Thứ hai, cần rà soát, bổ sung, hoàn
thiện các chính sách có liên quan trực
tiếp đến đời sống của lao động di cư. Cần
nghiên cứu để sớm thực hiện quy định sử
dụng thẻ bảo hiểm y tế linh hoạt ở các cơ
sở khám chữa bệnh; nghiên cứu ban hành
quy định về các khu vực được thực hiện
các hoạt động tạo thu nhập cho lao động
nữ di cư; quan tâm nâng cấp cơ sở hạ tầng
ở các khu vực có đông lao động nữ di cư
sinh sống; khai thác các chương trình hỗ
trợ người di cư như giới thiệu việc làm,
kiến thức chăm sóc sức khỏe, phòng chống
tệ nạn xã hội đối với lao động nữ di cư.
Đồng thời, các ngành chức năng và các bên
liên quan thường xuyên tiến hành kiểm tra,
giám sát việc thực thi các chính sách, quy
định đó để hỗ trợ, bảo vệ quyền, lợi ích đặc
thù của lao động nữ di cư.
Thứ ba, cần tăng cường vai trò của các
đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội ở nơi
đến, có phương thức tiếp nhận, thu hút lao
động nữ nhập cư tham gia sinh hoạt, tổ chức
các hoạt động hỗ trợ lao động nữ nhập cư
tại địa phương, đặc biệt là hoạt động tuyên
truyền, phổ biến chính sách, pháp luật, hỗ
trợ kết nối và cung cấp các dịch vụ chăm
sóc, giáo dục con em của lao động nhập cư,
tổ chức các hoạt động nâng cao kiến thức,
kỹ năng sống, các hoạt động giao lưu, vui
chơi, giải trí nâng cao đời sống tinh thần
của lao động nữ nhập cư. Ngoài ra, chính
quyền địa phương của địa bàn có nhiều
phụ nữ di cư lao động cần nỗ lực nhiều hơn
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương, tạo thêm nhiều cơ hội việc
làm và phát triển tại chỗ cho người dân nói
chung và phụ nữ nói riêng.
Thứ tư, bản thân lao động nữ di cư tích
cực chủ động nâng cao kiến thức và kỹ
năng sống, tự chăm sóc bản thân, trau dồi
kiến thức chuyên môn, tích cực hòa nhập,
thể hiện trách nhiệm và vai trò xây dựng
cộng đồng nơi đến
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 315 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Về chất lượng cuộc sống của lao động nữ di cư ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Về chất lượng cuộc sống... 39
Về chất lượng cuộc sống của lao động nữ di cư
ở Việt Nam hiện nay
Nguyễn Hoàng Anh(*)
Trương Thúy Hằng(**)
Tóm tắt: Di cư vừa được xem là động lực thúc đẩy, vừa là kết quả của sự phát triển kinh
tế - xã hội của một quốc gia. Ở Việt Nam, dòng người lao động di cư đang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ, đặc biệt là người lao động di cư từ nông thôn đến thành thị, khu công
nghiệp. Bài viết phân tích một số thông tin cơ bản về cuộc sống của hai nhóm phụ nữ
di cư ở một số tỉnh thành ở nước ta, đó là nhóm công nhân làm việc trong các khu công
nghiệp, khu chế xuất và nhóm lao động tự do. Qua đó, chỉ ra những bấp bênh, rủi ro tiềm
ẩn mà lao động nữ di cư đang phải đối mặt; và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng cuộc sống cho lao động nữ di cư.
Từ khóa: Di cư, Lao động nữ di cư, Công nhân, Lao động tự do, Chất lượng cuộc sống
Abstract: Migration is considered both a motivation and consequence of a country’s
socio-economic development. In Vietnam, the fl ow of migrant workers is increasing
dramatically, especially those from rural areas to urban areas and industrial zones. On
analyzing some basic information about two groups of female migrants, one working in
industrial and processing zones and the other engaging in self-employment, the article
discusses the uncertainties and risks that female migrant workers are facing, thereby,
making some suggestions to improve their life quality.
