 11
1. . Hoạt động hình thành và phát triển nhân cách học sinh3 11
2. Đối với học sinh đặc biệt3 13
3. Phối hợp các lực lượng giáo dục khác3 15
IV. . KẾT LUẬN3 16
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO3 17
I.MỞ ĐẦU
Khái niệm giáo dục được hiểu theo nghĩa rông là bao gồm cả quá trình giáo dục
kiến thức và giáo dục đạo đức. Tuy nhiên, hiện nay đa số giáo viên đều đặt nặng
việc dạy chữ mà xem nhẹ việc dạy làm người. Thậm chí, nếu có dạy đạo đức thì
cũng thiếu những kiến thức căn bản, nền tảng có thể dẫn đến những hậu quả xấu,
ảnh hưởng đến tâm lý của học sinh.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu triết học Mác - Lenin với tinh thần tiếp thu
và vận dụng vào thực tiễn, tôi nhận thấy có một số quan điểm của triết học Mác -
Lênin có thể áp dụng trong các công việc của một giáo viên dạy Vật lý. Vì vậy, tiểu
luận này với tên gọi “Vận dụng triết học Mác - Lênin vào hoạt động giáo dục nhân
cách của học sinh” sẽ tập trung vào làm rõ những vận dụng của triết học Mác -
Lenin với tư cách là phương pháp luận, kim chỉ nam hành động cho công tác hình
thành và phát triển nhân cách cho học sinh phổ thông.
17 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 9592 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vận dụng triết học mác - Lênin trong hoạt động giáo dục nhân cách học sinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
VẬN DỤNG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN TRONG
HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC NHÂN CÁCH HỌC SINH
(Tiểu luận Triết học dành cho học viên Cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành Triết học)
3 Giảng viên hướng dẫn: GS.TS. Vũ Tình
3 Học viên thực hiện: Tô Lâm Viễn Khoa
* MSHV: 0209441104
* Chuyên ngành Vật lý ứng dụng
*
TP Hồ Chí Minh, 9/2010
MỤC LỤC
I. .............................................................................MỞ ĐẦU3 3
II. .........................................................CƠ SỞ LÝ THUYẾT3 4
1. ................................................Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức3 4
2. ...................................................................Phép biện chứng duy vật3 5
3. .....................................................Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến3 6
1.Khái quát về mối liên hệ phổ biến& 6
2.Các tính chất của mối liên hệ& 6
4. .................................................................Nguyên lý về sự phát triển3 7
1.Những quan niệm khác nhau về sự phát triển& 7
2.Tính chất của sự phát triển& 9
III. .....................................................................VẬN DỤNG3 11
1. ...............Hoạt động hình thành và phát triển nhân cách học sinh3 11
2. ..................................................................Đối với học sinh đặc biệt3 13
3. ..........................................Phối hợp các lực lượng giáo dục khác3 15
IV. .....................................................................KẾT LUẬN3 16
V. ..................................................TÀI LIỆU THAM KHẢO3 17
3 2
I.MỞ ĐẦU
Khái niệm giáo dục được hiểu theo nghĩa rông là bao gồm cả quá trình giáo dục
kiến thức và giáo dục đạo đức. Tuy nhiên, hiện nay đa số giáo viên đều đặt nặng
việc dạy chữ mà xem nhẹ việc dạy làm người. Thậm chí, nếu có dạy đạo đức thì
cũng thiếu những kiến thức căn bản, nền tảng có thể dẫn đến những hậu quả xấu,
ảnh hưởng đến tâm lý của học sinh.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu triết học Mác - Lenin với tinh thần tiếp thu
và vận dụng vào thực tiễn, tôi nhận thấy có một số quan điểm của triết học Mác -
Lênin có thể áp dụng trong các công việc của một giáo viên dạy Vật lý. Vì vậy, tiểu
luận này với tên gọi “Vận dụng triết học Mác - Lênin vào hoạt động giáo dục nhân
cách của học sinh” sẽ tập trung vào làm rõ những vận dụng của triết học Mác -
Lenin với tư cách là phương pháp luận, kim chỉ nam hành động cho công tác hình
thành và phát triển nhân cách cho học sinh phổ thông.
