Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng Nhà nước trong công cuộc đổi mới

Vận dụng tư tưởng HCM vào việc xây dựng Nhà nước trong công cuộc đổi mới 1, Việc thực hiện quy chế dân chủ của Nhà nước ta hiện nay 1.1, Sự cần thiết và ý nghĩa của việc thực hiện quy chế dân chủ Quyền làm chủ thật sự của nhân dân chính là một nội dung cơ bản trong yêu cầu xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước đòi hỏi phải chú trọng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong vấn đề này, việc mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp luật vào trong cuộc sống. Cần chú ý đến việc bảo đảm cho mọi người được bình đẳng trước pháp luật, xử phạt nghiêm minh mọi hành động vi phạm pháp luật, bất kể sự vi phạm đó do tập thể hoặc cá nhân nào gây ra. Có như vậy dân mới tin và mới bảo đảm được tính chất nhân dân của Nhà nước ta. Hiện nay chúng ta đang từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân và vì dân. Chỉ khi có một Nhà nước như vậy mới có thể phát huy được quyền dân chủ của nhân dân, đảm bảo quyền sống, quyền được làm việc, được lao động, được học hành, được đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Nó ảnh hưởng tới sự lành mạnh của nền dân chủ, tới cuộc sống và số phận của từng người dân, tới chiều hướng phát triển của xã hội. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong Nhà nước đó, dân chủ đi đôi với kỷ cương trật tự, được thể chế hoá thành pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật. Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân biểu hiện trực tiếp sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là một nhà nước đại diện cho quyền lực chân chính của nhân dân; một tổ chức nhà nước dựa trên nền dân chủ, vì dân chủ và do đó bằng pháp luật và vì công lý. 1.2, Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ trong thời gian qua Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy định và hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở. Quy chế dân chủ ở cơ sở ra đời đánh dấu một bước tiến bộ xã hội lớn ở nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực sự phát huy quyền làm chủ của mình, tham gia quản lý các công việc ở địa phương, kiểm soát và đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ ở các cơ quan công quyền hay các biểu hiện lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật. Quy chế thực hiện dân chủ ở phường (xã) ra đời là một biểu hiện sinh động nhằm cụ thể hoá phương châm “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” của Đảng. Qua thời gian triển khai và thực hiện đã thực sự phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của các tầng lớp nhân dân tham gia phát triển kinh tế xã hội ở địa phương góp phần tác động tích cực tới công tác xây dựng Đảng, xây dựng Chính quyền, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; Xây dựng các cộng đồng dân cư tự quản ở phường, xã, thị trấn, các khu dân cư, tổ dân phố Tạo ra sự chuyển biến tích cực về ý thức và phong cách làm việc của cán bộ Đảng, Chính quyền, đoàn thể theo hướng gần dân, tôn trọng dân và có trách nhiệm với dân hơn. Có thể nhận thấy qua những năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội đã được tạo ra, quyền làm chủ của nhân dân được mở rộng, lòng tin của nhân dân vào chế độ ngày càng được củng cố, từ đó thúc đẩy sự phát triển Kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương, biểu hiện rõ nhất là trong phát triển kinh tế, xây dựng nếp sống văn hoá ở xã, phường, thị trấn. Tuy nhiên, cùng với các mặt tích cực đạt được nêu trên, qua quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ hơn nữa kể cả về phương diện lý luận và thực tiễn để tiếp tục triển khai một cách phù hợp, đồng bộ và hiệu quả hơn. Vẫn còn không ít cơ sở lúng túng hoặc thực hiện một cách hình thức trong việc gắn kết giữa việc xây dựng, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở . Sau 10 năm triển khai thực hiện, chất lượng và hiệu quả việc thực hiện Quy chế chưa đạt được kết quả như mong muốn. Có nơi, có lúc còn vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; không ít nơi chưa thực hiện tốt công khai, dân chủ, chưa phát huy đầy đủ tinh thần, trách nhiệm làm chủ của nhân dân trong tháo gỡ khó khăn, tham gia giải quyết những bức xúc từ cơ sở. Việc thực hiện Quy chế Dân chủ, công khai, minh bạch các chế độ, chính sách, nhất là các chế độ, chính sách về nhà, đất, tài chính, tài sản, tiền lương, tiền thưởng; về quy hoạch, kế hoạch, giá cả đền bù khi thu hồi đất v.v có nơi chưa thực hiện nghiêm túc theo quy trình, quy định của Nhà nước, để xảy ra tham nhũng, vi phạm pháp luật làm nhân dân bất bình. Công tác tuyên truyền, giáo dục chưa được quan tâm đúng mức, nhận thức về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở chưa đồng đều; trách nhiệm của một số ban chỉ đạo, của Mặt trận, đoàn thể, thủ trưởng cơ quan, đơn vị có nơi, có lúc chưa được đề cao. Đến nay, vẫn còn nhiều nơi chưa xây dựng được quy chế, nhiều công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chưa triển khai thực hiện; chất lượng thực hiện Quy chế Dân chủ ở nhiều cơ sở chưa cao.Sự phối hợp giữa cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể trong công tác chỉ đạo, kiểm tra, tổng kết và nhận diện các điển hình có nơi thiếu chặt chẽ, chưa đồng bộ; thiếu kiên quyết trong việc xây dựng và ban hành các quy chế, quy định, quy trình thực hiện công khai, dân chủ. Tình trạng mất đoàn kết, nhũng nhiễu, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và tình hình khiếu kiện vẫn còn diễn ra phức tạp ở một số địa phương. Những yếu kém, khuyết điểm về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở có nhiều nguyên nhân. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức về dân chủ chưa đầy đủ, trách nhiệm của một số cấp ủy, chính quyền chưa tập trung chỉ đạo, thiếu kiểm tra, đôn đốc; chưa cụ thể hóa các quy chế, quy định, quy trình công khai, dân chủ ở cơ sở; chưa coi trọng việc sửa đổi, bổ sung quy chế, quy ước sát với thực tiễn của từng loại hình cơ sở; chưa phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân; việc sơ kết, tổng kết, nhân rộng các điển hình chưa được coi trọng; chưa kiểm điểm, phê bình nơi làm yếu và thiếu quan tâm giúp đỡ nơi có khó khăn. 1.3, Những bài học kinh nghiệm bước đầu trong xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ Một là, nắm vững các quan điểm chỉ đạo của Trung ương, tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, không ngừng nâng cao nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ ở cơ sở. Các ngành, các cấp tổ chức thực hiện nghiêm túc việc lấy ý kiến nhân dân về xây dựng các chủ trương, chính sách liên quan đến quyền và lợi ích trực tiếp của nhân dân; tích cực thực hành dân chủ, tạo nền nếp và những chuyển biến mới, tích cực ở cơ sở. Thực tế cho thấy, những nơi cấp ủy, chính quyền nắm vững các quan điểm chỉ đạo của Trung ương, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn; coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, thông qua nhiều hình thức phong phú, đa dạng trên các phương tiện thông tin đại chúng, các loại hình văn hóa, nghệ thuật để góp phần nâng cao nhận thức, tạo sự đồng tình, hưởng ứng của nhân dân, thúc đẩy quá trình xây dựng và thực hiện các quy chế, quy định, quy trình thực hiện công khai, dân chủ ở cơ sở, quy ước, hương ước ở thôn. Phát huy dân chủ, nhân dân tích cực tham gia quá trình phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh trật tự ở cơ sở; bầu không khí dân chủ trong Đảng, trong xã hội có nhiều chuyển biến rõ nét. CHÚ THÍCH 1. Hồ Chí Minh toàn tập, T.5, NXB Chính trị quốc gia, HN – 1995, Tr. 698. 