Key words: Migration, Female Migrant Workers, Self-employment, Life Quality
1. Đặt vấn đề
Di cư lao động là một tất yếu khách
quan trong nền kinh tế thị trường, là hệ quả
của sự phát triển không đồng đều giữa các
khu vực, vùng miền, lãnh thổ. Ở các nước
đang phát triển, trong đó có Việt Nam, tình
trạng dư thừa lao động, ít cơ hội phát triển
ở nông thôn, nghèo đói... buộc người dân
phải rời đi nơi khác để có cuộc sống tốt đẹp
hơn. Di cư ở Việt Nam có xu hướng tăng lên
so với 5 năm trước và lao động nữ ngày càng
chiếm tỷ trọng cao hơn trong nhóm di cư.
Trong những năm qua, nhiều nghiên
cứu về di cư cho thấy những ảnh hưởng tích
cực của lực lượng di cư với những đóng
góp vào tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm
nghèo. Tuy nhiên, người di cư, đặc biệt là
phụ nữ di cư, phải đối mặt với nhiều thách
thức. Ở cả hai khu vực nông thôn và thành
(*), (**) ThS., Học viện Phụ nữ Việt Nam;
Email: hoanganh@vwa.edu.vn
Thông tin Khoa học xã hội, số 4.201840
thị, lao động nữ di cư luôn là đối tượng gặp
những khó khăn nhất định trong việc tiếp
cận các dịch vụ xã hội, tư vấn pháp luật,
trợ giúp pháp lý, họ không thể tự bảo vệ
mình khỏi những rủi ro về sức khỏe và an
toàn bản thân, hiếm khi được bồi thường
trong trường hợp bị thương tật, đau ốm hoặc
tai nạn (Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,
2006). Bên cạnh đó, việc di chuyển đến nơi
ở mới, xa gia đình, người thân, sống trong
một môi trường mới khiến cuộc sống của
lao động nữ di cư trở nên bấp bênh hơn,
tiềm ẩn nhiều rủi ro và dễ bị tổn thương
hơn. Họ phải đối mặt với những nguy cơ trở
thành nạn nhân của xâm hại tình dục, mại
dâm, buôn bán người. Mức độ hòa nhập
vào cộng đồng mới của lao động nữ di cư
có nhiều hạn chế (Action Aid, 2012). Nhằm
làm rõ hơn về cuộc sống của lao động nữ di
cư, bài viết tập trung phân tích những điều
kiện sinh hoạt và làm việc của hai nhóm lao
động nữ di cư từ nông thôn ra thành thị làm
công nhân trong các khu công nghiệp, khu
chế xuất và lao động tự do(*).
2. Cuộc sống của lao động nữ di cư
Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ nghèo vẫn
còn cao, lao động ở nhiều địa phương, đặc
biệt là khu vực nông thôn, bị dôi dư do đô
thị hóa, chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Mặt khác, vai trò tích cực của lao động nữ
trong kinh tế ngày càng được phát huy. Vì
thế, lao động di cư từ nông thôn đến thành thị,
khu công nghiệp tăng mạnh cả về số lượng
và tỷ lệ cao hơn so với những năm trước, đặc
biệt là tỷ lệ lao động nữ di cư. Theo số liệu
khảo sát, tỷ lệ đồng tình với nhận định này
ở Hải Phòng là 54,3% và ở Bình Dương là
97,1%. Phần lớn lao động nữ di cư lần đầu
(chiếm 71,4%), di cư lần thứ hai là 21,9% và
di cư lần thứ ba trở lên chỉ có 6,0%.
Trong quá trình di cư, người Việt Nam
đều có xu hướng dựa vào mạng lưới xã hội
để bảo đảm an toàn và tăng cơ hội thành
công. Những mối quan hệ xã hội (dù thân
thích hay quen sơ) đều có vai trò quan trọng
giúp họ có thêm thông tin và dễ dàng hơn
khi tiếp cận thị trường lao động và hòa nhập
cộng đồng nơi đến.
Lao động nữ di cư có xu hướng không
đi đơn lẻ, không chỉ đi cùng họ hàng, bạn bè
(Đặng Nguyên Anh, 1998) như các nghiên
cứu trước đã chỉ ra, mà họ còn di cư cùng
cả chồng và con (30,2%), tỷ lệ đang ở cùng
chồng là 17,7%, con là 5,5%. Xu hướng
này thể hiện rõ hơn tại Bình Dương, Đắk
Nông, Cần Thơ và thành phố Hồ Chí Minh.