3 3
II.CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò
quyết định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở
lại của ý thức đối với vật chất.
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, vật chất là cơ sở, cội
nguồn sản sinh ra ý thức. Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức, quyết định
nội dung và xu hướng phát triển của ý thức. Không có vật chất thì không thể có ý
thức bởi vì nguồn gốc của ý thức chính là vật chất trong đó bộ óc người là cơ
quan vật chất của ý thức, cơ quan phản ánh thế giới xung quanh, sự tác động
của thế giới khách quan vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý
thức. Lao động trong hoạt động thực tiễn, hoạt động sản xuất của cải vật chất và
ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết), cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình
thành tồn tại và phát triển của ý thức. Ngoài ra, ý thức chỉ có thể trở thành sức
mạnh vật chất, sức mạnh cải tạo hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn, bằng
việc khai thác, sử dụng hợp lý các điều kiện phương tiện vật chất cần thiết cho
hành động.
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định nhưng nó lại có tính độc lập tương đối
nhưng nó lại có tính độc lập tương đối, sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là
sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh sáng tạo chủ động, là quá
trình con người không ngừng tìm kiếm tích lũy những hiểu biết mới ngày càng
đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về mặt bản chất, quy luật vận động và phát triển sự vật .
Vì vậy, sau khi đã hình thành, ý thức có vai trò định hướng cho con người trong
việc xác định mục tiêu, phương hướng tìm ra biện pháp lựa chọn các phương án,
hành động tối ưu nhất và sử dụng các điều kiện vật chất cần thiết để làm biến đổi
chúng đạt đến mục tiêu đã đặt ra. Mặt khác sự tác động của ý thức đến vật chất
có thể theo hai khuynh hướng: Một là ý thức sẽ thúc đẩy cùng chiều đối với sự
phát triển của sự vật nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực, khách quan nếu con
người nhận thức đúng quy luật khách quan, có ý chí động cơ hành động đúng và
thông qua cơ chế tổ chức hoạt động phù hợp trong thực tiễn. Hai là ý thức kìm
3 4
hảm, cản trở, thậm chí phá hoại sự phát triển bình thường của sự vật nếu ý thức
phản ánh không đúng hiện thực khách quan, ý thức lạc hậu, phản khoa học, phản
động, nếu con người không có ý chí, không nhiệt tình, động cơ sai …Tuy vậy, sự
tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với mức độ nhất định, nó không thể
sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất.
Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
một nguyên tắc được rút ra, đó là nguyên tắc, khách quan. Nguyên tắc khách
quan trước nhất thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, nó đòi
hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ hiện thực
khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, “phải lấy thực thể
khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình”. Tuy nhiên, việc thực hiện
nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan điểm khách quan xem nhẹ, tính
năng động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phát phát huy tính năng động
sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan.
2.Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật
và phương pháp luận biện chứng. Chính vì vậy, nó đã khắc phục được những
hạn chế của phép biện chứng chất phác thời cổ đại và những thiếu sót của phép
biện chứng duy tâm khách quan thời cận đại. Nó đã khái quát đúng đắn những
quy luật cơ bản chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới. Phép biện
chứng duy vật trở thành một khoa học.
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những
nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn
hiện thực. Trong hệ thống đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về
sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Vì thế Ph.Ăngghen đã định nghĩa:
“phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của
sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
3 5
3.Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a.Khái quát về mối liên hệ phổ biến
Trong thế giới có vô vàn các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác
nhau. Vậy giữa chúng có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay
chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì
quy định mối liên hệ đó?