2. Nguyễn Duy Quý. Một số suy nghĩ về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Tạp chí nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, số 2 – 1992, tr. 13. 3. Hồ Chí Minh toàn tập, T.5, NXB Chính trị quốc gia, HN – 1995, tr. 60. 4. Hồ Chí Minh toàn tập, T.5, NXB Chính trị quốc gia, HN – 1996, tr. 375. 5. Hồ Chí Minh toàn tập, T.5, NXB Chính trị quốc gia, HN – 1995, tr. 56. 6. Chính trị học. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, HN – 1994, tr. 197. 7. Chính trị học. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, HN – 1994, tr. 199. 8. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 – Khoá VII, HN – 1995, tr. 24. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hồ Chí Minh toàn tập 2. Nguyễn Duy Quý. Một số suy nghĩ về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Tạp chí nghiên cứu Nhà nước và pháp luật 3. Chính trị học. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 4. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 – Khoá VII 5. Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII 20-25/1/1994 6. Một số trang web như: www.tapchicongsan.org.vn; Tieng Noi Tu Do Dan Chu www.cpv.org.vn ; Tạp chí Xây Dựng Đảng Luận văn chia làm 3 chương

doc14 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1952 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng Nhà nước trong công cuộc đổi mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
II, Vận dụng tư tưởng HCM vào việc xây dựng Nhà nước trong công cuộc đổi mới 1, Việc thực hiện quy chế dân chủ của Nhà nước ta hiện nay 1.1, Sự cần thiết và ý nghĩa của việc thực hiện quy chế dân chủ Quyền làm chủ thật sự của nhân dân chính là một nội dung cơ bản trong yêu cầu xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước đòi hỏi phải chú trọng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong vấn đề này, việc mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp luật vào trong cuộc sống. Cần chú ý đến việc bảo đảm cho mọi người được bình đẳng trước pháp luật, xử phạt nghiêm minh mọi hành động vi phạm pháp luật, bất kể sự vi phạm đó do tập thể hoặc cá nhân nào gây ra. Có như vậy dân mới tin và mới bảo đảm được tính chất nhân dân của Nhà nước ta. Hiện nay chúng ta đang từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân và vì dân. Chỉ khi có một Nhà nước như vậy mới có thể phát huy được quyền dân chủ của nhân dân, đảm bảo quyền sống, quyền được làm việc, được lao động, được học hành, được đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Nó ảnh hưởng tới sự lành mạnh của nền dân chủ, tới cuộc sống và số phận của từng người dân, tới chiều hướng phát triển của xã hội. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong Nhà nước đó, dân chủ đi đôi với kỷ cương trật tự, được thể chế hoá thành pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật. Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân biểu hiện trực tiếp sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là một nhà nước đại diện cho quyền lực chân chính của nhân dân; một tổ chức nhà nước dựa trên nền dân chủ, vì dân chủ và do đó bằng pháp luật và vì công lý. 1.2, Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ trong thời gian qua Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy định và hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở. Quy chế dân chủ ở cơ sở ra đời đánh dấu một bước tiến bộ xã hội lớn ở nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực sự phát huy quyền làm chủ của mình, tham gia quản lý các công việc ở địa phương, kiểm soát và đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ ở các cơ quan công quyền hay các biểu hiện lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật. Quy chế thực hiện dân chủ ở phường (xã) ra đời là một biểu hiện sinh động nhằm cụ thể hoá phương châm “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” của Đảng. Qua thời gian triển khai và thực hiện đã thực sự phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của các tầng lớp nhân dân tham gia phát triển kinh tế xã hội ở địa phương góp phần tác động tích cực tới công tác xây dựng Đảng, xây dựng Chính quyền, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; Xây dựng các cộng đồng dân cư tự quản ở phường, xã, thị trấn, các khu dân cư, tổ dân phố… Tạo ra sự chuyển biến tích cực về ý thức và phong cách làm việc của cán bộ Đảng, Chính quyền, đoàn thể theo hướng gần dân, tôn trọng dân và có trách nhiệm với dân hơn. Có thể nhận thấy qua những năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội đã được tạo ra, quyền làm chủ của nhân dân được mở rộng, lòng tin của nhân dân vào chế độ ngày càng được củng cố, từ đó thúc đẩy sự phát triển Kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương, biểu hiện rõ nhất là trong phát triển kinh tế, xây dựng nếp sống văn hoá ở xã, phường, thị trấn. Tuy nhiên, cùng với các mặt tích cực đạt được nêu trên, qua quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ hơn nữa kể cả về phương diện lý luận và thực tiễn để tiếp tục triển khai một cách phù hợp, đồng bộ và hiệu quả hơn. Vẫn còn không ít cơ sở lúng túng hoặc thực hiện một cách hình thức trong việc gắn kết giữa việc xây dựng, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở . Sau 10 năm triển khai thực hiện, chất lượng và hiệu quả việc thực hiện Quy chế chưa đạt được kết quả như mong muốn. Có nơi, có lúc còn vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; không ít nơi chưa thực hiện tốt công khai, dân chủ, chưa phát huy đầy đủ tinh thần, trách nhiệm làm chủ của nhân dân trong tháo gỡ khó khăn, tham gia giải quyết những bức xúc từ cơ sở. Việc thực hiện Quy chế Dân chủ, công khai, minh