Trong số lao động di cư ở độ tuổi từ
15 đến 29, tỷ lệ nữ giới cao hơn so với
nam giới (Tổng cục Thống kê, 2010) và
có xu hướng trẻ hóa. So sánh kết quả của
các cuộc Tổng điều tra năm 1989, 1999 và
2009, độ tuổi phổ biến nhất của phụ nữ di
cư giảm tương ứng theo thời gian từ 25 tuổi
xuống còn 24 và 23 tuổi (Tổng cục Thống
kê, 1989, 1999, 2009).
Việc đăng ký tạm trú, thường trú(*)
của lao động nữ di cư được thực hiện khá
nghiêm túc. Trong đó, đăng ký tạm trú KT4
(*) Bài viết sử dụng số liệu từ “Báo cáo kết quả điều
tra: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng
cuộc sống của lao động nữ di cư” của Học viện Phụ
nữ năm 2016. Khảo sát bằng bảng hỏi được thực
hiện tại 8 tỉnh/thành phố với mẫu là 1.809 lao động
nữ di cư, tuổi từ 15-59, trong đó 1.076 người đang
làm việc trong khu công nghiệp, chế xuất (59,5%)
và 733 người làm nghề tự do (40,5%). Tỷ lệ tương
ứng tại Hà Nội là 154 và 146, thành phố Hồ Chí
Minh là 237 và 75, Lạng Sơn là 112 và 86, Hải
Phòng là 102 và 98, Khánh Hòa là 97 và 102, Đắk
Nông là 86 và 115, Bình Dương là 162 và 34, Cần
Thơ là 126 và 77.
(*) KT1: Sổ hộ khẩu thường trú của công dân:
thường trú lâu dài và được ghi rõ trên chứng minh
Về chất lượng cuộc sống... 41
chiếm trên dưới 40% ở cả hai nhóm lao
động tự do và nhóm công nhân, đăng ký
tạm trú KT3 là 25-26%. Một số lao động nữ
di cư xác định cư trú lâu dài ở địa bàn mới
nên đăng ký KT1, chiếm 18,2% ở nhóm
công nhân và 17,3% ở nhóm lao động tự
do. Đối tượng không hoặc chưa đăng ký
hình thức tạm trú nào chiếm xấp xỉ 10%.
Đây là con số đáng lưu tâm đối với các cơ
quan chức năng trong quản lý di cư.
Một số đặc điểm nhân khẩu học của
lao động nữ di cư
Lao động nữ di cư xuất thân chủ yếu
từ khu vực nông thôn (chiếm 86,5%) và
từ khắp các vùng miền. Trong mẫu điều
tra, độ tuổi trung bình của lao động nữ
di cư xấp xỉ 33 tuổi (được phân bố trên
nhiều nhóm tuổi và có sự khác biệt giữa
hai nhóm làm công nhân và lao động tự
do). Nhóm nữ di cư làm công nhân có độ
tuổi trung bình là 28,3 tuổi, tập trung đông
nhất ở độ tuổi 20-24 (chiếm 30,4%) và
giảm dần ở các độ tuổi cao hơn. Trong khi
đó, nhóm nữ di cư lao động tự do có độ
tuổi trung bình là 39,4 tuổi, sự phân bố có
xu hướng tăng dần ở các nhóm tuổi cao
hơn và tập trung đông nhất ở độ tuổi trên
50 tuổi (16,2%). Với độ tuổi như vậy, tỷ lệ
đã kết hôn trong nhóm nữ di cư lao động
tự do cao hơn nhóm nữ di cư làm công
nhân (73,4% so với 52,6%) và tỷ lệ chưa
có con trong nhóm di cư làm công nhân
(47,7%) cao hơn nhóm di cư lao động tự
do (13,8%), tỷ lệ có 3 con trở lên đặc biệt
cao trong nhóm lao động tự do (27,7%).
Phần lớn lao động nữ di cư có trình
độ học vấn ở mức trung bình (Trung học
cơ sở, Trung học phổ thông). Nhóm nữ di
cư làm công nhân có trình độ học vấn cao
hơn nhóm lao động tự do. Bên cạnh tỷ lệ
lao động nữ di cư có trình độ cao đẳng, đại
học (5,5%), vẫn có tỷ lệ nhỏ trong cả hai
nhóm đối tượng này mù chữ (0,7% trong
nhóm công nhân và 3% trong nhóm lao
động tự do).
