Kết luận
Qua việc phân tích vật quyền đối với tàu biển được
quy định trong BLHHVN năm 2015 với tư cách là luật
chuyên ngành để chỉ ra những điểm tương đồng và
khác biệt với vật quyền được quy định trong BLDS
năm 2015 với tư cách là luật chung đã góp phần làm
giàu thêm, sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và pháp
lý về vật quyền liên quan tới tàu biển, từ đó giúp các
Nhà nghiên cứu, các Chủ hàng, Chủ tàu, các cơ quan
quản lý nhà nước và các chủ thể liên quan có thể dễ
dàng hơn trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của
mình và tuân thủ pháp luật một cách nghiêm minh.
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm tác giả đã chỉ ra
những tồn tại bất cập để từ đó đề xuất một số kiến nghị
với mong muốn góp một phần nhỏ bé trong việc hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về vật quyền đối với tàu biển.
Bài báo cũng chính là một phần kết quả nghiên cứu
của nhóm tác giả trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Trường năm 2019-2020 với tên đề tài: “Nghiên cứu
chế định quyền sở hữu trong pháp luật Dân sự Việt
Nam dưới góc độ luật so sánh”.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 185 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vật quyền đối với tàu biển theo pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI Số - 62 (04/2020)
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY (ISSN: 1859-316X) JMST
84
VẬT QUYỀN ĐỐI VỚI TÀU BIỂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
RIGHTS IN REM ON SHIP UNDER VIETNAM LEGAL SYSTEM
LƯƠNG THỊ KIM DUNG*, BÙI HƯNG NGUYÊN, NGUYỄN VIẾT HÀ
Khoa Hàng hải, Trường Đại học Hàng hải Việt Nam
*Email liên hệ: dungltk.hh@vimaru.edu.vn
1. Đặt vấn đề
Đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống con
người, tài sản và vật quyền đối với tài sản luôn là một
chế định chiếm vị trí trung tâm trong Bộ luật Dân sự
của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Bộ luật
Dân sự Việt Nam. Tàu biển cũng là một loại tài sản,
nhưng là một loại tài sản đặc thù, do đó, vật quyền đối
với tàu biển, ngoài việc tuân theo các quy định chung
của Bộ luật Dân sự thì còn có các quy định riêng trong
Bộ luật Hàng hải. Nghiên cứu khía cạnh pháp lý của
vật quyền đối với tàu biển không phải là chủ đề mới
và đã được một số học giả trên thế giới nghiên cứu, có
thể kể đến như cuốn sách “Drobnig International
Encyclopedia of Comparative Law, Instalment 12”
của tác giả Douglas, bài “The action in Rem and
Arrest” của tác giả G. Schmitt hay bài báo “Bring the
vessel to court: The unique feature of the action in rem
in the admiralty law proceedings” của tác giả Carlo
Corcione đăng trên tạp chí International Review of
Law,... Tuy nhiên, các công trình, bài viết của các học
giả nước ngoài tập trung phân tích vật quyền đối với
tàu biển chủ yếu theo quy định của hệ thống pháp luật
Common-law, dựa trên nền tảng pháp luật Anh hoặc
Hoa Kỳ. Ở Việt Nam, đây là một chủ đề mới, chưa
nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các học giả
trong nước và nếu có, thì chỉ tiếp cận ở từng lĩnh vực
nhỏ, tiêu biểu có thể kể đến như bài báo của tác giả
Nguyễn Đức Việt: “Giải quyết xung đột pháp luật về
quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản ở Việt
Nam hiện nay” [1]. Cơ sở lý luận và pháp lý của vật
quyền đối với tàu biển còn đang là lĩnh vực bỏ ngỏ.
Vì lý do đó, nhóm tác giả lựa chọn nghiên cứu về vật
quyền đối với tàu biển dưới góc độ luật thực định Việt
Nam trong sự so sánh giữa Luật Dân sự - là ngành luật
chung và Luật Hàng hải - là luật chuyên ngành với
mong muốn làm giàu thêm, làm sáng tỏ thêm những
vấn đề lý luận và pháp lý cũng như đề xuất một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vật
quyền đối với tàu biển. Trong giới hạn phạm vi nghiên
cứu của bài báo, khái niệm tàu biển được hiểu theo
quy định tại Điều 13 của Bộ luật Hàng hải năm 2015,
theo đó “tàu biển là phương tiện nổi di động chuyên
dùng hoạt động trên biển, không bao gồm tàu quân sự,
tàu công vụ, tàu cá, phương tiện thủy nội địa, tàu
ngầm, tàu lặn, thủy phi cơ, kho chứa nổi, giàn di động,
ụ nổi”. Do đó, vật quyền đối với những tài sản không
phải là tàu biển theo quy định trên sẽ không thuộc
phạm vi nghiên cứu của bài báo.
