The paper mentioned the influence of topography of the free surface to seismic ground motions, an important topic in
the field of enginerring seismology, but often overlooked in seismic hazard assessments in Vietnam. The paper also
introduced a method for estimating these effects in Vietnam context that the distribution of the seismic stations is sparse
and the seismic activity is not so high. It is a method to allow simulating seismic wave propagations in three-dimensional
media using numerical calculations in unstructured meshes. The method was then applied to investigate the changes of
a simple seismic wave field generated by a plane P wave when changing the topography model of the free surface in a
systematic way. The main goal of the study was to show effects of topography on seismic ground motions, and initially
set up the basis for future assessments of such topography effects at specific locations in Vietnam to serve anti-seismic
designs. The obtained results show that topography condition of the free surface is an important factor affecting the
seismic wave field. A certain topography leads to an increase of amplitudes of seismic signals for horizontal components
at sites around mountain summits. Such influences increase or decrease correspondingly with the increase or decrease
of the contrast of the free surface topography
6 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 537 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Về ảnh hưởng của địa hình tới dao động nền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
281
34(3), 281-286 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 9-2012
VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỊA HÌNH TỚI DAO ĐỘNG NỀN
NGUYỄN CÔNG THĂNG1, PHẠM ĐÌNH NGUYỄN2
E-mail: thangtr05@yahoo.com.vn
1Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2Viện Vật lý Địa cầu - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 9 - 7 - 2012
1. Mở đầu
Trong lĩnh vực địa chấn công trình, để phục vụ
công tác quy hoạch và thiết kế chống động đất, các
nhà địa chấn cần xác định được các đặc trưng dao
động nền do động đất sinh ra tại các vị trí quan tâm
[6]. Để làm được điều đó, cần phải biết quá trình
sóng địa chấn lan truyền từ vị trí động đất có thể
phát sinh tới vị trí cần khảo sát. Quá trình này có
thể được phân làm hai giai đoạn: (i) Sóng địa chấn
lan truyền ở phần sâu của Trái Đất, từ vị trí động
đất phát sinh tới nền đá gốc bên dưới vị trí quan
tâm. Môi trường truyền sóng trong giai đoạn này
thường phù hợp với mô hình chung cho khu vực
hoặc toàn cầu; (ii) Sóng địa chấn lan truyền từ nền
đá gốc bên dưới vị trí quan tâm tới mặt đất. Môi
trường truyền sóng trong giai đoạn này thường có
tính đặc thù địa phương, đặc trưng bởi một số yếu
tố chi phối trường sóng địa chấn như đặc điểm
phân bố và tính chất vật lý của các lớp đất đá bên
trên đá gốc, điều kiện địa hình trên mặt [1, 3, 5, 8,
10-14]. Trong công tác đánh giá độ nguy hiểm
động đất cho các vùng phục vụ công tác quy
hoạch, các nhà địa chấn thường dừng lại ở giai
đoạn thứ nhất nêu trên. Tuy vậy, trong công tác
phân vùng chi tiết động đất và xác định các tham
số địa chấn phục vụ thiết kế chống động đất cần
phải tính đến những ảnh hưởng của các yếu tố địa
phương. Một trong các yếu tố địa phương được cho
là có ảnh hưởng tới dao động nền là điều kiện địa
hình của mặt đất [1, 5].