Nghề nghiệp trước khi di cư của lao
động nữ di cư chủ yếu là làm ruộng, làm
vườn hoặc là học sinh, sinh viên. Nghề
nghiệp hiện nay của nhóm di cư lao động
tự do chủ yếu là “bán hàng rong, bán báo,
bán vé số” chiếm 30,3%, “ai thuê gì làm
nấy” chiếm 22,1%. Chính vì vậy, mức độ
ổn định công việc của nhóm đối tượng này
thấp hơn nhóm công nhân (64,4% so với
44,5%). Mức độ ổn định công việc cũng có
sự khác biệt theo độ tuổi, trên dưới 60%
đối với nhóm tuổi dưới 34 tuổi nhưng chỉ
khoảng 47% ở các nhóm trên 35 tuổi.
Việc tham gia các tổ chức chính trị, xã
hội ở địa phương của lao động nữ di cư khá
cao, hầu hết họ tham gia ít nhất một tổ chức
đoàn thể xã hội tại địa phương trước khi di
cư (tỷ lệ chung cả hai nhóm là 83,1%).
Tình trạng sức khỏe của lao động nữ
di cư nhìn chung ở mức trung bình trở lên
(83,4% ở nhóm lao động tự do và 94,7% ở
nhóm công nhân) và nhóm làm công nhân
có sức khỏe tốt hơn nhóm lao động tự do.
Lý do di cư
Lao động nữ di cư chủ yếu là vì mục
đích cải thiện kinh tế. Tỷ lệ này ở nhóm lao
động tự do là 89,1% và 83,8% ở nhóm công
nhân. Mặc dù chỉ có 26,4% tự đánh giá có
mức sống gia đình (trước di cư) thuộc loại
nhân dân về nơi đăng ký hộ khẩu thường trú. KT2:
Sổ tạm trú dài hạn trong phạm vi tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương: đăng ký tạm trú dài hạn ở
quận/huyện khác với nơi đăng ký thường trú nhưng
vẫn thuộc phạm vi tỉnh/thành phố Trung ương đó.
KT3: Sổ tạm trú dài hạn ở một tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương khác với nơi đăng ký thường trú.
KT4: Sổ tạm trú ngắn hạn ở một tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương khác với nơi đăng ký thường trú:
giống KT3 nhưng có thời hạn nhất định.
Thông tin Khoa học xã hội, số 4.201842
nghèo, 15,5% ở mức cận nghèo và 57,3%
tự đánh giá có mức sống trung bình nhưng
lý do khác khiến lao động nữ di cư là mong
muốn tìm cơ hội phát triển bản thân. Đáng
nói là, động cơ di cư vì mục đích kinh tế
có tỷ lệ tăng dần ở nhóm tuổi cao (68% ở
nhóm tuổi 15-19, 98,2% ở nhóm tuổi trên
55 tuổi), trong khi động cơ tìm kiếm cơ hội
phát triển thì ngược lại, 29% ở nhóm tuổi
trẻ và có xu hướng giảm dần ở các nhóm
tuổi cao hơn và giảm xuống 1,8% ở nhóm
tuổi trên 55 tuổi. Sự lựa chọn này ở nhóm
công nhân là 20,4%, nhóm lao động tự do
là 12,1%.
Điều kiện sống của lao động nữ di cư
Hầu hết lao động nữ di cư (78,1%) sống
trong những căn nhà thuê, trọ có diện tích
dưới 15m2, thậm chí dưới 10m2; tỷ lệ có nhà
riêng chiếm 10,9%, ở tập thể 2%, ở nhờ nhà
họ hàng 4,1%, nhà của chủ sử dụng lao động
3,3%. Khoảng 3/4 số người được hỏi (68,4%
ở nhóm lao động tự do và 78,2% ở nhóm
công nhân) sống trong những căn nhà cấp 4,
lợp ngói, lợp tôn hoặc pro-ximăng. Tỷ lệ lao
động nữ di cư được ở nhà tập thể của công
ty rất nhỏ, 0,5% ở nhóm lao động tự do và
3,1% ở nhóm làm công nhân. Tỷ lệ lao động
nữ di cư phải sống trong các nhà tạm/lán tạm
không đảm bảo an toàn, an ninh ở nhóm lao
động tự do cao hơn nhóm công nhân (8,8%
so với 4,6%). Đặc biệt ở tỉnh Đắk Nông, tỷ
lệ lao động nữ di cư ở trọ trong lều, lán tạm
lên đến 20,9%. So với kết quả nghiên cứu
năm 2005(*) về lao động di cư, tỷ lệ người di
cư sống trong lán tạm, lều bạt không giảm.