bạch các chế độ, chính sách, nhất là các chế độ, chính sách về nhà, đất, tài chính, tài sản, tiền lương, tiền thưởng; về quy hoạch, kế hoạch, giá cả đền bù khi thu hồi đất v.v.. có nơi chưa thực hiện nghiêm túc theo quy trình, quy định của Nhà nước, để xảy ra tham nhũng, vi phạm pháp luật làm nhân dân bất bình. Công tác tuyên truyền, giáo dục chưa được quan tâm đúng mức, nhận thức về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở chưa đồng đều; trách nhiệm của một số ban chỉ đạo, của Mặt trận, đoàn thể, thủ trưởng cơ quan, đơn vị có nơi, có lúc chưa được đề cao. Đến nay, vẫn còn nhiều nơi chưa xây dựng được quy chế, nhiều công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chưa triển khai thực hiện; chất lượng thực hiện Quy chế Dân chủ ở nhiều cơ sở chưa cao.Sự phối hợp giữa cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể trong công tác chỉ đạo, kiểm tra, tổng kết và nhận diện các điển hình có nơi thiếu chặt chẽ, chưa đồng bộ; thiếu kiên quyết trong việc xây dựng và ban hành các quy chế, quy định, quy trình thực hiện công khai, dân chủ. Tình trạng mất đoàn kết, nhũng nhiễu, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và tình hình khiếu kiện vẫn còn diễn ra phức tạp ở một số địa phương. Những yếu kém, khuyết điểm về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở có nhiều nguyên nhân. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức về dân chủ chưa đầy đủ, trách nhiệm của một số cấp ủy, chính quyền chưa tập trung chỉ đạo, thiếu kiểm tra, đôn đốc; chưa cụ thể hóa các quy chế, quy định, quy trình công khai, dân chủ ở cơ sở; chưa coi trọng việc sửa đổi, bổ sung quy chế, quy ước sát với thực tiễn của từng loại hình cơ sở; chưa phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân; việc sơ kết, tổng kết, nhân rộng các điển hình chưa được coi trọng; chưa kiểm điểm, phê bình nơi làm yếu và thiếu quan tâm giúp đỡ nơi có khó khăn. 1.3, Những bài học kinh nghiệm bước đầu trong xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ Một là, nắm vững các quan điểm chỉ đạo của Trung ương, tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, không ngừng nâng cao nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ ở cơ sở. Các ngành, các cấp tổ chức thực hiện nghiêm túc việc lấy ý kiến nhân dân về xây dựng các chủ trương, chính sách liên quan đến quyền và lợi ích trực tiếp của nhân dân; tích cực thực hành dân chủ, tạo nền nếp và những chuyển biến mới, tích cực ở cơ sở. Thực tế cho thấy, những nơi cấp ủy, chính quyền nắm vững các quan điểm chỉ đạo của Trung ương, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn; coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, thông qua nhiều hình thức phong phú, đa dạng trên các phương tiện thông tin đại chúng, các loại hình văn hóa, nghệ thuật để góp phần nâng cao nhận thức, tạo sự đồng tình, hưởng ứng của nhân dân, thúc đẩy quá trình xây dựng và thực hiện các quy chế, quy định, quy trình thực hiện công khai, dân chủ ở cơ sở, quy ước, hương ước ở thôn. Phát huy dân chủ, nhân dân tích cực tham gia quá trình phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh trật tự ở cơ sở; bầu không khí dân chủ trong Đảng, trong xã hội có nhiều chuyển biến rõ nét. Hai là, phát huy vai trò, trách nhiệm người đứng đầu của các tổ chức trong hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở. Quan tâm chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ gắn với việc thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, các loại phí, lệ phí và các quy định của pháp luật. Nâng cao chất lượng dân chủ đại diện, mở rộng dân chủ trực tiếp; nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường đối thoại tháo gỡ khó khăn từ cơ sở, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Phát huy dân chủ, khâu quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc chính là xây dựng và ban hành được các quy chế, quy ước thực hiện dân chủ ở cơ sở. Phát huy vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong việc trực tiếp chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ; góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác tổ chức và cán bộ, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ; công khai các hoạt động quản lý, điều hành; nâng cao tinh thần, trách nhiệm thực hành dân chủ của đội ngũ cán bộ, công chức; từng bước ngăn chặn tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí ở cơ sở. Ba là, tăng cường sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị về chỉ đạo quán triệt, tổ chức thực hiện, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc và đánh giá kết quả việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Phát huy dân chủ ở cơ sở gắn với đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động ở cơ sở. Phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, xem xét, đánh giá kết quả thực hiện; khen thưởng và động viên kịp thời; tạo phong trào sâu rộng, có hiệu quả ở từng loại hình cơ sở. Sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức ở cơ sở mở ra các cơ chế vận hành đồng bộ, thống nhất trong triển khai, thực hiện của từng tổ chức, trong quản lý, điều hành của chính quyền; mở ra môi trường thuận lợi cho nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống. Trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ đã tạo môi trường thuận lợi để cán bộ, công chức, người lao động phát huy năng lực, trí tuệ, nâng cao trách nhiệm tham gia về hoạch định cơ chế, chính sách, tham gia giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong sản xuất, kinh doanh v.v.. Đến nay, hầu hết các doanh nghiệp (có tổ chức công đoàn) đã tổ chức ký kết thỏa ước lao động tập thể. Nhiều doanh nghiệp đã ban hành bộ quy chế về tiêu chuẩn, quy trình, quy định, quy ước, nội quy của doanh nghiệp, thiết lập quan hệ lao động hài hòa hơn giữa người lao động với chủ doanh nghiệp; ý thức lao động của công nhân, người lao động tiếp tục được nâng lên. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, việc thực hiện Quy chế Dân chủ gắn với xây dựng và đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, xã hội như: tổ chức các lễ hội văn hóa truyền thống của làng, xã, lễ hội văn hóa vùng, miền, khu vực; lễ hội tôn vinh người có công, người vượt khó học giỏi; huy động sức dân xây dựng nhà văn hóa, các công trình văn hóa... Nhân dân tích cực thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", "Xóa đói, giảm nghèo" và thực hiện tốt các chính sách xã hội, giúp đỡ các gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn ổn định và từng bước cải thiện cuộc sống. Hằng năm, nhiều địa phương đã công nhận trên 75% số gia đình đạt chuẩn văn hóa, 65% cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa. Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của ban chỉ đạo thực hiện Quy chế Dân chủ ở các ngành, các cấp; nâng cao chất lượng tham mưu cho cấp ủy, phối hợp chặt chẽ với chính quyền, các đoàn thể nhân dân trong xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Thường xuyên đề cao vai trò, trách nhiệm của các thành viên trong ban chỉ đạo, tiếp tục phân công theo dõi và trực tiếp giúp đỡ cơ sở, phát hiện và nhân rộng các điển hình tiên tiến, thí điểm việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở các loại hình cơ sở chưa thực hiện; kịp thời thay thế, bổ sung, kiện toàn ban chỉ đạo; sửa đổi, bổ sung quy chế, kinh phí hoạt động. Phối hợp với các cơ quan chính quyền, tập trung chỉ đạo, nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế Dân chủ và ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân, xây dựng xã hội đồng thuận, đoàn kết, giúp đỡ nhau, tạo sự đồng đều về kết quả xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Năm là, phát huy dân chủ gắn với kỷ cương pháp luật, xử lý nghiêm minh đối với các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; kiên quyết xử lý đối với những trường hợp lợi dụng các vấn đề dân chủ, dân tộc, tôn giáo chống phá Nhà nước ta, gây mất ổn định về an ninh, trật tự. Nâng cao ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở cơ sở, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm, phẩm chất và năng lực của cán bộ, công chức để thực hiện các quy chế, quy định, quy trình công khai, dân chủ ở cơ sở. Phát huy dân chủ, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, nhân dân tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm, phát hiện, tố giác các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; tham gia giám sát các vụ, việc vi phạm pháp luật và kết quả xử lý, giải quyết sau thanh tra. Phát huy sức mạnh đoàn kết trong cộng đồng dân cư, nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực tham gia ngăn chặn các tệ nạn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch trong và ngoài nước; vạch trần các thủ đoạn lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... để chống đối; ngăn chặn các hành động gây rối, gây bạo loạn, gây mất ổn định an ninh, trật tự ở cơ sở. Sáu là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Kiên trì chỉ đạo tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc từ cơ sở, đề cao trách nhiệm lãnh đạo trực tiếp của đảng ủy, chính quyền, của cán bộ, đảng viên, công chức ở cơ sở. Gắn xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở với xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các tổ chức, đơn vị; giám sát trách nhiệm, ý thức chấp hành và gương mẫu thực hiện của cán bộ, đảng viên, công chức; sơ kết, tổng kết và nhận diện kịp thời các điển hình thực hiện tốt Quy chế. Những cấp ủy làm tốt việc phân công cán bộ có năng lực, trực tiếp tham gia ban chỉ đạo, định kỳ nghe ban chỉ đạo báo cáo; đồng thời, đề ra những giải pháp, tăng cường sự chỉ đạo đối với các ngành, các cấp; tổ chức cho cán bộ, công chức đi cơ sở, gặp gỡ, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Các cấp ủy đã quan tâm chỉ đạo việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt ở cấp xã do Hội đồng nhân dân bầu, góp phần ngăn chặn tình trạng quan liêu, nhũng nhiễu, cửa quyền, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực ở cơ sở. Đồng thời, không ngừng nâng cao ý thức, trách nhiệm phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên và công chức, góp phần làm trong sạch nội bộ tổ chức đảng, nâng cao tinh thần đoàn kết, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Để tiếp tục nâng cao chất lượng về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, các ngành, các cấp cần tiếp tục quán triệt sâu sắc hơn nữa các quan điểm chỉ đạo của Trung ương, kiên quyết chỉ đạo và tổ chức thực hiện sâu rộng, đồng đều; tiếp tục tổng kết, đúc rút các bài học kinh nghiệm từ thực tiễn, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào đặc điểm của từng loại hình cơ sở một cách nền nếp, hiệu quả, góp phần tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị ở từng địa bàn, đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của quê hương, đất nước. 2, Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu để xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân 2.1, Phương hướng thực hiện quy chế dân chủ để xây dựng nhà nước Muốn thực hiện đúng phương châm chỉ đạo của Đảng theo tinh thần Chỉ thị số 30-CT/TW, để cho dân chủ trở thành nề nếp trong đời sống hàng ngày của xã hội phải quán triệt đầy đủ các quan điểm của Đảng, có sự thống nhất giữa chủ trương và chỉ đạo thực hiện. Đồng bộ cả ở cơ sở và cấp trên cơ sở trong cả hệ thống chính trị. Đồng thời phải coi việc thực hiện Quy chế dân chủ là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, thường xuyên và lâu dài của các tổ chức Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân; Phải gắn việc thực hiện Quy chế dân chủ với chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Vì vậy phương hướng chung để thực hiện Quy chế dân chủ trong thời gian tới đã được Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ Trung ương nêu trong Báo cáo tổng kết sáu năm thực hiện Chỉ thị số 30/CT-TW của Bộ chính trị (khoáVIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là: Nắm vững quan điểm chỉ đạo của Chỉ thị số 30-CT/TW, nhận thức đúng về phát huy dân chủ của nhân dân, đề cao trách nhiệm lãnh đạo của Cấp uỷ đảng và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục trong các tầng lớp nhân dân, nghiêm túc thực hiện và mở rộng việc lấy ý kiến nhân dân tích cực thực hành dân chủ, quyết tâm đưa Quy chế dân chủ đi vào thực tiễn, tạo nên chuyển biến thực sự và trở thành phong trào của đông đảo quần chúng nhân dân ở cơ sở. Gắn thực hiện Quy chế dân chủ với thực hiện các nhiệm vụ chính trị và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở. Từng bước mở rộng dân chủ trực tiếp, nâng cao chất lượng dân chủ đại diện, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, tạo bầu không khí phấn khởi, tin tưởng, đoàn kết, đồng thuận trong cán bộ và nhân dân, tạo thế và động lực mới cho sự nghiệp phát triển bền vững và xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh. Cán bộ, đảng viên gương mẫu, sát dân, tổ chức để nhân dân bàn bạc, tháo gỡ những vấn đề bức xúc của đời sống xã hội. Tạo sự thống nhất, phối hợp đồng bộ giữa Chính quyền với đề cao vai trò vận động, thuyết phục nhân dân và giám sát thực hiện của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân. Coi trọng việc thể chế hoá, xây dựng các quy chế, quy định phù hợp với từng loại hình cơ sở để nang cao chất lượng và hiệu quả việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Phát huy dân chủ gắn với kỷ cương, kỷ luật, xử lý nghiêm minh đối với các vụ việc tiêu cực, sai phạm đã phát hiện, đồng thời xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ để gây rối làm mất ổn định an ninh, trật tự. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước ở cơ sở. Quan tâm củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ đủ mạnh, nâng cao vai trò tham mưu, giúp Cấp uỷ chỉ đạo, kiểm tra và đôn đốc thực hiện Quy chế dân chủ ở tất cả các loại hình cơ sở, xây dựng quy chế hoạt động, chương trình công tác của Ban chỉ đạo. Tích cực phối hợp với các ban, ngành, có sự phân công trách nhiệm cụ thể, rành mạch cho từng đồng chí cán bộ, thành viên Ban chỉ đạo có như vậy việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở mới thực sự có hiệu quả và đi vào nề nếp. 2.2. Một số giải pháp để xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong Nhà nước đó, dân chủ đi đôi với kỷ cương trật tự, được thể chế hoá thành pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật. Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân biểu hiện trực tiếp sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là một nhà nước đại diện cho quyền lực chân chính của nhân dân; một tổ chức nhà nước dựa trên nền dân chủ, vì dân chủ và do đó bằng pháp luật và vì công lý. Để làm được những điều đó cần phải giải quyết tốt một số nội dung chủ yếu sau đây: 2.2.1. Đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân. Để đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân, nhất thiết phải giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội, phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế… tất cả các yếu tố đó phải tiến hành đồng thời, nhưng phải ưu tiên cho những vấn đề kinh tế, chăm lo tốt hơn đến cuộc sống hạnh phúc và mọi nhu cầu phong phú, đa dạng của con người. Tất cả những điều đó phải dựa trên cơ sở của sự phát triển kinh tế, nhất là khi đất nước còn nghèo như hiện nay. Bởi vậy, nếu thoát ly sự tăng trưởng kinh tế, đặt ra những yêu cầu quá cao đối với các lĩnh vực văn hoá – xã hội là không thực tế. Nhưng cũng sẽ là sai lầm, nếu chỉ coi trọng phát triển kinh tế, lợi ích về văn hoá – xã hội của nhân dân. Thực tiễn những năm qua cho thấy nếu không chú trọng xây dựng và phát triển giáo dục, văn hoá, y tế, phúc lợi công cộng, để cho những mặt này yếu kém và xuống cấp thì chẳng những ảnh hưởng xấu tới việc chăm lo bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người, mà còn kìm hãm nguồn lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Nhân dân là người sáng tọ ra lịch sử cho nên nhân dân là nguồn gốc của quyền lực. Trong xã hộI XHCN, quyền lực Nhà nước được bắt nguồn từ nhân dân, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Vì vậy, trong công cuộc đổi mới Nhà nước hiện nay, phải ra sức phát triển và hoàn thiện chế độ đại diện, làm cho nó thực sự thể hiện bản chất nhân dân của Nhà nước ta. Một Nhà nước như vậy mới đảm bảo quyền con người sống trong hoà bình, độc lập, tự do; được quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình; được quyền có cuộc sống ấm no, bình đẳng và hạnh phúc. Tôn trọng quyền của mỗi con người (quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, bình đẳng dân tộc, bình đẳng nam nữ, tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng cũng như các quyền tự do, dân chủ khác) phải gắn với nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người trước đất nước và xã hội. Muốn đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân, phải kiên quyết đấu tranh chống lại những hiện tượng vi phạm pháp luật mà nổi bật là tham nhũng và buôn lậu, xâm phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân; làm hàng giả, trốn – gian lận thuế… gây tổn thất lớn cho Nhà nước và nhân dân. Đó chính là tâm tư, nguyện vọng và cũng là đòi hỏi của nhân dân đối với Nhà nước, thông qua Nhà nước. Việc của đất nước là việc của nhân dân. Vì vậy, cần phải tập hợp rộng rãi mọi lực lượng quần chúng nhân dân, phát huy đầy đủ khả năng và trí tuệ của toàn dân để cùng lo việc nước. Hơn nữa, mọi quyền hành chỉ thuộc về nhân dân khi có một cơ chế thích hợp để nhân dân có thể trực tiếp giám sát các hoạt động của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, cũng như giám sát mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước và viên chức Nhà nước. Phải có cơ chế thích hợp để cử tri có thể bày tỏ sự tín nhiệm hay bất tín nhiệm của mình đối với đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân mà mình bầu ra, tạo điều kiện để các đại biểu gắn bó hơn với cử tri, đề cao ý thức trách nhiệm của người đại diện nhân dân, phải luôn xứng đáng với sự tín nhiệm của dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.” (1) Muốn đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân, phải chiến thắng được nghèo nàn và lạc hậu, phát triển kinh tế, văn hoá, cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ làm cho dân giàu, nước mạnh và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. 2.2.2. Giải quyết mối quan hệ công dân – Nhà nước là mối quan hệ chính trị cơ bản để xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Cơ sở để giải quyết mối quan hệ công dân – Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN là vấn đề quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong đó Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị cao nhất là con người; Nhà nước đề ra pháp luật, đồng thời phải tuân thủ pháp luật và bảo đảm cho công dân được chống lại chính sự tuỳ tiện của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là “Nhà nước phải tạo ra cho công dân sự bảo đảm rằng người ta không bị đòi hỏi cái ngoài hoặc trên những điều kiện quy định trong Hiến pháp và pháp luật” (2). Mặt khác, con người là mục tiêu và giá trị cao nhất. Do đó, Nhà nước phải đảm bảo cho công dân sự an toàn pháp lý, được hưởng các quyền và tự do cơ bản đó vi phạm, kể cả từ phía các cơ quan Nhà nước và những người có chức vụ. Chính vì vậy, một mặt Nhà nước đề ra pháp luật; mặt khác, chính Nhà nước, các cơ quan Nhà nước, những người có chức vụ đều có nghĩa vụ bắt buộc phải tuân thủ triệt để pháp luật, không có một tổ chức Nhà nước hoặc công chức nào được đặt mình đứng ngoài pháp luật, đứng trên pháp luật. Mọi người và mọi tổ chức hợp pháp đều bình đẳng trước pháp luật. Cùng với nguyên tắc này, Nhà nước ta tiến tới thực hiện nguyên tắc không cấm, tất nhiên phải trong khuôn khổ của nền đạo đức XHCN và tôn trọng lợi ích của xã hội và của người khác. Nguyên tắc này bảo đảm một mặt chống