Ở Việt Nam, hoạt động động đất mạnh mẽ nhất
thường diễn ra ở các vùng miền núi, nơi có đặc thù
về địa hình khá phức tạp (xem: Cơ sở dữ liệu cho
các giải pháp giảm nhẹ hậu quả động đất ở Việt
Nam của Nguyễn Đình Xuyên và nnk, 1996 và
[17]. Cho đến nay, mặc dù đã có rất nhiều công
trình đánh giá độ nguy hiểm động đất được thực
hiện cho các đô thị và công trình quan trọng ở
nước ta (chẳng hạn: Phân vùng dự báo chi tiết động
đất ở vùng Tây Bắc của Nguyễn Ngọc Thủy và
nnk, 2005; Cơ sở dữ liệu cho các giải pháp giảm
nhẹ hậu quả động đất ở Việt Nam của Nguyễn
Đình Xuyên và nnk, 1996; Nghiên cứu dự báo
động đất và dao động nền ở Việt Nam của Nguyễn
Đình Xuyên và nnk, 2004; [15] và [17] nhưng chưa
có nghiên cứu nào tiến hành đánh giá ảnh hưởng
của điều kiện địa hình mặt đất tới dao động nền
(sau đây gọi tắt là ảnh hưởng của điều kiện địa
hình). Trong khuôn khổ bài báo này, trước hết
chúng tôi giới thiệu một phương pháp cho phép
đánh giá ảnh hưởng của điều kiện địa hình trong
điều kiện các quan trắc về địa chấn ở Việt Nam còn
rất hạn chế, đó là phương pháp mô phỏng quá trình
lan truyền sóng địa chấn trong không gian ba chiều
(3D) sử dụng các tính toán số trên lưới phi cấu trúc
[4]. Sau đó, chúng tôi ứng dụng phương pháp này
để khảo sát những biến động của một trường sóng
địa chấn đơn giản sinh ra bởi một sóng phẳng P khi
thay đổi các mô hình địa hình trên mặt một cách có
hệ thống. Mục đích chính của nghiên cứu là chỉ ra
những ảnh hưởng của điều kiện địa hình, đồng thời
bước đầu thiết lập cơ sở cho công tác đánh giá ảnh
hưởng của điều kiện địa hình tại những vị trí cụ thể
ở Việt Nam sau này, phục vụ công tác thiết kế
chống động đất.
2. Phương pháp
Để đánh giá được ảnh hưởng của điều kiện địa
hình, người ta cần so sánh băng ghi tín hiệu địa
chấn do cùng một nguồn phát sinh ra, cùng lan
truyền trong một môi trường truyền sóng, nhưng có
282
sự khác biệt về địa hình trên mặt nơi đặt các máy
ghi địa chấn. Ở những khu vực miền núi có mạng
lưới trạm quan trắc địa chấn đủ dày, ảnh hưởng này
có thể thấy được qua các băng ghi dao động nền
khi động đất hoặc các vụ nổ nhân tạo lớn xảy ra.
Trong trường hợp không có được các quan trắc địa
chấn như vậy, để đánh giá ảnh hưởng của điều kiện
địa hình cần thực hiện các mô phỏng quá trình lan
truyền sóng địa chấn trong không gian 3D.
Trong vòng vài thập kỷ qua, cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của công nghệ máy tính, nhiều
phương pháp tính toán số đã được phát triển phục
vụ mô hình hóa các quá trình lan truyền sóng địa
chấn. Một số phương pháp tiêu biểu có thể đề cập
ở đây gồm có phương pháp sai phân hữu hạn [16],
phương pháp giả phổ Fourier [2], phương pháp
phần tử hữu hạn [9], phương pháp phần tử phổ [7].
Gần đây, một phương pháp kết hợp giữa phương
pháp phần tử hữu hạn rời rạc Galerkin và phương
pháp sử dụng các đạo hàm bậc cao tùy ý cho tính
toán dòng chảy (được gọi tắt là phương pháp
ADER-DG) đã được xây dựng và nhanh chóng nổi
tiếng vì những ưu điểm trong việc mô phỏng quá
trình lan truyền sóng địa chấn trong môi trường
đàn hồi nói chung cũng như trong môi trường bất
đồng nhất và có cấu trúc phức tạp [3-5]. Trong
nghiên cứu này, phương pháp ADER-DG sẽ được
chúng tôi sử dụng để đánh giá ảnh hưởng của điều
kiện địa hình. Các giải thích chi tiết về phương
pháp ADER-DG đã được trình bày trong [4]. Một
số ưu điểm nổi trội của phương pháp có thể tóm
lược như sau: (i) Phương pháp cho phép sử dụng
lưới phi cấu trúc 3D hợp thành bởi các phần tử là
các hình khối bốn hoặc sáu mặt để mô hình hóa các
cấu trúc ba chiều phức tạp; (ii) Phương pháp cho
phép sử dụng nhiều đặc tính vật lý (chẳng hạn đàn
hồi, đàn hồi - dẻo chảy, đàn hồi - xốp, bất đẳng
hướng) để mô hình hóa xác thực các vật liệu địa
chất gần mặt đất; (iii) Với việc sử dụng xấp xỉ bậc
cao tùy ý theo không gian và thời gian, phương
pháp có thể cung cấp các băng địa chấn tổng hợp
phức tạp một cách xác thực và có độ chính xác cao.