Điều này tiềm ẩn những rủi ro, đe dọa sự
an toàn về thể chất và sự riêng tư của lao
động nữ di cư.
Điều kiện sử dụng điện, nước sinh hoạt,
bếp, công trình phụ của lao động nữ di cư
còn gặp khá nhiều khó khăn. Họ sử dụng
cả nước máy và nước giếng trong sinh hoạt
với tỷ lệ gần ngang nhau; do diện tích nơi ở
chật chội nên bếp đun thường gần nơi ngủ.
Tỷ lệ được sử dụng công trình phụ khép kín
ở nhóm lao động tự do là 56,9% và 67,8% ở
nhóm công nhân, số lao động nữ di cư phải
sử dụng công trình phụ chung, công cộng
lần lượt là 34,4% và 28,4%, thậm chí vẫn có
nhiều lao động nữ di cư không có nhà tắm,
vệ sinh ngay tại nơi ở (8,0% và 2,8%). Đây
là những yếu tố tiềm ẩn sự mất an toàn, an
ninh, không đảm bảo phòng chống cháy nổ
trong môi trường sống của lao động nữ di
cư. Bên cạnh các thiết bị sinh hoạt thiết yếu
trong cuộc sống của nhóm lao động tự do
và nhóm công nhân được trang bị khá đầy
đủ, phổ biến như: đèn thắp sáng (98,9% và
97,8%), nồi cơm điện (71,4% và 92,1%),
quạt điện (đều 90,5%), điện thoại di động
(78,2% và 88,0%), ti vi (59,2% và 56,5%),
xe máy (37,9% và 49,3%), xe đạp (44,3%
và 30,3%), các thiết bị sinh hoạt tiện ích,
hiện đại như: tủ lạnh (18,4% và 17,2%),
bình nóng lạnh (3,7% và 2,3%), lò vi sóng,
máy tính kết nối Internet,... hiếm thấy đối
với họ. Nhìn chung, điều kiện sống của lao
động nữ di cư còn rất hạn chế, đặc biệt là
nhóm lao động nữ di cư làm nghề tự do có
điều kiện sống kém hơn lao động nữ di cư
làm công nhân.
Thời gian làm việc và thu nhập của lao
động nữ di cư
Thời gian làm việc trung bình của nhóm
công nhân từ 6-8 giờ/ngày, nhiều người trong
số họ tăng ca, làm việc từ 9-12 giờ/ngày để
có thêm thu nhập. Nhóm lao động tự do có
thời gian làm việc trung bình từ 9-12 giờ/
ngày, có tỷ lệ cao hơn nhóm công nhân (42,4
so với 23,0%). Ở cả hai nhóm này, thời gian
(*) Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2006), Báo cáo
tổng hợp đề tài: Ảnh hưởng của di cư lao động tự
do đến cuộc sống gia đình nông thôn miền Bắc.
Về chất lượng cuộc sống... 43
làm việc cao nhất trong ngày là trên 13 giờ
với tỷ lệ 26,1% ở nhóm lao động tự do và
8,5% ở nhóm công nhân, thậm chí làm việc
trong ngày nghỉ cuối tuần cũng có thể lên tới
9-12 giờ, thậm chí trên 13 giờ.
Thu nhập trung bình của lao động nữ di
cư ở mức trung bình thấp, xấp xỉ 3,1 triệu
đồng/tháng (tương đương 160 USD - ở thời
điểm điều tra tháng 7/2014), trong đó nhóm
công nhân thu nhập trung bình khoảng 3,4
triệu đồng/tháng và nhóm lao động tự do
khoảng 2,6 triệu đồng/tháng). Nhìn chung,
cả hai nhóm lao động nữ di cư chưa hoàn
toàn hài lòng với công việc hiện tại. Kết quả
này khá tương đồng với một khảo sát được
thực hiện năm 2015, cho thấy lao động nữ
nhập cư chủ yếu hoạt động trong nhóm
ngành có mức lương thấp, có tính thâm
dụng lao động cao và tính chất công việc
đơn điệu lặp đi lặp lại, ít đòi hỏi về chuyên
môn kỹ thuật. Tạ i cá c ngà nh chuyên môn kỹ
thuậ t cao, có mứ c lương cao hơn, sự tham
gia củ a lao độ ng nữ nhậ p cư cũ ng thườ ng
thấ p hơn so vớ i lao độ ng nam nhậ p cư (Viện
Khoa học Lao động và Xã hội, Dự án Hỗ trợ
chính sách Thương mại và Đầu tư, 2015).