2. Quan niệm về tàu biển trong mối tương
quan với khái niệm tài sản trong hệ thống
pháp luật Việt Nam
2.1. Một số điểm tương đồng
Theo quy định tại Điều 105 của Bộ luật Dân sự
Việt Nam năm 2015 (sau đây gọi tắt là BLDSVN năm
2015), tài sản được hiểu là: “vật, tiền, giấy tờ có giá
và quyền tài sản”. Bên cạnh việc phân loại tài sản
thành động sản và bất động sản, tài sản còn bao gồm
tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.
Đối với tài sản là bất động sản, pháp luật dân sự quy
định loại tài sản này được đăng ký theo quy định về
Tóm tắt
Vật quyền là một chế định quan trọng trong pháp
luật dân sự, được quy định dưới góc độ luật chung.
Tuy nhiên, vật quyền đối với tàu biển được quy
định trong pháp luật hàng hải - với tư cách là luật
chuyên ngành lại mang tính đặc thù. Bài báo tập
trung phân tích mối quan hệ giữa quy định của
luật chung với những quy định của luật chuyên
ngành, qua đó giúp làm giàu thêm, sáng tỏ thêm
những vấn đề lý luận và pháp lý của vật quyền đối
với tàu biển đồng thời đề xuất một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vật quyền
đối với tàu biển.
Từ khóa: Vật quyền, tàu biển, pháp luật, Việt Nam.
Abstract
Rights in rem is provided important by civil law in
the perspective of general law. In maritime field,
besides the common understanding, rights in rem
on ship also have specific provisions. The paper
focuses on analyzing the relationship between
general and specific regulations, thereby helping
to clarify on the rights in rem on ship and propose
some recommendations to improve the Vietnamese
law on the rights in rem on ship.
Keywords: Rights in rem, ship, law, Vietnam.
85
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI Số - 62 (04/2020)
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY (ISSN: 1859-316X) JMST
đăng ký tài sản. Đối với tài sản là động sản, pháp luật
dân sự quy định không phải đăng ký, trừ trường hợp
pháp luật về đăng ký tài sản có quy định khác.
Tương thích với các quy định trên, tàu biển trong
Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015 (sau đây gọi tắt
là BLHHVN năm 2015) được hiểu là động sản và theo
quy định của Chương 2 trong BLHHVN năm 2015,
tàu biển phải làm thủ tục đăng ký với cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền. Thêm vào đó, tài sản có thể được
tồn tại dưới dạng tài sản được hình thành trong tương
lai. Tương ứng với quy định này, tàu biển đang trong
quá trình đóng mới, dù hiện tại vẫn chưa hoàn thiện
dựa trên phương diện cấu trúc hoặc chức năng, nhưng
theo quy định tại Điều 23 của BLHHVN năm 2015,
chủ tàu có quyền đăng ký cho tàu biển đó. Sau khi
đăng ký được hoàn thành, chủ sở hữu có thể chính
thức xác lập quyền sở hữu đối với tàu biển đó, như là
một dạng tài sản tồn tại ở tương lai.
2.2. Một vài yếu tố đặc thù của loại tài sản là
tàu biển
Tàu biển là một động sản phải đăng ký nhưng khác
với tàu sản thông thường, việc đăng ký thuộc về chủ
sở hữu tài sản thì theo quy định tại Điều 18 BLHHVN
năm 2015, chủ tàu Việt Nam hoặc chủ tàu nước ngoài
đều có thể đăng ký quyền sở hữu tàu biển hoặc đăng
ký quốc tịch tàu biển hoặc cả hai, tùy từng trường hợp
cụ thể trong Sổ đăng ký tàu biển quốc gia Việt Nam.
Ngoài việc chủ tàu được đăng ký quyền sở hữu tàu
biển, tàu biển nước ngoài do tổ chức, cá nhân Việt
Nam thuê theo hình thức thuê tàu trần, thuê mua tàu
cũng có thể được đăng ký mang cờ quốc tịch Việt
Nam. Ngược lại, tàu biển thuộc sở hữu của tổ chức, cá
nhân Việt Nam có thể được đăng ký mang cờ quốc
tịch nước ngoài.