Những ưu điểm này chính là lý do chúng tôi chọn
sử dụng phương pháp để đánh giá ảnh hưởng của
điều kiện địa hình trong nghiên cứu này.
3. Ảnh hưởng của điều kiện địa hình
Như đã nêu trên, để đánh giá được ảnh hưởng
của điều kiện địa hình, chúng ta cần so sánh tín
hiệu địa chấn do cùng một nguồn phát sinh ra,
cùng lan truyền trong một môi trường truyền sóng,
nhưng có sự khác biệt về địa hình trên mặt nơi bố
trí thu sóng địa chấn. Trong một nghiên cứu trước
đây của chúng tôi, phương pháp ADER-DG cũng
đã được sử dụng để khảo sát sự khác biệt của các
băng ghi địa chấn gây ra bởi một trận động đất xa
có độ lớn M=6,8 thu được tại các vị trí khác nhau
trong một phạm vi hẹp trên một địa hình vùng núi
[5]. Môi trường truyền sóng được giả định là đồng
nhất trong nghiên cứu nêu trên. Kết quả thu được đã
chỉ ra rằng, với các thành phần nằm ngang tại vị trí ở
đỉnh núi, biên độ của tín hiệu địa chấn lớn gấp nhiều
lần biên độ tín hiệu tương ứng ở vị trí chân núi. Rõ
ràng, điều kiện địa hình trên mặt là một yếu tố quan
trọng tác động tới trường sóng địa chấn.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi cũng sử dụng
phương pháp ADER-DG nhưng nhắm tới mục đích
xem xét kỹ hơn ảnh hưởng của một yếu tố cụ thể là
mức tương phản của địa hình tới trường sóng địa
chấn. Để đạt được mục tiêu này, chúng tôi xuất
phát từ một mẫu địa hình trên mặt được giả định
như trên hình 1. Các mẫu địa hình khác nhau sử
dụng trong nghiên cứu này được biến đổi từ mẫu
địa hình giả định ban đầu này theo công thức:
ZM(m,n) = ZR(m,n) + tpf * [ZR(m,n) – ZR(0,0)], (1)
với ZR(m,n) là độ cao tại nút lưới (m,n) trên mẫu
địa hình giả định ban đầu, ZR(0,0) là độ cao tại một
vị trí trung tâm được ký hiệu là S3 trên mẫu địa
hình giả định ban đầu, và ZM(m,n) độ cao tại các nút
lưới (m,n) của mô hình địa hình đã được biến đổi
từ mẫu địa hình giả định ban đầu tương ứng với hệ
số tpf trong công thức (1). Sau đây, tpf được chúng
tôi gọi là hệ số địa hình. Có thể nhận thấy rằng:
(i) với tpf = -1 địa hình trên mặt sẽ phẳng và tại tất
cả các nút lưới đều có độ cao bằng ZR(0,0); (ii) nếu
tpf = 0 địa hình trên mặt chính là mẫu địa hình giả
định ban đầu; (iii) so với mẫu địa hình giả định ban
đầu mức tương phản địa hình sẽ tăng lên nếu như
tpf > 0 và giảm đi nếu như 0tpf1 <<− ; và (iv) độ
cao của vị trí S3 luôn được giữ không thay đổi
ZM(0,0) = ZR(0,0) với mọi giá trị tpf. Để mô hình hóa
chính xác các môi trường truyền sóng có bề mặt là
các mẫu địa hình phức tạp này, chúng tôi sử dụng
lưới phi cấu trúc 3D tạo bởi các phần tử là các khối
tứ diện.