Tiếp cận các dịch vụ công
Kết quả điều tra cho thấy, lao động nữ
di cư tiếp cận các dịch vụ y tế, đặc biệt là
địa điểm mua thuốc và phòng khám tư nhân
khá dễ dàng, thuận lợi. Tỷ lệ lao động nữ
di cư tự mua thuốc về điều trị (49,6%) cao
hơn tỷ lệ đến các cơ sở đáng tin cậy như
bệnh viện, trung tâm y tế (41,9%) để khám
chữa bệnh. Việc khám sức khỏe định kỳ đối
với lao động nữ di cư diễn ra không phổ
biến, đặc biệt là nhóm nữ di cư lao động tự
do (chỉ có 14,1%), số lao động tự do chưa
bao giờ đi khám bệnh chiếm 21,8%.
Lao động nữ di cư ở hai nhóm nghiên
cứu rất xa lạ, mơ hồ với các dịch vụ như:
giới thiệu việc làm, tư vấn pháp luật, trợ
giúp pháp lý, sự can thiệp giúp đỡ của các
đoàn thể, tổ dân phố, cơ quan chính quyền
sở tại, giao dịch với chính quyền (các thủ
tục hành chính), sự giúp đỡ của công an, dân
phòng, sự hỗ trợ của hội nhóm. Mức độ tiếp
cận thông tin của họ rất hạn chế và kênh tiếp
nhận thông tin cũng nghèo nàn với tỷ lệ 55%
thỉnh thoảng xem ti vi. Các kênh thông tin
khác như nghe đài hay đọc sách, báo đều có
tỷ lệ rất thấp (10,2% và 15,8%). Bên cạnh
đó, các dịch vụ giải trí nâng cao đời sống
tinh thần của lao động nữ di cư cũng còn
sơ sài, đơn điệu. Ngoài hình thức đi lễ chùa
cầu an vào dịp Tết cổ truyền hoặc ngày rằm,
mùng Một... (40,1%), các hình thức giải trí
khác rất ít được lao động nữ di cư sử dụng,
trong đó thấp nhất là xem phim, biểu diễn
nghệ thuật ở rạp hoặc bãi chiếu bóng (3,6%).
Mối quan hệ gia đình của lao động nữ
di cư
Kết quả điều tra cho thấy, lao động nữ
di cư khá hài lòng về khoản đóng góp của
họ cho gia đình. Số tiền họ gửi về cho gia
đình chủ yếu để tiêu dùng hàng ngày (69,0%
ở nhóm lao động tự do và 67,1% ở nhóm
công nhân), tiếp đến là đầu tư cho con ăn
học (52,0% và 31,4%). Mặc dù không ở nhà,
lao động nữ di cư vẫn có tiếng nói nhất định
trong các quyết sách của gia đình. 65,8%
người được hỏi vẫn tham gia ý kiến vào tất
cả công việc ở gia đình dù là việc lớn hay
nhỏ. Tỷ lệ này tăng dần ở các nhóm tuổi cao
hơn. Hình thức tham gia của họ chủ yếu là
trao đổi ý kiến qua điện thoại (71,7%) và
trực tiếp về nhà để bàn chuyện (33,6%). Tỷ
lệ lao động nữ di cư cho rằng bản thân mình
là người quyết định cuối cùng mọi việc trong
gia đình không nhiều nhưng tăng dần ở các
nhóm tuổi cao hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động
nữ di cư cho rằng người chồng là người quyết
định cuối cùng vẫn chiếm ưu thế (40,5% so
với 12,6%) ở tất cả các độ tuổi.
Thông tin Khoa học xã hội, số 4.201844
Sự hỗ trợ của người thân và họ hàng
đối với gia đình của lao động nữ di cư đi
làm ăn xa (chiếm 2/3 số người được hỏi)
chủ yếu là thăm hỏi động viên. Sự trợ giúp
cụ thể như cho vay mượn khi cần, chăm
sóc con cái, giúp đỡ việc nhà... không nhiều
(13,4% - 17,1%).