Quan điểm biện chứng cho rằng các sự vật, hiện tượng và các quá trình
khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn
nhau. Quan điểm duy vật biện chứng còn khẳng định tính thống nhất vật chất của
thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vât và hiện tượng. Các sự vật, hiện
tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu,
song chúng dều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống
nhất- thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập
tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo
những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện chứng khẳng
định rằng mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác động
qua lại sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt
của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới .
b.Các tính chất của mối liên hệ
Mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, vốn có của mọi sự
vật hiện tượng. Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng đang hàng ngày chịu sự
tác động của các sự vật hiện tượng khác (như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, áp suất
không khí ..., đôi khi cũng chịu sự tác động của con người). Con người - một sinh
vật phát triển cao nhất trong tự nhiên dù muốn hay không cũng luôn luôn bị tác
động của các sự vật, hiện tượng khác và các yếu tố ngay trong chính bản thân.
Ngoài sự tác động của tự nhiên, con người còn tiếp nhận sự tác động của xã hôị
và của những người khác. Chính con người và chỉ có con người mới tiếp nhận
vô vàn các mối mối liên hệ. Do vậy, con người phải hiểu biết các mối quan hệ,
3 6
vận dụng chúng vào hoạt động của mình, giải quyết các mối liên hệ phù hợp
nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và bản thân con người .
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính phổ biến:
- Thứ nhất , bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện
tượng khác. Không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
- Thứ hai , mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt tuỳ theo
điều kiện nhất định. Song dù dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện của
mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất những hình thức liên hệ riêng rẽ, cụ thể,
được các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu. Phép biện chứng duy vật chỉ nghiên
cứu những mối quan hệ chung nhất, bao quát nhất của thế giới. Bởi thế,
Ph.Ănghen viết: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”.
- Thứ ba, nghiên cứu mối liên hệ của các sự vật hiện tượng trong thế giới
còn nhìn thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó. Dựa vào tính đa dạng đó có thể
phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: mối liên hệ bên trong và
mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu; mối liên hệ bản
chất và mối liên hệ không bản chất; mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu
nhiên; mối liên hệ chung bao quát toàn thế giới và mối liên hệ riêng bao quát một
lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực của thế giới; mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ
gián tiếp; mối liên hệ giữa các sự vật và mối liên hệ giữa các mặt hay giữa các
giai đoạn phát triển của một sự vật để tạo thành lịch sử phát triển của sự vật.v.v.
Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển của bản thân sự
vật và hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ.Vì vậy, trong một sự vật
có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ chứ không phải chỉ có một cặp mối liên
hệ xác định.
4.Nguyên lý về sự phát triển
a.Những quan niệm khác nhau về sự phát triển
Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối lập với
nhau, quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng .
3 7
Quan điểm siêu hình xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi
đơn thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật. Những người
theo quan điểm siêu hình coi tất cả chất của sự vật không có sự thay đổi gì trong
quá trình tồn tại của chúng. Sự vật ra đời với những chất như thế nào thì toàn bộ
quá trình tồn tại của nó vẫn được giữ nguyên, hoặc nếu có sự thay đổi nhất định
về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra trong một vòng khép kín. Họ cũng coi
sự phát triển chỉ là sự thay đổi về mặt lượng của từng loại mà sự vật đang có
chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Những người theo
quan điêm siêu hình còn xem sự phát triển là một quá trình tiến lên liên tục không
có những bước quanh co, thăng trầm, phức tạp.
Quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp
đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của
cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự phát
triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà rất quanh co, phức
tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi
dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường
xoáy ốc. Điều đó có nghĩa là quá trình phát triển dường như sự vật ấy quay trở
về điểm khởi đầu song trên cơ sở mới cao hơn .
Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về
nguồn gốc của sự phát triển, khẳng định nguồn gốc của sự phát triển nằm trong
bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Nói cách khác,
đó là quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó cũng là
quá trình tự thân của mọi sự vật. Trái lại, những người theo quan điểm duy tâm
hay quan điểm tôn giáo lại thường tìm nguồn gốc của sự phát triển ở thần linh,
Thượng đế, các lực lượng siêu nhiên hay ở ý thức của con người .