Kích thước mô hình môi trường truyền sóng
phía dưới được lấy khoảng 60km mỗi chiều. Với
kích thước mô hình như vậy, mức độ suy giảm
biên độ dao động của trường sóng địa chấn theo
283
khoảng cách tại các điểm thu tín hiệu trên bề mặt
có thể coi là như nhau. Môi trường được giả định
là đồng nhất với mật độ ρ = 2.9g/cm3, vận tốc
truyền sóng P và S lần lượt là Vp = 6600m/s, Vs =
3700m/s.
Hình 1. (a) Mẫu địa hình trên mặt giả định ban đầu
sử dụng trong nghiên cứu này (màu sẫm ứng với vị trí
cao, màu sáng ứng với vị trí thấp). S1, S2 và S3 là các vị
trí sẽ thu lại tín hiệu địa chấn trong các mô phỏng. Độ cao
so với mặt nước biển của các vị trí S1, S2 và S3 ở đây
lần lượt là 1052,6m, 367,5m và 501,8m; (b) và (c): Vận
tốc dao động nền mô phỏng tại các vị trí S1 và S2 cho
trường hợp một sóng phẳng P truyền từ dưới lên theo
phương thẳng đứng. Ký hiệu x và y ứng với hai thành
phần nằm ngang, còn z ứng với thành phần thẳng đứng
Khi đánh giá về dao động nền phục vụ công tác
thiết kế chống động đất người ta thường quan tâm
đến các dao động ngang do sóng S gây ra. Trong
[5] cũng chỉ ra rằng điều kiện địa hình có ảnh hưởng
chủ yếu đến các dao động ngang. Chính vì vậy,
trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ tập trung xem
xét sự thay đổi của các sóng S do tác động của điều
kiện địa hình. Để làm rõ vấn đề này chúng tôi sử
dụng phương pháp ADER-DG để tính toán các
băng địa chấn trên mặt địa hình tại tọa độ ứng với
các vị trí S1, S2, S3 đưa ra trên hình 1. Nguồn phát
được giả định là một sóng phẳng P thuần túy có
chu kỳ trội 1 giây, truyền từ dưới lên theo phương
thẳng đứng. Theo lý thuyết, nếu địa hình trên mặt
là bằng phẳng, với nguồn phát như vậy các sóng S
sẽ không được sinh ra và biên độ tín hiệu của các
thành phần nằm ngang là bằng không (VX = 0; VY
= 0). Chính vì vậy, các tín hiệu VX, VY nếu xuất
hiện sẽ là chỉ dấu cho thấy ảnh hưởng của yếu tố
địa hình. Các mô phỏng lần lượt được thực hiện
ứng với các mô hình trên mặt khác nhau theo xu
thế tăng dần mức độ tương phản địa hình một cách
hệ thống, đặc trưng bởi các hệ số địa hình tpf lần
lượt là -1,0; -0,5; 0; 0,5; 1,0 và 1,5. Các tham số
mô hình sử dụng trong các mô phỏng được đưa ra
trong bảng 1. Các tính toán được thực hiện trên
máy tính Intel Itanium2 Montecito Dual Core
(được gọi là HLRB II) đặt ở Trung tâm dữ liệu
Leibniz tại Garching, Munich, CHLB Đức.
Trước hết, chúng tôi xem xét sự khác biệt của
băng địa chấn mô phỏng nhận được tại hai vị trí S1
(đỉnh núi) và S2 (dưới thung lũng) cho trường hợp
mẫu địa hình giả định ban đầu (hình 1). Do nguồn
phát được sử dụng là một sóng phẳng P thuần túy,
truyền từ dưới lên theo phương thẳng đứng nên
biên độ của các tín hiệu thu được ở thành phần
thẳng đứng VZ là nổi trội. Kết quả thể hiện trên hai
thành phần VX và VY cũng phù hợp với kết quả
chúng tôi đã công bố trong [5] rằng với các thành
phần nằm ngang tại vị trí ở đỉnh núi biên độ của tín
hiệu địa chấn lớn hơn rõ rệt biên độ tín hiệu tương
ứng ở vị trí chân núi. Tiếp theo, chúng tôi xem xét
sự thay đổi của tín hiệu địa chấn thu được tại vị trí
S3, vị trí có độ cao không thay đổi trong tất cả các
mô hình địa hình trên mặt được sử dụng. Có thể
nhận xét ngay rằng kết quả mô phỏng phù hợp với
dự đoán lý thuyết, nếu địa hình trên mặt là bằng
phẳng (tpf = -1), các sóng S sẽ không được sinh ra
và biên độ tín hiệu của các thành phần nằm ngang
là bằng không (VX = 0; VY = 0, xem hình 2). Tuy
nhiên, khi độ cao tại các vị trí trên mặt bắt đầu có
sự khác nhau (nghĩa là có sự tương phản về địa
hình), các sóng S sẽ được sinh ra. Sự tương phản
về độ cao tại các các vị trí trên mặt càng lớn, biên
độ sóng S sinh ra cũng càng lớn (hình 2, 3).