2. Kết luận và một số kiến nghị giải pháp
Những phân tích trên cho thấy, lao
động nữ di cư ở nước ta vẫn gặp nhiều khó
khăn trong điều kiện sinh hoạt, mức thu
nhập còn thấp, đặc biệt là tiếp cận dịch vụ
công bởi rào cản quản lý nhân khẩu bằng sổ
hộ khẩu. Nhằm góp phần nâng cao đời sống
cho lao động nữ di cư, chúng tôi đề xuất
một số giải pháp có thể hỗ trợ nhóm đối
tượng này có cuộc sống tốt hơn ở nơi đến.
Thứ nhất, cần thiết phải có cơ quan quản
lý nhà nước về lao động di cư. Thông qua
đó, Nhà nước và chính quyền các thành phố
lớn có những hỗ trợ thiết thực nâng cao chất
lượng cuộc sống của lao động di cư, trước
hết là hỗ trợ đào tạo nghề, tìm việc làm ổn
định, cải tạo và phát triển các dịch vụ công
cộng, đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội;
vệ sinh môi trường; bình ổn giá thuê nhà trọ,
các loại phí thiết yếu đối với lao động nữ
di cư, như: tiền điện, nước, phí vệ sinh, học
phí, phí trông trẻ... Bên cạnh đó, việc quản lý
nhân khẩu dựa trên thẻ căn cước công dân/
chứng minh nhân dân tích hợp các thông số
nhân thân cần nhanh chóng đi vào thực tiễn.
Các công ty, doanh nghiệp tuyển dụng
lao động nữ di cư cần có chính sách bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, tay
nghề - yếu tố quan trọng để duy trì việc làm
ổn định, cải thiện thu nhập của lao động nữ
di cư.
Thứ hai, cần rà soát, bổ sung, hoàn
thiện các chính sách có liên quan trực
tiếp đến đời sống của lao động di cư. Cần
nghiên cứu để sớm thực hiện quy định sử
dụng thẻ bảo hiểm y tế linh hoạt ở các cơ
sở khám chữa bệnh; nghiên cứu ban hành
quy định về các khu vực được thực hiện
các hoạt động tạo thu nhập cho lao động
nữ di cư; quan tâm nâng cấp cơ sở hạ tầng
ở các khu vực có đông lao động nữ di cư
sinh sống; khai thác các chương trình hỗ
trợ người di cư như giới thiệu việc làm,
kiến thức chăm sóc sức khỏe, phòng chống
tệ nạn xã hội đối với lao động nữ di cư.
Đồng thời, các ngành chức năng và các bên
liên quan thường xuyên tiến hành kiểm tra,
giám sát việc thực thi các chính sách, quy
định đó để hỗ trợ, bảo vệ quyền, lợi ích đặc
thù của lao động nữ di cư.
Thứ ba, cần tăng cường vai trò của các
đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội ở nơi
đến, có phương thức tiếp nhận, thu hút lao
động nữ nhập cư tham gia sinh hoạt, tổ chức
các hoạt động hỗ trợ lao động nữ nhập cư
tại địa phương, đặc biệt là hoạt động tuyên
truyền, phổ biến chính sách, pháp luật, hỗ
trợ kết nối và cung cấp các dịch vụ chăm
sóc, giáo dục con em của lao động nhập cư,
tổ chức các hoạt động nâng cao kiến thức,
kỹ năng sống, các hoạt động giao lưu, vui
chơi, giải trí nâng cao đời sống tinh thần
của lao động nữ nhập cư. Ngoài ra, chính
quyền địa phương của địa bàn có nhiều
phụ nữ di cư lao động cần nỗ lực nhiều hơn
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương, tạo thêm nhiều cơ hội việc
làm và phát triển tại chỗ cho người dân nói
chung và phụ nữ nói riêng.
Thứ tư, bản thân lao động nữ di cư tích
cực chủ động nâng cao kiến thức và kỹ
năng sống, tự chăm sóc bản thân, trau dồi
kiến thức chuyên môn, tích cực hòa nhập,
thể hiện trách nhiệm và vai trò xây dựng
cộng đồng nơi đến
(xem tiếp trang 38)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ve_chat_luong_cuoc_song_cua_lao_dong_nu_di_cu_o_viet_nam_hie.pdf