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong
hiện thực, quan điểm duy vật biện chứng khẳng định sự phát triển là một phạm
trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
3 8
Theo quan điểm này, sự phát triển không bao quát toàn bộ sự vận động nói
chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của sự vận động, xu hướng vận động đi
lên của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Sự phát triển chỉ là
trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển, sự vật sẽ hình
thành những quy định mới cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi mối liên hệ, cơ cấu,
phương thức tồn tại và vận động của mình.
Sự phát triển thể hiện rất khác nhau trong hiện thực tuỳ theo hình thức tồn
tại cụ thể của từng dạng vật chất. Sự phát triển của giới vô cơ thể hiện ở dạng
biến đổi các yếu tố và hệ thống vật chất, sự tác động qua lại giữa chúng và trong
các điều kiện nhất định sẽ làm nảy sinh các hợp chất phức tạp. Từ đó cũng làm
xuất hiện các hợp chất hữu cơ ban đầu - tiền đề của sự sống. Trong giới hữu cơ,
sự phát triển thể hiện ở khả năng thích nghi của sinh vật với sự biến đổi phức tạp
của môi trường, ở sự hoàn thiện thường xuyên quá trình trao đổi chất giữa cơ
thể và môi trường ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng
cao hơn và từ đó làm xuất hiện ngày càng nhiều các giống loài mới phù hợp với
môi trường sống. Sự phát triển của xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự
nhiên và cải biến xã hội cũng như bản thân con người. Sự phát triển của mỗi con
người biểu hiện ở khả năng tự hoàn thiện mình cả về thể chất và tinh thần, phù
hợp với sự vận động và phát triển của môi trường trong đó có con người sinh
sống .
Như vậy, sự phát triển trong đó sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ là hiện
tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội, trong bản thân con
người, trong tư duy. Nếu xem xét từng trường hợp cá biệt thì có những vận động
đi lên, vận động tuần hoàn, thậm chí có vận động đi xuống. Song nếu xét cả quá
trình vận động với không gian rộng và thời gian dài thì quá trình vận động đi lên là
khuynh hướng chung của mọi sự vật.
b.Tính chất của sự phát triển
Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì như trên đã phân
tích, theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay
trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy
3 9
sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật, nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển.
Vì thế, sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn,
nguyện vọng, ý chí, ý thức con người. Dù con người có muốn hay không muốn,
sự vật vẫn phát triển theo khuynh hướng chung nhất của thế giới vật chất.
Sự phát triển mang tính phổ biến vì nó diễn ra ở mọi lĩnh vực của tự nhiên,
xã hội và tư duy, ở bất cứ sự vật hiện tượng nào của thế giới khách quan. Ngay
cả các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá trình vận
động và phát triển, hoặc đúng hơn, mọi hình thức của tư duy cũng luôn phát triển.
Chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm
và các phạm trù mới có thể phản ánh đúng hiện thực luôn vận động và phát triển.
Ngoài tính khách quan và tính phổ biến, sự phát triển còn có tính đa dạng
phong phú. Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi
hiện tượng, song mỗi sự vật hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống
nhau, tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau. Đồng thời trong quá
trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các hiện tượng khác,
của rất nhiều yếu tố khác. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng của phát triển của sự
vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi. Chẳng hạn, ngày nay trẻ em phát triển
nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí tuệ so với trẻ em ở thế hệ trước do chúng được
thừa hưởng những thành quả, những điều kiện thuận lợi mà xã hội mang lại. Hay
trong thời đại hiện nay, thời gian công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của các
quốc gia chậm phát triển và kém phát triển sẽ ngắn hơn nhiều so với các quốc gia
đã thực hiện chúng do được thừa hưởng kinh nghiệm và sự hỗ trợ của các quốc
gia đi trước. Song vấn đề còn ở chỗ, sự vận dụng kinh nghiệm và tận dụng sự hỗ
trợ đó như thế nào lại phụ thuộc rất nhiều vào các nhà lãnh đạo và nhân đân của
các nước chậm phát triển và kém phát triển.