Trong pháp luật dân sự, tài sản không được quy
định có quốc tịch riêng. Pháp luật điều chỉnh tài sản
phụ thuộc vào nơi tài sản hiện diện và quốc tịch của
chủ sở hữu tài sản ấy. Ngược lại, đối với tàu biển, quốc
tịch của tàu biển tồn tại độc lập với quốc tịch của chủ
tàu. Thậm chí, quốc tịch tàu biển là một bộ phận cấu
thành để đánh giá giá trị của con tàu. Hiện tượng này
được giải thích dựa trên một số lý do sau đây:
Thứ nhất, theo truyền thống, tàu biển được cộng
đồng quốc tế công nhận như một phần lãnh thổ mở
rộng của một quốc gia. Vì vậy, quốc tịch của tàu biển
là cơ sở pháp lý để xác định pháp luật quốc gia mà tàu
biển phải tuân thủ theo “nguyên tắc cờ tàu” cũng như
những tiêu chuẩn mà tàu đó phải tuân thủ dựa trên
quốc tịch tàu.
Thứ hai, xét dưới góc độ thương mại. Việc đăng
ký quốc tịch tàu biển một cách linh hoạt và độc lập
với quốc tịch của chủ tàu mang lại cho chủ tàu và
nhiều chủ thể khác nhiều lợi ích, trong đó phải kể đến
như giảm chi phí khai thác con tàu, qua đó tăng tính
cạnh tranh cho các hãng tàu biển. Cho đến ngày nay,
nhiều chủ tàu từ các khu vực khác nhau trên thế giới
đều thực hiện việc đăng ký quốc tịch tàu theo cơ chế
trên. Tàu biển treo cờ quốc tịch như thế gọi là tàu biển
treo cờ thuận tiện (Flags of Convenience hoặc Free
Flags) [2].
Có thể thấy, tàu biển không chỉ là một loại tài sản
thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật tư trong hệ
thống pháp luật quốc gia mà còn được Luật quốc tế
coi như một phần lãnh thổ mở rộng của quốc gia mà
tàu biển mang quốc tịch. Do đó, tàu biển là một loại
tài sản được pháp luật quốc gia công nhận và bảo vệ,
đến lượt mình tàu biển lại tạo cơ sở để pháp luật quốc
gia hiện diện trên nó. Đây là một đặc điểm rất ít loại
tài sản có thể có được. Với những yếu tố đặc thù của
mình, những vật quyền đối với tàu biển trong pháp
luật Việt Nam đã có nhiều điểm riêng biệt
3. Vật quyền đối với tàu biển theo pháp luật
Việt Nam
Khái niệm vật quyền bắt đầu được xây dựng trong
Luật La Mã và được biết dưới tên gọi jus in re (quyền
trên vật). Đây là một quyền được đòi hỏi trong một
loại án kiện mà trong đó bị đơn không được xác định,
gọi là action in rem, phân biệt với loại án kiện mà
trong đó bị đơn được xác định rõ lai lịch, goi là action
in personam. Theo cuốn từ điển Luật học của Viện
khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, “vật quyền là quyền
thực hiện trực tiếp trên vật và có tác dụng mang lại
cho người có quyền toàn bộ hoặc một phần tiện ích
kinh tế của vật đó”. Còn Theo PGS. TS. Dương
Đăng Huệ, thì “vật quyền là quyền trên vật. Một
người có tài sản thì có quyền trên vật, hay gọi theo
cách khác đó là quyền sở hữu. Quyền trên tài sản của
người khác thì gọi là vật quyền khác” [4].
Mặc dù BLDSVN năm 2015 không trực tiếp sử
dụng thuật ngữ vật quyền, nhưng đã ghi nhận nội dung
của vật quyền đối với tài sản bao gồm “quyền sở hữu
đối với tài sản” được quy định tại Phần hai của Bộ luật
và “quyền khác đối với tài sản” được quy định tại Điều
159 của Bộ luật. Quyền khác đối với tài sản là quyền
của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc
quyền sở hữu của chủ thể khác, bao gồm: quyền đối
với bất động sản liền kề; quyền hưởng dụng; quyền bề
mặt. Quyền khác đối với tài sản vẫn có hiệu lực kể cả
trong trường hợp quyền sở hữu đã được chuyển giao,
trừ trường hợp BLDS, luật khác có liên quan quy định
khác. Điều này phản ánh một trong những tư tưởng
cốt lõi của vật quyền, đó là quyền này cho phép chủ
sở hữu quyền được phép thực hiện quyền của mình,
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI Số - 62 (04/2020)
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY (ISSN: 1859-316X)
JMST
86
bất kể vật đó đang thuộc quyền sở hữu của ai. Vật
quyền đối với tàu biển ngoài những quy định chung
về vật quyền đối với tài sản ghi nhận trong BLDSVN
năm 2015 còn được quy định riêng trong BLHHVN
năm 2015 với những điểm đặc thù.