lại biểu hiện lộng quyền, lạm quyền và mặt khác chống những hành vi tự do, vô chính phủ. Giải quyết mối quan hệ công dân – Nhà nước là xây dựng chế độ trách nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân (cá nhân), tức là giữa một bên là người đại diện quyền lực Nhà nước và một bên vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quyền lực Nhà nước. Ở đây, Nhà nước xác định cho mình, cho các cơ quan Nhà nước và những người có chức vụ trách nhiệm pháp lý rõ ràng về các hành vi của họ. Công dân được đảm bảo quyền và khả năng bắt buộc cơ quan Nhà nước và những người có chức vụ phải chấp hành pháp luật, thực thi trách nhiệm của mình đối với họ. Muốn giải quyết mối quan hệ giữa công dân và Nhà nước thì Nhà nước phải đặt mục tiêu của mình là phục vụ lợi ích chính đáng của dân. Hơn nữa, việc của đất nước là việc của dân, cho nên muốn làm việc của dân, cho nên muốn làm việc của đất nước thì phải tập hợp rộng rãi, phát huy khả đầy đủ năng và trí tuệ của toàn dân để cùng lo việc nước. Đồng thời phải xây dựng một cơ chế để nhân dân kiểm soát có hiệu quả đối với các cơ quan Nhà nước và nhân viên Nhà nước. Liên quan tới vấn đề này, phải từng bước hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện, nhưng cần hết sức coi trọng việc phát huy quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân, tạo thành thói quen tốt trong sinh hoạt xã hội. Nhà nước pháp quyền XHCN là Nhà nước của dân, do dân bầu ra. Do đó, một khi Nhà nước không còn vì dân, nghĩa là nó không đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân có quyền bày tỏ sự bất tín nhiệm đối với nói. Đó là cơ sở để Bác Hồ nói rằng: “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. (3) Trong các chế độ cũ, Nhà nước là bộ máy của giai cấp bóc lột dùng để thống trị và áp bức nhân dân; cho nên viên chức, quan lại tự xưng là cha mẹ dân, đè đầu cưỡi cổ dân. Trong chế độ dân chủ XHCN, người chủ Nhà nước là nhân dân; người cán bộ Nhà nước là do dân lựa chọn, được nhân dân ủy quyền là “công bộc”; làm cán bộ là “làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan Cách mạng”(4). Trong các cơ quan Nhà nước, cán bộ vừa là lãnh đạo, vừa là người hướng dẫn của nhân dân. Do đó, “nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không có ai dẫn đường”(5). Chính vì vậy, trong Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cán bộ, Đảng viên phải làm thế nào để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân. Là người đầy tớ, cán bộ phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ… Là người lãnh đạo thì phảI có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi và trọng dụng những người hiền tài, đức độ. Bởi vậy, người thay mặt và người đại diện cho dân phải là người có đức, có tài, phải vừa “hiền” lại vừa “minh”. 2.2.3. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân và vì dân phải dựa trên truyền thống, đặc điểm dân tộc, nhất là truyền thống chính trị của đất nước. Ngay từ khi Nhà nước Văn Lang được hình thành và qua hầu hết các triều đại phong kiến trước đây, trong không ít trường hợp chính quyền Nhà nước đã đóng vai trò tổ chức toàn thể dân tộc chống giặc ngoại xâm. Khi đó, Nhà nước đại diện cho quyền lợi cơ bản sống còn của cả dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Trong quan hệ với phong kiến Trung Hoa trước đây, Nhà nước Đại Việt về hình thức thì mềm dẻo, khôn khéo, nhưng mục tiêu bảo vệ độc lập tự chủ của quốc gia thì hết sức kiên định. Trong hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc tổ chức bộ máy Nhà nước và chế độ quan chức của các triều đại nước ta tuy chịu ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo, nhưng chúng vẫn được cải biên cho phù hợp với đặc điểm chính trị - xã hội Việt Nam và chịu ảnh hưởng của văn hoá bản địa từng tồn tại trước nó và cùng với nó. Suốt cả 10 thế kỷ ấy, ông cha ta đã đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hoá, giành độc lập dân tộc và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; đồng thời cũng biết tiếp thu có chọn lọc những thành tựu chính trị - văn hoá của phong kiến phương Bắc để xây dựng Nhà nước độc lập tự chủ theo hình thức Nhà nước Trung ương tập quyền. Sự tiếp thu đó là một tất yếu lịch sử. Trong suốt thời kỳ bị thực dân Pháp thống trị, dân tộc Việt Nam đã kiên cường đấu tranh nhằm giành độc lập dân tộc. Các phong trào yêu nước vào những năm cuối của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (như phong trào Cần Vương do các sỹ phu phong kiến yêu nước lãnh đạo nhằm tái dựng một Nhà nước quân chủ an ninh; phong trào Đông Du của Phan Bội Châu nhằm xây dựng một chính thể như nước Nhật tư sản – quân chủ nghị viện; phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục của Phan Chu Trinh nhằm thiết lập một quốc gia độc lập theo mô hình của Pháp - Cộng hoà đại nghị tư sản; phong trào của Việt Nam Quốc Dân Đảng theo gương của Cách mạng Tân Hợi Trung Quốc…) đều nhằm giải phóng dân tộc và thiết lập Nhà nước theo mô hình dân chủ tư sản. Mục tiêu của những phong trào đấu tranh trên đều không còn phù hợp với hoàn cảnh lịch sử đất nước nên bị thất bại. Thắng lợi vẻ vang của Cách mạng tháng Tám năm 1945 do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đưa lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung và lịch sử Nhà nước ta nói riêng bước sang một trang sử mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã có những đóng góp to lớn trong quá trình Cách mạng, xứng đáng là công cụ đắc lực của nhân dân trong công cuộc đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc, trong tổ chức và xây dựng cuộc sống mới, xã hội mới phù hợp với những truyền thống lịch sử và bản sắc dân tộc Việt Nam. Ngày nay, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường với định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội; việc mở cửa đối với bên ngoài sau khi bình thường hoá quan hệ với Mỹ; những yêu cầu dân chủ hoá đời sống xã hội đang đòi hỏi bộ máy Nhà nước phải được đổi mới theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam không phải là quay lưng lại với quá khứ vẻ vang, xây dựng lại từ đầu một bộ máy Nhà nước theo một đường hướng khác, mà là kế thừa và nâng lên tầm cao mới những giá trị truyền thống của Nhà nước để xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. 