Những điều kiện nêu ra ở trên cho thấy, dù sự vật hiện tượng có thể có
những giai đoạn vận động đi lên như thế này hoặc như thế khác nhưng xem xét
toàn bộ quá trình thì chúng vẫn tuân theo khuynh hướng chung.
3 10
III.VẬN DỤNG
Những quan điểm trên của Triết học Mác - Lenin có ý nghĩa phương pháp luận
trong việc giáo dục và hình thành nhân cách của học sinh. Phần này sẽ trình bày
về những vận dụng của Triết học Mác - Lenin đối với công việc giáo dục học sinh
của giáo viên.
1.Hoạt động hình thành và phát triển nhân cách học sinh
Một trong những nhiệm vụ chính của giáo viên phổ thông là hình thành và
phát triển nhân cách của học sinh. Khi thực hiện nhiệm vụ này, giáo viên cần lưu ý
các điểm sau đây:
- Quá trình hình thành và phát triển nhân cách của học sinh là quá trình
phát triển tất yếu và lâu dài của học sinh. Không có giáo viên thì học sinh cũng
vẫn hình thành nhân cách, nhân sinh quan. Tuy nhiên giáo viên đóng vai trò là
người điều chỉnh và chỉ đạo sự phát triển đó theo đúng hướng, phù hợp nhất với
học sinh.. Giáo viên phải hiểu rõ: vật chất có trước, ý thức có sau. Muốn có sự
thay đổi trong ý thức của học sinh, phải trải quá một quá trình tác động của vật
chất. Quá trình này không diễn ra trong ngày một ngày hai, duy ý chí mà là một
quá trình kéo dài, phức tạp và mang những đặc điểm của quá trình phát triển vật
chất theo quan điểm của Triết học Mác - Lenin.
- Động lực của sự phát triển là mâu thuẫn. Nhân cách của học sinh cũng sẽ
được hình thành và phát triển thông qua các tình huống va chạm trong cuộc
sống. Giáo viên cần chấp nhận, thậm chí là tạo điều kiện cho học sinh có những
tình huống ứng xử, tranh cãi thậm chí là mâu thuẫn để nhân cách được phát triển
toàn diện. Qua các tình huống đó, các phẩm chất của cá thể sẽ được hình thành
và phát triển một cách đa dạng, đầy đủ; đồng thời những khiếm khuyết của cá
nhân cũng sẽ bộc lộ và chỉnh sửa trong các tình huống này. Bảo bọc, né tránh
những va chạm như thế, nhân cách của học sinh sẽ chỉ phát triển theo một
hướng, thiếu kinh nghiệm ứng xử, thiếu phát triển toàn diện hoặc phát triển châm
chạp.
3 11
- Tuy nhiên, giáo viên phải tích cực phân tích, hướng dẫn học sinh xử lý
các tình huống trên chứ không nên để học sinh tự giải quyết vì có thể dẫn đến
các hành vi, tính cách lệch lạc, cực đoan. Các hoạt động tranh luận, hùng biện,
hoạt động nhóm, thi đấu cạnh tranh là những hoạt động hiệu quả để hình thành
đầy đủ nhân cách của học sinh.
- Khuynh hướng của sự phát triển là sự phủ định và kế thừa các giá trị
trước đó. Nhân cách của học sinh cũng vậy, sự phát triển của nó phải được dựa
trên các nền tảng giá trị đã có sẵn. Tuy ở mỗi giai đoạn, việc giáo dục đạo đức
học sinh có những yêu cầu riêng nhưng chúng phải có tính kế thừa. Việc giáo
dục đạo đức cho học sinh phải xét đến quá trình giáo dục trước đó bao gồm
những giá trị đạo đức nào đã được hình thành, những giá trị đạo đức nào còn
lệch lạc, chưa đúng đắn.