3.1. Quyền sở hữu
Đối với tài sản thông thường, theo quy định tại
Điều 158 BLDS năm 2015 thì cấu thành quyền sở hữu
bao gồm “quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền
định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của
luật”. Việc thực hiện quyền sở hữu có thể được thực
hiện bởi chủ sở hữu hoặc các chủ thể khác được chủ
thể ủy quyền hoặc được thực hiện quyền của chủ sở
hữu trong một số trường hợp đặc biệt được pháp luật
quy định.
Đối với tàu biển, theo pháp luật Việt Nam, chủ tàu
thực hiện quyền sở hữu của mình có những yếu tố
khác biệt so với tài sản thông thường, cụ thể như sau:
Một là, về hình thức sở hữu đối với tàu biển. Đối
với tài sản thông thường, việc sở hữu tài sản được thể
hiện dưới một trong ba hình thức là: sở hữu toàn dân
(do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu), sở hữu chung,
sở hữu riêng. Đối với tàu biển, ngoài ba hình thức sở
hữu nêu trên, pháp luật Việt Nam còn quy định tàu
biển được sở hữu dưới dạng sở hữu cổ phần. Trong hệ
thống pháp luật hiện hành, khi nhắc đến cổ phần,
người ta hiểu rằng nó là một loại giấy tờ có giá, tức là
một loại tài sản. Tại điểm a khoản 1 Điều 18 của
BLHHVN năm 2015 quy định: “...Trường hợp tàu
biển thuộc sở hữu của từ hai tổ chức, cá nhân trở lên
thì việc đăng ký phải ghi rõ các chủ sở hữu và tỷ lệ sở
hữu tàu biển đó”. Ngoài ra, tại khoản 4 Điều 36
BLHHVN năm 2015 cũng quy định: “Các quy định
về chuyển quyền sở hữu tàu biển được áp dụng đối
với việc chuyển quyền sở hữu cổ phần tàu biển”. Như
vậy, mặc dù không được giải thích rõ ràng, nhưng qua
quy định của BLHHVN năm 2015, có thể hiểu việc sở
hữu cổ phần tàu biển tương tự hình thức sở hữu chung
được quy định trong BLDSVN năm 2015.
Hai là, chủ tàu có thể tự mình thực hiện quyền sử
dụng (tự khai thác công dụng của tàu biển, hưởng lợi
tức có được từ tàu biển) hoặc cho người khác thực
hiện quyền sử dụng. Quyền này hoàn toàn giống với
quyền sử dụng của các loại tài sản thông thường trong
pháp luật dân sự. Tuy nhiên, khác với việc sử dụng tài
sản thông thường, đối với tàu biển, khi chủ tàu cho
thuê tàu, đặc biệt là hình thức thuê tàu trần (Bareboat
charter), người thuê tàu trần được pháp luật đối xử như
đối với chủ tàu. Cụ thể, theo quy định tại Điều 18 của
BLHHVN năm 2015, người thuê tàu trần có thể đăng
ký tàu biển đối với con tàu mình thuê. Thêm vào đó,
đối với người thuê tàu trần, chủ thể này có nhiều vật
quyền có tính độc lập đối với chủ tàu mà đối với tài
sản thông thường, người thuê không thể có được.
Những vật quyền này không chỉ được giới hạn trong
phạm vi pháp luật quốc gia mà nó còn được các bên
thỏa thuận trong hợp đồng thuê tàu (Bareboat charter
party) trên cơ sở không trái với nguyên tắc của pháp
luật quốc gia.
Ba là, chủ tàu có quyền đặt tên đối với tàu biển.
Có lẽ tàu biển là một trong số rất ít tài sản mà pháp
luật quy định có tên riêng. Thậm chí quy định về việc
đặt tên cho tàu biển có những nét giống việc đặt tên
đối với một doanh nghiệp khi chủ doanh nghiệp tiến
hành các thủ tục để thành lập doanh nghiệp.
Bốn là, chủ tàu khi thực hiện quyền đối với tàu
biển Việt Nam trong đó có việc tiến hành các công
việc khác nhau để có thể khai thác con tàu đó, thì việc
lựa chọn đăng kiểm đối với tàu biển cũng là một
quyền rất đặc thù dành cho chủ tàu. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 28 BLHHVN năm 2015, tàu biển Việt
Nam “phải được tổ chức đăng kiểm Việt Nam hoặc tổ
chức đăng kiểm nước ngoài được Bộ trưởng Bộ Giao
thông vận tải ủy quyền kiểm định, phân cấp, cấp các
giấy chứng nhận kỹ thuật về an toàn hàng hải, an ninh
hàng hải, điều kiện bảo đảm lao động hàng hải và
phòng ngừa ô nhiễm môi trường theo quy định của
pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.