284
Hình 2. Vận tốc dao động nền mô phỏng tại vị trí S3 cho trường hợp một sóng phẳng P truyền từ dưới lên theo phương
thẳng đứng ứng với các hệ số địa hình tpf khác nhau (tpf = -1: bề mặt tự do là phẳng; tpf = 1.5: mức tương phản địa
hình trên bề mặt tự do cao nhất)
Hình 3. Sự biến đổi giá trị đỉnh vận tốc dao động nền PGV
của các thành phần nằm ngang VX và VY (đại diện cho
năng lượng sóng S sinh ra do điều kiện địa hình trên mặt)
tại vị trí S3 như một hàm của hệ số địa hình tpf
Bảng 1. Các tham số mô hình sử dụng trong nghiên cứu
Dạng lưới
Lưới phi cấu trúc 3D tạo
bởi các phần tử là các
khối tứ diện
Kích thước phần tử ban đầu 450m
Tốc độ gia tăng kích thước phần tử 1,2
Giới hạn của kích thước phần tử 3000m
Tổng số phần tử ~ 700.000 - 950.000
Bậc đa thức trong các phần tử 4
Số lượng bộ xử lý 256
Thời gian kéo dài của băng địa chấn ~ 22 giây
Các điều kiện biên
Bề mặt tự do (trên mặt),
dòng chảy vào (đáy),
tuần hoàn (các mặt bên)
Thời gian tính cho một mô hình 36 giờ - 54 giờ
4. Thảo luận và kết luận
Có thể thấy rằng trên mặt đất các dao động
ngang đã tới chậm hơn so với các dao động thẳng
đứng (hình 1). Rõ ràng, các dao động ngang không
phải được sinh ra trực tiếp từ nguồn phát (sóng
phẳng P). Việc xuất hiện các sóng S trên mặt đất
trong điều kiện nguồn phát là một sóng phẳng P
truyền trong môi trường đồng nhất chính là do yếu
tố địa hình. Hiện tượng này có thể được giải thích là
do quá trình phản xạ nhiều lần sóng địa chấn trên bề
mặt địa hình phức tạp, từ đó gián tiếp sinh ra các
sóng S (và cả các sóng P thứ cấp). Khi sự tương
phản địa hình càng lớn thì quá trình phản xạ nhiều
lần sóng địa chấn sẽ tăng lên, do vậy năng lượng
sóng S sinh ra và bị bẫy trong các cấu trúc gần đỉnh
núi cũng càng lớn. Điều này dẫn tới sự gia tăng về
biên độ dao động nền của các thành phần nằm
ngang thu được tại mặt đất trên các cấu trúc này.
Các kết quả nhận được trong nghiên cứu này
đưa đến một số kết luận sau đây: (i) Điều kiện địa
hình trên mặt đất là một yếu tố quan trọng có ảnh
hưởng đến trường sóng địa chấn; (ii) Điều kiện địa
hình trên mặt đất có xu hướng làm gia tăng biên độ
dao động nền ứng với các thành phần nằm ngang
tại các vị trí quanh đỉnh núi; (iii) Mức độ ảnh
hưởng của địa hình trên mặt tới trường sóng địa
chấn sẽ tăng lên hay giảm đi tương ứng với mức
tăng hay giảm độ tương phản về địa hình.