- Ngoài ra, nhân cách phải bắt đầu hình thành từ lúc nhỏ để tạo thành nền
tảng cho việc giáo dục về sau. Lứa tuổi càng lớn, các yêu cầu về đạo đức, hành
vi, phẩm chất cần phải được nâng cao, tiệm cận với các chuẩn mực về đạo đức
nhưng phải dựa trên nền tảng sẵn có. Nói cách khác “Dạy con từ thưở còn thơ”,
nền tảng kém thì không thể phát triển tốt được.
- Hơn nữa, giáo viên cũng phải tạo cho học sinh có nhu cầu phát triển và
hoàn thiện nhân cách bởi vì khuynh hướng phát triển là liên tục và không có giới
hạn. Người có khả năng tác động lớn nhất đến nhân cách của học sinh chính là
bản thân của em đó. Học sinh sau khi vào đời phải luôn luôn rèn luyện và giữ
vững các phẩm chất đạo đức của mình đồng thời cập nhật những chuẩn mực
mới của thời đại. Giáo viên không thể theo học sinh suốt đời để kềm cặp và nhắc
nhở, nên cần trang bị cho học sinh phương pháp và nhu cầu phải rèn luyện nhân
cách, đạo đức.
- Theo triết học Mác - Lenin, cách thức của sự phát triển chính là sự tích
lũy về lượng sẽ dẫn đến biến đổi về chất. Giáo viên phải kiên nhẫn và chủ động
trong suốt quá trình hình thành và phát triển nhân cách của bản thân. Đừng bao
giờ hi vọng tất cả sẽ tốt lên ngay lập tức, chỉ cần muốn là được. Nhân cách của
học sinh phải được hình thành chậm rãi, từ những điều nhỏ nhặt nhất. Giáo viên
3 12
cần phải theo dõi những thay đổi của học sinh qua từng ngày, từng tháng dù là
nhỏ nhất. Cần nhớ khuyến khích, khen ngợi đối với những tiến bộ nhỏ và điều
chỉnh ngay những hành vi chưa đúng. Như Bác Hồ đã nói “Việc tốt dù nhỏ mấy
cũng phải làm.”
- Ngoài ra, chính những tình huống va chạm, mâu thuẫn trong giao tiếp
cũng sẽ tích lũy cho học sinh những kinh nghiệm sống để hình thành và phát triển
nhân cách của mình. Một ngày nào đó, chính sự tích lũy về lượng này sẽ dẫn đến
sự biến đổi về chất.
- Để lượng biến đổi thành chất thì chính giáo viên phải là người chủ động
tạo ra điểm nút. Nếu để quá trình biến đổi tự diễn ra thì rất có thể “chất” đó sẽ
khác với những gì chúng ta mong muốn. Điểm nút mà giáo viên tạo ra, những cú
hích cần thiết, có thể là một lời khen, một nhiệm vụ được giao với sự tin tưởng,
một vài câu nói dặn dò ân cần hoặc thậm chí có thể là một đòn trừng phạt theo
kiểu “thương cho roi cho vọt”. Điều quan trọng là sau những cú hích đó, giáo viên
phải tiếp tục theo dõi sự biến đổi chất diễn ra như thế nào và điều chỉnh kịp thời.
2.Đối với học sinh đặc biệt
Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh, chắc chắn
giáo viên sẽ gặp những học sinh “đặc biệt”, chưa ngoan, được gọi là học sinh cá
biệt. Vậy thì, đối với những trường hợp như vậy, giáo viên cũng cần nhớ những
điểm sau đây:
- Như đã nói ở trên, quá trình phát triển nhân cách là quá trình tất yếu của
bất kỳ cá thể nào. Học sinh hư, chưa ngoan là do quá trình này thiếu sự định
hướng hoặc do nhận thức chưa đầy đủ. Tất cả những học sinh này đều có thể
được giáo dục lại để phát triển theo đúng hướng và tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, hình
thức và phương pháp giáo dục phải có sự khác biệt với các đối tượng học sinh
khác và đòi hỏi quá trình lâu dài, tốn nhiều công sức hơn.