Năm là, khi thực hiện quyền định đoạt đối với tàu
biển, đặc biệt khi chủ tàu từ bỏ tàu biển, chủ tàu cần
định đoạt về mặt pháp lý đối với con tàu đó. Việc tiến
hành định đoạt theo cách thức này tạo cơ sở để những
chủ thể có quyền và nghĩa vụ liên quan đến tàu biển
có thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ của mình,
đặc biệt người bảo hiểm. BLHHVN năm 2015 có quy
định, quyền từ bỏ đối tượng bảo hiểm có thể được áp
dụng trong trường hợp: tàu biển bị chìm đắm, bị
cưỡng đoạt, bị hư hỏng do tai nạn mà không thể sửa
chữa được hoặc chi phí sửa chữa, phục hồi, chuộc tàu
biển là không có hiệu quả kinh tế. Việc thực hiện
quyền từ bỏ đối tượng bảo hiểm phải được tuyên bố
bằng văn bản ghi rõ căn cứ áp dụng quyền từ bỏ đối
tượng bảo hiểm. Trong trường hợp chủ tàu định đoạt
về mặt thực tế đối với tàu biển như trong trường hợp
phá dỡ tàu biển thì hoạt động này phải bảo đảm quốc
87
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI Số - 62 (04/2020)
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY (ISSN: 1859-316X) JMST
phòng, an ninh, an toàn hàng hải, an ninh hàng hải, an
toàn lao động, phòng chống cháy, nổ, bảo vệ sức khỏe
con người và môi trường. Chủ tàu chỉ có thể thực hiện
việc phá dỡ tàu biển tại các cơ sở phá dỡ tàu biển được
phép hoạt động theo pháp luật.
Sáu là, quyền sở hữu đối với tàu biển có thể được
xác lập bởi Nhà nước Việt Nam đối với tàu biển chìm
đắm khi chủ tàu không thực hiện nghĩa vụ trục vớt tàu
biển. Theo quy định tại Điều 281 BLHHVN năm 2015,
chủ sở hữu tàu biển sẽ mất quyền sở hữu đối với tàu
biển chìm đắm trong trường hợp không thông báo
hoặc không trục vớt tài sản trong thời hạn quy định tại
Điều 278 và Điều 279 của Bộ luật này và tài sản chìm
đắm đó đương nhiên trở thành tài sản của Nhà nước
Việt Nam.
3.2. Vật quyền đối với tàu biển là tài sản bảo đảm
Xuất phát từ những tính chất riêng có của tàu biển,
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ liên quan đến
tàu biển được BLHHVN năm 2015 quy định gồm các
biện pháp là: thế chấp tàu biển và giữ tàu biển.
Đối với thế chấp tàu biển, biện pháp này cũng
được quy định trong BLDSVN năm 2015 đối với tài
sản nói chung. Bên cạnh những quyền của bên thế
chấp, bên nhận thế chấp giống với tài sản thông
thường như: quyền thế chấp tàu biển thuộc sở hữu của
mình, quyền đăng ký thế chấp tàu biển trong Sổ đăng
ký tàu biển quốc gia, quyền xử lý tàu biển bị thế chấp
để bảo vệ quyền lợi của mình,... thì bên nhận thế chấp
đối với tàu biển theo quy định của Điều 38 BLHHVN
năm 2015 không có quyền giữ giấy tờ gốc Đăng ký
tàu biển mà chỉ được giữ bản sao. Điều này là khác so
với việc thế chấp đối với tài sản thông thường mà
BLDSVN năm 2015 quy định là nếu không có thỏa
thuận khác, bên nhận thế chấp có quyền giữ giấy tờ
gốc đối với tài sản thế chấp.
Liên quan đến hiệu lực đối kháng với bên thứ ba,
đối với tài sản thông thường, biện pháp bảo đảm phát
sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký
biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ
hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm. Khi biện pháp bảo đảm
phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì bên
nhận bảo đảm được quyền truy đòi tài sản bảo đảm và
được quyền thanh toán theo quy định. Đối với tàu biển,
một ngoại lệ rất quan trọng, có ý nghĩa đối với bên thứ
ba, nhưng lại dẫn đến bất lợi cho bên nhận thế chấp khi
Điều 41 BLHHVN năm 2015 quy định về quyền cầm
giữ hàng hải (một loại quyền ưu tiên thanh toán của
người có khiếu nại hàng hải) có thứ tự ưu tiên cao hơn
các khiếu nại hàng hải được bảo đảm bằng thế chấp tàu
biển và các giao dịch bảo đảm khác.