Trong khuôn khổ bài báo này, xuất phát từ ý
tưởng muốn nghiên cứu về dao động nền phục vụ
công tác thiết kế chống động đất, chúng tôi mới chỉ
tập trung phân tích về ảnh hưởng của điều kiện địa
hình tới các dao động ngang do sóng S gây ra. Việc
285
phân tích chi tiết sự biến đổi của các sóng P dưới
tác động của địa hình chưa được thực hiện ở đây,
mặc dù vấn đề này cũng hết sức quan trọng và có ý
nghĩa trong công tác khảo sát địa chấn thăm dò
phục vụ nghiên cứu cấu trúc. Các pha sóng P thứ
cấp xuất hiện ở phần đuôi của sóng P trực tiếp
(xem thành phần VZ trên hình 2) khi mức tương
phản địa hình tăng cao, rõ ràng được sinh ra do yếu
tố địa hình trên mặt (vì môi trường truyền sóng bên
dưới được giả định là đồng nhất) nhưng sẽ rất dễ bị
nhầm sang dạng tín hiệu sinh ra do có một mặt
ranh giới phía dưới. Đây sẽ là vấn đề mở cho
những nghiên cứu tiếp theo, sau công trình này.
Các kết quả nêu ra trong bài báo đã chỉ ra rằng
việc đánh giá ảnh hưởng của điều kiện địa hình trong
công tác đánh giá nguy hiểm động đất ở các vùng
miền núi là hết sức cần thiết. Trong điều kiện các
trạm quan trắc động đất được bố trí thưa như ở nước
ta, việc tiến hành các mô phỏng quá trình lan truyền
sóng địa chấn trong môi trường 3D để đánh giá ảnh
hưởng của điều kiện địa hình như đã thực hiện trong
báo cáo này là một giải pháp hữu hiệu.
Lời cám ơn: Tập thể tác giả xin gửi lời cảm ơn
tới các đồng nghiệp tại Viện Địa vật lý, Đại học
LMU Munich, CHLB Đức đã hỗ trợ, cho phép
chúng tôi sử dụng các phần mềm và công cụ tính
toán trong quá trình thực hiện nghiên cứu này.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Bard P.Y., 1999: Local effects on strong
ground motion: physical basis and estimation
methods in view of microzoning studies, Lecture
and exercise notes of International Training Course
on Seismology, Seismic Hazard Assessment and
Risk Mitigation, Beijing - China, 1999.
[2] Carcione, J. M., 1994: The wave equation
in generalised coordinates, Geophysics, 59,
1911-1919.
[3] Chaljub E., P. Moczo, S. Tsuno, P.Y. Bard,
J. Kristek, M. Käser, M. Stupazzini, and M.
Kristekova, 2010: Quantitative Comparison of Four
Numerical Predictions of 3D Ground Motion in the
Grenoble Valley, France, Bull. Seism. Soc. Am.,
100, No. 4, 1427-1455, doi:10.1785/0120090052.
[4] Dumbser, M., and M. Käser, 2006: An
Arbitrary High Order Discontinuous Galerkin
Method for Elastic Waves on Unstructured Meshes
II: The Three-Dimensional Isotropic Case,
Geophysical Journal International, 167 (1), 319-
336, doi:10.1111/j.1365-246X.2006.03120.x.
[5] Hermann Verena, Nguyen Dinh Pham,
Andreas Fichtner, Simon Kremers, Hans-Peter
Bunge, and Heiner Igel, 2010: Advances in
Modelling and Inversion of Seismic Wave
Propagation, in S. Wagner et al. (eds.), High
Performance Computing in Science and
Engineering,Garching/Munich 2009, Vol. 3, 293-
306, Springer-Verlag Berlin Heidelberg, doi:
10.1007/978-3-642-13872-025.
[6] Kanai K., 1983: Engineering seismology,
University of Tokyo Press, Tokyo.
[7] Komatitsch, D., and J. P. Vilotte, 1998:
The spectral-element method: an efficient tool to
simulate the seismic response of 2D and 3D
geological structures, Bull. Seism. Soc. Am., 88,
368-392.