- Cần nhớ, vật chất có trước, ý thức có sau, những khiếm khuyết trong
nhân cách, suy nghĩ của học sinh không phải tự nhiên hình thành mà phải là kết
quả tác động của một quá trình, một tác nhân nào đó. Do vậy, trước hết, giáo viên
3 13
phải tìm hiểu nguyên nhân của sự chưa ngoan, cá biệt. Theo Triết học Mác -
Lênin, khi xem xét sự vật hiện tượng phải xét nó trong mối quan hệ với những
yếu tố khác. Vì vậy, nguyên nhân không bao giờ chỉ đơn giản đến từ học sinh mà
chắc chắn có những yếu tố ngoại cảnh khác như gia đình, bạn bè, xã hội thậm
chí là thầy cô.
- Bản chất thể hiện ra ngoài thông qua hiện tượng nhưng hiện tượng không
phải là bản chất. Giáo viên tuyệt đối không được chụp mũ, quy kết mọi tội lỗi cho
học sinh, nặng hơn là kết luận học sinh không phải là người tốt chỉ qua một vài
hành vi hoặc biểu hiện kém. Cần theo dõi trong suốt thời gian dài trước khi kết
luận và nhất thiết phải tìm ra được nguyên nhân. Nếu không tìm ra được những
nguyên nhân thực sự của “căn bệnh”, việc “chữa bệnh” - giáo dục lại - sẽ không
thể đạt được kết quả như mong muốn.
- Kế đến, giáo viên phải chủ động tạo ra những động lực, cách thức để học
sinh hình thành và phát triển lại nhân cách. Giáo viên cần tạo ra những mâu
thuẫn về trách nhiệm đối với gia đình, bạn bè, thầy cô để học sinh suy nghĩ lại
những hành vi của mình, từ đó tạo ra động lực kích thích học sinh có những điều
chỉnh để phát triển. Các tác động của giáo viên đến học sinh không nên ồ ạt, giáo
điều mà cần chậm rãi, từ từ, ghi nhận sự tiến bộ qua từng ngày dù là nhỏ nhặt
nhất. Những động viên, điều chỉnh kịp thời đúng lúc của giáo viên sẽ hiệu quả
hơn hàng trăm, hàng ngàn bài giảng về đạo đức. Quá trình này chắc chắn sẽ gặp
rất nhiều khó khăn hơn các học sinh khác. Tuy nhiên, giáo viên cần kiên trì và
không từ bỏ. Bởi vì lượng cứ tích lũy dần dần thì dù chậm cũng sẽ có lúc chất
biến đổi, chắc chắn những tác động hôm nay sẽ mang lại hiệu quả về sau.
Giáo viên phải luôn nhớ rằng khi xem xét sự việc, phải xét trên quan điểm
phát triển. Không có học sinh cá biệt, không có học sinh không thể dạy được,
không có học sinh không thể tiến bộ. Chỉ có học sinh phát triển nhân cách chậm
hoặc khiếm khuyết. Chính giáo viên, nhận ra điều đó, sẽ có những tác động phù
hợp để sự phát triển nhân cách diễn ra đúng đắn theo cách mà nó nên diễn ra.
3 14
3.Phối hợp các lực lượng giáo dục khác
Việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh là một quá trình lâu dài,
phức tạp và nhiều khó khăn. Nếu chỉ có một mình giáo viên thực hiện thì hiệu quả
sẽ không tốt như mong muốn. Do vậy, cần phải có sự phối hợp giữa giáo viên -
nhà trường và các lực lượng giáo dục khác, bao gồm: gia đình và xã hội.