Đối với giữ tàu biển, biện pháp bảo đảm này tương
ứng với cầm giữ tài sản trong dân sự. Trong cầm giữ
tài sản, đây là biện pháp được thực hiện đối với hợp
đồng song vụ có đối tượng là tài sản, theo đó bên cầm
giữ được chiếm giữ tài sản trong trường hợp bên có
nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ. Cầm giữ tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng
với người thứ ba kể từ thời điểm bên cầm giữ chiếm
giữ tài sản. Đối với tàu biển, trong quan hệ hợp đồng
cứu hộ hàng hải, mặc dù đối tượng của hợp đồng là
việc cứu hộ hàng hải (đối tượng của hợp đồng là một
loại nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng chứ không phải là
tài sản), nhưng Điều 273 BLHHVN năm 2015 lại cho
phép bên cứu hộ có quyền giữ tàu biển như một biện
pháp bảo đảm để chủ tàu thanh toán tiền công cứu hộ
và các chi phí khác liên quan đến cứu hộ con tàu.
Vậy trong trường hợp nhiều biện pháp bảo đảm cùng
được thực hiện trên một tài sản thì xử lý như thế nào?
BLDSVN năm 2015 không trực tiếp quy định cơ chế giải
quyết điều này, vì dường như cách thức quy định trong
BLDSVN hiện hành thiên về việc quy định một tài sản
được bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ hơn là việc quy
định nhiều biện pháp bảo đảm, nếu chúng không xung
đột với nhau, được thực hiện trên một tài sản. Do đó,
quan điểm của BLDSVN năm 2015 về cơ bản căn cứ
theo thứ tự thời gian của các biện pháp bảo đảm để xác
định việc ưu tiên thanh toán đối với chủ thể có quyền,
nếu chúng cùng phát sinh hiệu lực đối kháng với người
thứ ba. Vấn đề này, BLHHVN năm 2015 đã có giải pháp
rất rõ ràng, theo đó bên cứu hộ (có quyền giữ tàu biển) là
bên có quyền cầm giữ hàng hải, mà đối với quyền cầm
giữ hàng hải, quyền này được ưu tiên hơn so với thế chấp
tàu biển bất kể là việc thế chấp tàu biển đã được thực
hiện trước khi phát sinh khiếu nại hàng hải để hình thành
quyền cầm giữ hàng hải.
3.3. Bắt giữ tàu biển - một vật quyền đối với
tàu biển được thực hiện bởi tòa án
Đối với tài sản thông thường, trong trường hợp chủ
thể có nghĩa vụ, bất kể là nghĩa vụ trong quan hệ hợp
đồng hay nghĩa vụ ngoài hợp đồng, thì người có quyền
không thể yêu cầu tòa án ra quyết định “bắt giữ” tài sản
hay những biện pháp tương tự khi người có quyền chưa
khởi kiện ra tòa án. Thêm vào đó, việc tòa án tiến hành
những việc liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của mình
chủ yếu được dựa trên cơ sở các luật tố tụng. Trong lĩnh
vực hàng hải, việc bắt giữ tàu biển có thể xuất phát từ
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI Số - 62 (04/2020)
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY (ISSN: 1859-316X)
JMST
88
nhiều lý do, nhưng một trong những lý do dẫn đến việc
tòa án ra quyết định bắt giữ tàu biển là xuất phát từ yêu
cầu của người có khiếu nại hàng hải nhằm bảo đảm việc
giải quyết khiếu nại hàng hải, mặc dù có thể trong quan
hệ hợp đồng, các bên có thỏa thuận về một tòa án hay tổ
chức trọng tài ở một quốc gia nào đó có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp. Về bản chất, đây là thủ tục tiền tố tụng
được chủ thể có quyền thực hiện khi chưa khởi kiện. Một
điều khá phức tạp đối với việc bắt giữ tàu biển đó là,
thẩm quyền bắt giữ tàu biển của toà án cũng như quyền
yêu cầu của người có khiếu nại hàng hải không bị giới
hạn bởi quốc tịch của người yêu cầu bắt giữ tàu biển hay
quốc tịch của tàu biển, miễn là người yêu cầu bắt giữ tàu
biển chứng minh được tính hợp pháp của yêu cầu bắt giữ
của mình xuất phát từ một trong các khiếu nại hàng hải
được pháp luật quy định, đã tiến hành các biện pháp bảo
đảm tài chính và việc bắt giữ tàu biển thỏa mãn được
những điều kiện mà BLHHVN năm 2015 quy định.
Những quy định về bắt giữ tàu biển được quy định tại
Chương V trong BLHHVN năm 2015 là hoàn toàn
tương thích với pháp luật quốc tế có thể kể đến như Công
ước Luật Biển năm 1982, Công ước Brussels 1952 về bắt
giữ tàu biển, Công ước năm 1967 về thống nhất các quy
tắc chung liên quan đến cầm giữ và cầm cố tàu biển,
Công ước 1999 về bắt giữ tàu biển.
4. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về vật quyền đối với tàu biển
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và pháp
lý liên quan đến vật quyền đối với tàu biển, nhóm tác
giả xin đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về vật quyền đối với tàu biển.
Thứ nhất: kiến nghị bổ sung thêm các quy định
trong BLHHVN năm 2015 về việc sở hữu cổ phần đối
với tàu biển nhằm cụ thể hóa các vấn đề như quyền và
nghĩa vụ của các chủ sở hữu, vấn đề chuyển nhượng
cổ phần khi con tàu đó thuộc sở hữu của từ hai cá nhân
hay tổ chức trở lên.
Hiện tượng nhiều chủ sở hữu cùng sở hữu một con
tàu là rất phổ biến trên thế giới. Sự phổ biến này khiến
cho pháp luật nhiều nước, đặc biệt là pháp luật của
những nước chịu ảnh hưởng của luật Anh, đã quy định
việc phân chia quyền sở hữu tàu biển có thể được chia
thành 64 phần (shares) cho các chủ sở hữu. Liên quan
đến con số 64 này, có nhiều giả thuyết khác nhau, một
số ý kiến cho rằng tập quán này xuất phát từ các thành
bang của Ý thời kỳ Trung cổ. Số khác cho rằng đó là
tập quán đến từ phía Bắc của người Viking. Một quan
điểm khác lại cho rằng, tàu biển từ xưa vốn có 64
xương tàu (rib). Một quan điểm nữa cho rằng, xa xưa
Nữ hoàng Anh đánh thuế với tỷ lệ 36/100. 64/100 còn
lại thuộc về thương nhân. Quan điểm nghiêng về khía
cạnh toán học cho rằng việc phân chia sở hữu tàu biển
sẽ là nhanh nhất và chính xác nhất bằng hệ nhị phân
(1/2, 1/4, 1/8, 1/16, 1/32, 1/64). Hiện tại Pháp luật của
Anh, Canada, New Zealand, Australia đang quy định
tỷ lệ đối đa là 64 cổ phần, trong khi tại Pháp là con số
24 cổ phần [3].
Việc pháp luật Anh hoặc những nước chịu ảnh
hưởng của hệ thống pháp luật Common-law có quy
định về cổ phần tàu biển hoàn toàn tương thích với
luật thương mại của nước đó. Cụ thể, trong luật
thương mại của những nước này, khi đề cập đến các
dạng tổ chức kinh doanh, ngoài các công ty
(Company) còn có mô hình kinh doanh là các
Partnership. Bản thân những Partnership này là những
cá nhân chung vốn để đầu tư mua tàu biển và sở hữu
cổ phần của tàu biển như là những đồng chủ sở hữu
(Co-ownership). Các Partnership không có tư cách
pháp nhân (legal person) độc lập. Trường hợp này cần
được phân biệt với việc một công ty cổ phần (Joint
Stock Company) được thành lập bởi nhiều cổ đông
(Shareholders), lúc này công ty cổ phần mới là chủ sở
hữu tàu biển. Tàu biển vẫn chỉ thuộc về một chủ sở
hữu là công ty cổ phần chứ không thuộc về sở hữu của
nhiều cổ đông, vì công ty cổ phần là một pháp nhân
có tư cách và tài sản độc lập với tài sản của cổ đông,
mà tàu biển là một trong số những tài sản đó. Đây là
những kinh nghiệm quý để các nhà lập pháp Việt Nam
có thể nghiên cứu sửa đổi bổ sung nhằm hoàn thiện
pháp luật hàng hải Việt Nam liên quan tới các quy
định về cổ phần đối với tàu biển.
Thứ hai: kiến nghị sửa đối Điều 38 BLHHVN
năm 2015 theo hướng nếu không có thỏa thuận khác,
bên nhận thế chấp có quyền được giữ bản gốc Đăng
ký tàu biển. Việc quy định bên nhận thế chấp tàu
biển chỉ được giữ bản sao Đăng ký tàu biển như
BLHHVN hiện hành dễ tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cho
bên nhận thế chấp trong quá trình xử lý tài sản bảo
đảm khi bên thế chấp không thực hiện được nghĩa
vụ tài chính, đặc biệt trong bối cảnh bên thế chấp
cố tình gian lận khi dùng một tàu biển để thế chấp
bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ tài chính khác nhau tại
nhiều bên nhận bảo đảm khác nhau.