2.2.4. Xây dựng quyền lực Nhà nước của các công dân trên nền tảng một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện. Tư tưởng về xây dựng quyền lực Nhà nước trong quan hệ xã hội của các công dân thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa quyền lực với pháp luật. Trong đó pháp luật là cơ sở để duy trì quyền lực Nhà nước, bản thân Nhà nước vừa là công cụ tổ chức của giai cấp, lại vừa là hình thức thực hiện quyền lực công khai. Vì vậy, Nhà nước chỉ có thể biểu hiện ý chí phổ biến và quyền lực công khai của mình đối với xã hội, với mọi công dân thông qua pháp luật. Xây dựng quyền lực Nhà nước trong quan hệ xã hội của các công dân là xây dựng một hệ thống pháp luật trên nền dân chủ thực sự, xuất phát từ nhân dân và vì nhân dân. Pháp luật phải định hướng mọi công dân và tổ chức xã hội vươn tới cái chân, thiện, mỹ, vươn tới tự do đích thực của con người. Để đạt được mục đích đó, pháp luật phải khách quan, công bằng, bình đẳng và dân chủ, lấy quyền con người, giải phóng con người làm trung tâm để xây dựng quyền lực Nhà nước. Quyền lực Nhà nước phải thuộc về nhân dân, phải thể hiện ý chí của nhân dân, là sự phản ánh khách quan các nhu cầu xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Mặt khác, khi đặt ra các thiết chế của mình trong khuôn khổ pháp luật, hoặc thiết lập cơ chế để kiểm tra tính hợp pháp, hợp hiến của các đạo luật, các cơ quan quyền lực Nhà nước cũng phải làm sao cho hệ thống pháp luật được xây dựng trên sự tự do và các quyền công dân được bảo đảm. Pháp luật XHCN thể hiện ý chí chung của xã hội, được bảo đảm bằng sức mạnh cộng đồng. Nhà nước tôn trọng pháp luật như một giá trị xã hội chung; đồng thời quyền lực Nhà nước là cơ sở, là tiến đề quan trọng nhất để bảo đảm cho pháp luật có được bản chất pháp lý của nó. Hệ thống pháp luật của Nhà nước luôn là chỗ dựa cho việc tổ chức và hoạt động của quyền lực làm giá đỡ cho việc xác định các mục tiêu của quyền lực Nhà nước là vì con người, vì xã hội của các công dân. Vì vậy, mọi thiết chế quyền lực Nhà nước phảI thực sự bảo đảm tính công bằng, bình đẳng và dân chủ của xã hội công dân. Bảo đảm trên nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Xây dựng quyền lực Nhà nước trong quan hệ với xã hội của các công dân là để bảo đảm cho mỗi công dân được hưởng những quyền tự do vốn có của họ và không thể bị tước bỏ. Nhưng sự tự do của mỗi công dân phải dẫn tới sự thống nhất của cả trật tự xã hội. Sự thống nhất đó chống lại mọi sự chiếm đoạt quyền lực Nhà nước bởi các cá nhân chuyên quyền đứng bên trên và bên ngoài dân, hoặc là loại bỏ sự vô trách nhiệm và bất lực của những người cầm quyền. Chính vì vậy, mỗI ngườI dân là một giá trị tuyệt đối của quyền lực Nhà nước chứ “không thể là công cụ của bất kỳ ai, dù là có mưu đồ tốt đẹp nhất” (6). Thực chất quyền lực Nhà nước là quyền lực của mọi công dân liên hiệp lại tạo thành Nhà nước, chính công dân giao cho người đại diện của mình thừa hành quyền lực đó. Cơ quan Nhà nước tự nó không có quyền mà chỉ thừa hành quyền lực do công dân uỷ nhiệm. Vì vậy, công dân mới thật sự là chủ thể của quyền lực Nhà nước. Xây dựng quyền lực Nhà nước trong mối quan hệ với xã hội của các công dân là giải quyết mâu thuẫn giữa quyền lực Nhà nước tập trung với quyền lực và tự do của công dân. Xã hội phải có quyền lực Nhà nước tập trung, nhưng không phải mọi nhu cầu của người lao động Nhà nước đều lo được. Bởi vì “không gian quyền lực Nhà nước là có giới hạn, còn đối với cá nhân tự do thì không gian là vô tận” (7). Do đó xây dựng quyền lực Nhà nước là phải tạo ra một hệ thống chính trị để làm cho hai mặt trên trở thành điều kiện và nguyên nhấn của nhau. Trong hai mặt đó, mặt công dân là nền tảng, là ngọn nguồn, là mục đích của mọi quyền lực Nhà nước. Chính vì vậy, Nhà nước pháp quyền XHCN là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. 2.2.5.Nhà nước pháp quyền XHCN phải được tổ chức và vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Tập trung dân chủ là nguyên tắc căn bản, là một yêu cầu tự nhiên và tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ XHCN với tư cách là một chế độ chính trị. Vì nếu không có dân chủ thông qua bàn bạc, thảo luận, tranh luận để chọn một giải pháp hợp lý nhất thì không thể tạo được sự thống nhất thật sự. Nhưng không có tập trung để chuyển sự thống nhất từ quan niệm, nhận thức sang hành động, thì không bao giờ dân chủ trở thành một giá trị hiện thực, một kết quả thực tế được “vật chất hoá” mà con người có thể kiểm nghiệm, cảm nhận được một cách trực tiếp như cơm ăn, nước uống hàng ngày. Tập trung dân chủ trong Nhà nước pháp quyền XHCN là sự cần thiết hợp lý để cho dân chủ tránh được những thói xấu tệ hại của thứ dân chủ bất chấp pháp luật, kỷ cương, vượt quá hành động pháp lý để rơi vào tự do, hỗn loạn, phá phách, vô chính phủ. Nó bảo đảm cho các cơ quan quyền lực không thể trở nên nhu nhược, bất lực mà có thực quyền. Nó kết hợp tính tôn trọng dân chủ, tôn trọng các quyết định của tập trung với tinh thần trách nhiệm của các tổ chức và các cá nhân có quyền lực. Điểm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý Nhà nước theo tinh thần của Nhà nước pháp quyền là đề cao tinh thần tôn trọng pháp luật, hoạt động hợp hiến, hợp pháp, thực hiện sự bình đẳng của mọi tổ chức và cá nhân trước pháp luật, xác lập rành mạch quy chế, chức trách, bổn phận công chức trước Nhà nước và xã hội. Đó là cơ sở để khẳng định rằng: “sự kết hợp đúng đắn tập trung và dân chủ là yếu tố quyết định sức mạnh và hiệu lực của bộ máy Nhà nước ta”. - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền XHCN là nhằm đảm bảo cho Nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Hoạt động của Đảng thể hiện bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo của Đảng tạo điều kiện phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, giúp Nhà nước hoàn thành thuận lợi mọi nhiệm vụ của mình. Đảng lãnh đạo Nhà nước được thể hiện bằng những phương thức khác nhau. Một là, Đảng lãnh đạo Nhà nước để nó thể chế hoá đúng đắn lập trường, các quan điểm chính trị cơ bản của mình. Hai là, Đảng định hướng hoạt động của Nhà nước vào việc tổ chức thực hiện có hiệu quả những nghị quyết đã được thể chế hoá đó. Ba là, Đảng lãnh đạo công tác cán bộ ngay trong lĩnh vực Nhà nước… Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, phải đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước không phải nhờ vào uy quyền, mệnh lệnh, mà ở trình độ năng lực vạch ra đường hướng chính trị đúng đắn và thông qua công tác tuyên truyền, thuyết phục, làm cho mọi tổ chức và toàn xã hội tự giác chấp nhận, ở tính gương mẫu và vai trò tiên phong chiến đấu của tổ chức Đảng, của đội ngũ cán bộ, Đảng viên; ở sự gắn bó, tín nhiệm của quần chúng đối với Đảng; ở sự trong sạch, vững mạnh về bản lĩnh chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng bao gồm đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, xác định đúng mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước; Đảng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xây dựng nền pháp chế, nhưng Đảng và mọi Đảng viên hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, gương mẫu chấp hành chính sách và pháp luật; Đảng không lấn sân Nhà nước, không làm thay Nhà nước. Hiện nay vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là không thể có một lực lượng chính trị nào có thể thay thế được. Vấn đề đó không chỉ mang tính nguyên tắc được khẳng định từ lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà con là kết luận chắc chắn được rút ra từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay. 2.2.6. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải phù hợp với những giá trị phổ biến tiến bộ của nhân loại. Quan niệm về một Nhà nước “Đức trị” và “Làm chính trị phải tựa vào Nhân” của Khổng Tử là điểm tựa để xây dựng một Nhà nước lý tưởng thân dân, gần dân, lấy dân làm gốc. Quan niệm đó có những giá trị quý báu mà Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải tiếp thu. Mặt khác, những nhà tư tưởng cổ đại đã thấy được mối liên hệ giữa Nhà nước và pháp luật, vai trò pháp luật trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước, trong đó pháp luật phải thể hiện ý chí của dân và phải khách quan, công bằng và bình đẳng. Tư tưởng Nhà nước pháp quyền tư sản trong thời kỳ đầu cũng đã gắn liền với ý tưởng về tự do, công bằng, bình đẳng, bác ái… ngọn cờ tư tưởng giải phóng đó đã tạo nên những động lực xã hội hết sức mạnh mẽ cho sự giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp mà dù muốn hay không vẫn còn giữ nguyên giá trị. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân cũng vì những mục đích đó. Vượt lên trên các nhà tư tưởng tư sản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ dừng lại ở lĩnh vực tư tưởng về sự cần thiết của Nhà nước pháp quyền mà còn hành động cách mạng để thực hiện hoá tư tưởng đó trong xã hội. Chủ nghĩa xã hội làm nền tảng kinh tế dựa trên chế độ sở hữu XHCN là biểu hiện cho việc xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân; đồng thời nó cũng là sự biểu hiện thực tế của tự do, bình đẳng bác ái… của con người. C. Mác viết: “Tự do là biến Nhà nước từ cơ quan đứng trên xã hội, thành cơ quan hoàn toàn phục tùng xã hội, vào thời đại chúng ta, tự do ở mức độ cao hơn hay thấp hơn của các hình thức Nhà nước được xác định bởi mức độ chúng hạn chế tự do của Nhà nước”. V. I. Lênin tiếp thu tư tưởng của C. Mác về Nhà nước pháp luật và phát triển nó trong điều kiện thực tiễn mới phải kế thừa di sản mà loài người đã tích luỹ được; dưới chủ nghĩa xã hội để điều tiết sản xuất và phân phối sản phẩm cần phải dùng pháp quyền mà tính tư sản, do đó cần “Một Nhà nước tư sản không có giai cấp tư sản”. Tiếp tục tư tưởng đó của Lênin, các nhà tư tưởng sau này khi bàn đến nội dung, bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN đã khẳng định: “Không thể nêu một nguyên tắc nào của quan điểm Nhà nước pháp quyền XHCN mà chưa được xây dựng từ lâu hoặc không có những điều tương tự trong các Nhà nước thuộc các hệ thống xã hội khác nhau”. Từ quan điểm đó, các nhà chính trị pháp lý và triết học Mác – Lênin về Nhà nước pháp quyền đều nhấn mạnh đến các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân như: quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, tính tối cao của luật, nguyên tắc phân quyền và thống nhất quyền lực. Trong Nhà nước đó, về bản chất pháp luật phải đảm bảo tính khách quan công bằng, bình đẳng; pháp luật đảm bảo quyền con người, quyền tự do dân chủ được quan tâm đặc biệt. Kế thừa và phát huy những tư tưởng tiến bộ đó của nhân loại, Đảng ta cho rằng việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân phải phù hợp với chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối của nền kinh tế thị trường với định hướng XHCN. Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân phải phù hợp với tính chất xã hội hoá theo hướng phát huy cao độ sáng kiến của cá nhân, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân tự do sáng tạo trong mọi hoạt động của mình. Để làm được điều đó, Nhà nước có vai trò điều tiết kinh tế ở tầm vĩ mô, Nhà nước lo cho dân, tạo điều kiện để nhân dân thực hiện mọi chức năng xã hội của mình. Do vậy, chức năng xã hội của Nhà nước ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu. Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải kế thừa những giá trị nhân loại trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, chúng ta cũng không xem nhẹ truyền thống, đặc điểm dân tộc, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Như vậy, Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân và vì dân vừa phản ánh cái vốn có, đang có, lại vừa phản ánh cả xu hướng đang đến của lịch sử dân tộc và của thời đại. CHÚ THÍCH Hồ Chí Minh toàn tập, T.5, NXB Chính trị quốc gia, HN – 1995, Tr. 698. Nguyễn Duy Quý. Một số suy nghĩ về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Tạp chí nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, số 2 – 1992, tr. 13. Hồ Chí Minh toàn tập, T.5, NXB Chính trị quốc gia, HN – 1995, tr. 60. Hồ Chí Minh toàn tập, T.5, NXB Chính trị quốc gia, HN – 1996, tr. 375. Hồ Chí Minh toàn tập, T.5, NXB Chính trị quốc gia, HN – 1995, tr. 56. Chính trị học. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, HN – 1994, tr. 197. Chính trị học. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, HN – 1994, tr. 199. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 – Khoá VII, HN – 1995, tr. 24. KẾT LUẬN Chính quyền nhà nước của ta là sản phẩm của cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đó chuyên chính với kẻ thù của dân tộc, đồng thời là công cụ của nhân dân xây dựng xã hội mới. Chế độ xã hội đó như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Chỉ có chế độ của chúng ta mới thật sự phục vụ lợi ích của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, bảo đảm mọi quyền lợi của nhân dân, mở rộng dân chủ để nhân dân thực sự tham gia quản lý nhà nước. Vì vậy cho nên nhân dân ta đưa hết khả năng làm tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà để xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho nước ta mạnh, dân ta giàu". TÀI LIỆU THAM KHẢO Hồ Chí Minh toàn tập Nguyễn Duy Quý. Một số suy nghĩ về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Tạp chí nghiên cứu Nhà nước và pháp luật Chính trị học. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 – Khoá VII Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII 20-25/1/1994 Một số trang web như: www.tapchicongsan.org.vn; www.tiengnoitudodanchu.org www.cpv.org.vn ; www.xaydungdang.org.vn …

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_nop_tthcm_detai3_326.doc
Tài liệu liên quan