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, bản chất con người là sự tổng hòa
của các mối quan hệ xã hội. Học sinh không chỉ có các mối quan hệ trong trường
học như: thầy - trò, bạn bè; mà còn có các mối quan hệ khác như: cha mẹ - con
cái, công dân - cộng đồng... Thậm chí, thời gian học sinh ở trường học chỉ chiếm
một phần trong quỹ thời gian của các em. Đa số thời gian học sinh là ở trong các
môi trường khác, chịu ảnh hưởng trực tiếp của các lực lượng giáo dục khác như
cha mẹ, anh chị, người lớn, bạn ngoài xã hội, cộng động... Do vậy việc giáo dục
đạo đức cho học sinh cũng phải là sự tổng hòa, kết hợp giữa các mối quan hệ xã
hội, các lực lượng xã hội khác. Việc giáo dục học sinh không phải là công việc
của riêng giáo viên mà cả gia đình và xã hội cũng phải bắt tay phối hợp cùng thực
hiện.
Như đã nói ở các phần trên, công việc giáo dục học sinh về đạo đức, nhân
cách đòi hỏi nhiều công sức của nhà giáo dục. Đó là một quá trình bao gồm cả
việc tạo động lực, tạo điều kiện và tác động trong một thời gian dài. Đó không thể
là sản phẩm đơn thuần của một mình giáo viên mà phải là sản phẩm tổng hợp
của các lực lượng giáo dục khác. Mỗi giáo viên cần lưu ý điều này để công tác
giáo dục đạt được kết quả như mong muốn.
3 15
IV.KẾT LUẬN
Như vậy, trong công tác giáo dục học sinh, giáo viên cần phải sử dụng triết học
Mác - Lênin như là phương pháp luận, là kim chỉ nam hành động cho các hoạt
động của mình. Hiểu và vận dụng tốt những luận điểm trên, hiệu quả của việc giáo
dục chắc chắn sẽ đạt như ý muốn.
Hơn nữa, có thể thấy những luận điểm của Triết học Mác - Lênin đã thể hiện
tính đúng đắn và phổ quát của nó trong lĩnh vực giáo dục nói chung và giáo dục
đạo đức nói riêng. Điều này cho thấy giá trị hết sức to lớn của Triết học Mác -
Lênin đối với nhân loại.
Trong khuôn khổ bài tiểu luận, tác giả không thể trình bày hết ý nghĩa phương
pháp luận của các luận điểm trong triết học Mác - Lênin, cũng như chưa đưa ra
được nhiều ví dụ minh họa, giải pháp thực tiễn. Tuy nhiên, mỗi giáo viên sau khi
đọc và nghiên cứu thêm về triết học Mác - Lenin cũng có thể tự rút ra những bài
học và giải pháp riêng cho bản thân với mục đích cuối cùng là làm sao để giáo dục
học sinh trở thành những công dân gương mẫu, trách nhiệm và đầy đủ phẩm chất
cần thiết bước vào đời.
3 16
V.TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đoàn Quang Thọ (chủ biên), Giáo Trình Triết Học, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo,
Nhà xuất bản Chính Trị - Hành Chính (2008).
[2] Nguyễn Hữu Vui, Nguyễn Ngọc Long (đồng chủ biên), Giáo Trình Triết Học
Mác-Lênin, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia (2003).
[3] Nguyễn Hữu Vui, Vũ Ngọc Pha, Nguyễn Ngọc Long (đồng chủ biên), Triết Học
(tập 1), Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia (1997).
[4] Nguyễn Hữu Vui, Vũ Ngọc Pha, Nguyễn Ngọc Long (đồng chủ biên), Triết Học
(tập 2), Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia (1997).
[5] Nguyễn Hữu Vui, Vũ Ngọc Pha, Nguyễn Ngọc Long (đồng chủ biên), Triết Học
(tập 3), Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia (1997).
3 17
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH115.pdf