Thứ ba: kiến nghị hoàn thiện một số quy định
pháp luật về bắt giữ tàu biển - một vật quyền đối
với tàu biển được thực hiện bởi tòa án. Hiện nay
89
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI Số - 62 (04/2020)
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY (ISSN: 1859-316X) JMST
trong Pháp lệnh bắt giữ tàu biển năm 2008 và dự
thảo Luật biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi
khởi kiện và thủ tục bắt giữ tàu biển năm 2019 vẫn
tồn tại một số bất cập như sau:
Về biện pháp bảo đảm tài chính cho yêu cầu bắt
giữ tàu biển có quy định giá trị bảo đảm tài chính sẽ
do Tòa án ấn định tương đương với thiệt hại có thể
phát sinh do hậu quả của việc yêu cầu bắt giữ. Tuy
nhiên, trên thực tế, Tòa án gặp nhiều khó khăn cho
việc ấn định giá trị tài sản bảo đảm do chưa quy định
cụ thể các căn cứ để ước tính thiệt hại có thể xảy ra.
Vì vậy cần bổ sung quy định cụ thể hơn về căn cứ xác
định giá trị bảo đảm tài chính (ví dụ: thiệt hại có thể
phát sinh dựa vào các chi phí mà tàu biển phải trả cho
cảng; các chi phí về tiền lương, tiền công trả cho người
lao động; chi phí bồi thường thiệt hại cho tàu do vi
phạm hợp đồng, trong thời gian tàu biển bị bắt giữ).
Về tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn yêu cầu bắt giữ
tàu biển hoặc văn bản yêu cầu thả tàu biển đang bị bắt
giữ, theo quy định hiện hành thì gửi kèm theo đơn yêu
cầu áp dụng biện pháp bắt giữ tàu biển, phải có tài liệu,
chứng cứ. Nếu các tài liệu này bằng tiếng nước ngoài
thì phải dịch sang tiếng Việt và được chứng thực hợp
pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đối với
tài liệu, giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài
lập, cấp, xác nhận theo pháp luật nước ngoài thì phải
được hợp pháp hóa lãnh sự. Thực tế thực hiện đã cho
thấy quy định này gây ra nhiều vướng mắc, bởi việc
phải dịch ra bằng tiếng Việt các hồ sơ, chứng cứ liên
quan đến tàu biển hoặc hợp thức hóa lãnh sự mất rất
nhiều thời gian trong khi lịch dỡ hàng tại cảng của tàu
bị bắt giữ ngắn và sau khi dỡ hàng hóa xong nếu như
không có quyết định bắt giữ tàu biển của Tòa thì tàu
sẽ rời khỏi cảng, rời khỏi lãnh thổ Việt Nam. Do đó,
nên sửa đổi tinh giản thủ tục theo hướng bỏ thủ tục
chứng thực, hợp pháp hóa lãnh sự tài liệu dịch; nộp
trước tài liệu chưa dịch để đảm bảo xử lý nhanh yêu
cầu bắt giữ tàu biển).
5. Kết luận
Qua việc phân tích vật quyền đối với tàu biển được
quy định trong BLHHVN năm 2015 với tư cách là luật
chuyên ngành để chỉ ra những điểm tương đồng và
khác biệt với vật quyền được quy định trong BLDS
năm 2015 với tư cách là luật chung đã góp phần làm
giàu thêm, sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và pháp
lý về vật quyền liên quan tới tàu biển, từ đó giúp các
Nhà nghiên cứu, các Chủ hàng, Chủ tàu, các cơ quan
quản lý nhà nước và các chủ thể liên quan có thể dễ
dàng hơn trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của
mình và tuân thủ pháp luật một cách nghiêm minh.
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm tác giả đã chỉ ra
những tồn tại bất cập để từ đó đề xuất một số kiến nghị
với mong muốn góp một phần nhỏ bé trong việc hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về vật quyền đối với tàu biển.
Bài báo cũng chính là một phần kết quả nghiên cứu
của nhóm tác giả trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Trường năm 2019-2020 với tên đề tài: “Nghiên cứu
chế định quyền sở hữu trong pháp luật Dân sự Việt
Nam dưới góc độ luật so sánh”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/giai-
quyet-xung-dot-phap-luat-ve-quyen-so-huu-va-
quyen-khac-doi-voi-tai-san-o-viet-nam-hien-
nay-5953/
[2]https://www.oceanfdn.org/sites/default/files/Gr
egory_georgetown.pdf.
[3]
253359.1959.10658458?journalCode.
[4] ThS. Đoàn Ngọc Hải, “Vật quyền trong pháp luật
Dân sự Việt Nam”, Tạp chí Tòa án Nhân dân,
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/vat-quyen-
trong-phap-luat-dan-su-viet-nam.
Ngày nhận bài: 07/01/2020
Ngày nhận bản sửa: 19/02/2020
Ngày duyệt đăng: 28/02/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vat_quyen_doi_voi_tau_bien_theo_phap_luat_viet_nam.pdf