[8] Lermo J. and F.J. Chavez-Garcia, 1993:
Site effect evaluation using spectral ratios with
only one station, Bull. Seism. Soc. Am., (83),
1574-1594.
[9] Moczo, P., J. Kristek,M. Galis, P. Pazak,
and M. Balazovjech, 2007: The finite-difference
and finite element modeling of seismic wave
propagation and earthquake motion, Acta physica
slovaca, 57 (2), 177-406.
[10] Phạm Đình Nguyên, 2002: Đánh giá ảnh
hưởng của điều kiện nền lên dao động động đất
mạnh. Luận văn Thạc sĩ Khoa học. Trường Đại học
KHTN - Đại học QGHN, Hà Nội.
[11] Pham Dinh Nguyen, Bor-Shouh Huang,
Chin-Jen Lin, Tuan-Minh Vu, and Ngoc-Anh Tran,
2012: Investigation of Ground Rotational Motions
caused by Direct and Scattered P-Waves from the 4
March 2008 TAIGER Explosion Experiment,
Journal of Seismology, DOI: 10.1007/s10950-012-
9300-0 (online first).
[12] Pham D.N., H. Igel, J. de la Puente, M.
Käser, and M. A. Schoenberg, 2010: Rotational
Motions in Homogeneous Anisotropic Elastic Media,
Geophysics, 75, D47-D56, doi:10.1190/1.3479489.
[13] Pham D.N., H. Igel, J. Wassermann, M.
Käser, J. de la Puente, U. Schreiber, 2009:
Observations and modelling of rotational signals in
the P-Coda: constraints on crustal scattering, Bull.
286
Seism. Soc. Am., 99, no. 2B, 1315-1332, doi:
10.1785/0120080101.
[14] Stein, S., and M. Wysession, 2003: An
introduction to seismology, earthquake, and earth
structure, Blackwell Press.
[15] Vũ Minh Tuấn, Nguyễn Đức Vinh, Nguyễn
Ánh Dương, Nguyễn Sinh Minh, Nguyễn Công
Thăng, Phạm Đình Nguyên, 2012: Phương pháp tỷ
số phổ H/V của sóng vi địa chấn và khả năng ứng
dụng trong đánh giá ảnh hưởng của điều kiện nền
tới dao động động đất tại Hà Nội, Tạp chí Các
khoa học về Trái Đất, T.34, (1), 70-75.
[16] Virieux, J., 1986: P-SV wave propagation
in heterogeneous media: Velocity-stress finite-
difference method, Geophysics, 51, 889-901.
[17] Nguyễn Đình Xuyên, Phạm Đình Nguyên,
2010: Một số thành tựu của địa chấn Việt Nam và
xu thế phát triển hiện đại. Tuyển tập báo cáo tại
Hội nghị Khoa học kỷ niệm 35 năm Viện Khoa học
và Công nghệ Việt Nam, ISBN 978-604-913-016-
8, 9-20, Hà Nội.
SUMMARY
An Investigation of Topography Effects on Seismic Ground Motions
The paper mentioned the influence of topography of the free surface to seismic ground motions, an important topic in
the field of enginerring seismology, but often overlooked in seismic hazard assessments in Vietnam. The paper also
introduced a method for estimating these effects in Vietnam context that the distribution of the seismic stations is sparse
and the seismic activity is not so high. It is a method to allow simulating seismic wave propagations in three-dimensional
media using numerical calculations in unstructured meshes. The method was then applied to investigate the changes of
a simple seismic wave field generated by a plane P wave when changing the topography model of the free surface in a
systematic way. The main goal of the study was to show effects of topography on seismic ground motions, and initially
set up the basis for future assessments of such topography effects at specific locations in Vietnam to serve anti-seismic
designs. The obtained results show that topography condition of the free surface is an important factor affecting the
seismic wave field. A certain topography leads to an increase of amplitudes of seismic signals for horizontal components
at sites around mountain summits. Such influences increase or decrease correspondingly with the increase or decrease
of the contrast of the free surface topography.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2544_8343_1_pb_1243_2108022.pdf