2.3.5. Con đường phát triển công nghệ cao và xây dựng khu công nghệ cao ở
Việt Nam
Như đã nhận xét ở Phần 2.1. các khu CNC thành công đều nằm trong các
quốc gia công nghiệp phát triển; Việt Nam chúng ta vừa vượt ra khỏi một
quốc gia nghèo, đang phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành
một nước công nghiệp với thu nhập bình quân GDP/người là 3.000 USD;
đây là một thách thức trong việc phát triển CNC và xây dựng Khu CNC ở
Việt Nam, đồng thời là một yếu tố không thể “quên” để tìm ra mô hình phát
triển CNC và xây dựng Khu CNC thích hợp cho Việt Nam trong những năm
trước mắt.
Giải pháp hữu hiệu là phát huy các thế mạnh của Việt Nam, khắc phục các
mặt yếu, với các điểm tựa đã nêu trong Phần 2.2.1.
2.3.6. Ưu tiên phát triển ngành công nghiệp điện tử, một nền tảng cơ bản để
phát triển một nền công nghiệp hiện đại, là lựa chọn của các quốc gia NIC và
Trung Quốc trong những bước đi ban đầu phát triển CNC và xây dựng Khu
CNC.
Vấn đề này cần được các cơ quan liên quan rà soát và nghiên cứu đánh giá
một cách khách quan: vì sao Việt Nam chúng ta chưa phát triển tốt ngành
công nghiệp điện tử và khẳng định việc phát triển ngành này tại Việt Nam.
2.3.7. Tính “đa chức năng” và “có ranh giới xác định” của Khu CNC không
nằm trong quy định của Luật CNC năm 2008, đây là một điều kiện “mở” để
có thể nghiên cứu tạo ra các mô hình Khu CNC khác nhau tại Việt Nam./.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
18 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 884 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Về mô hình khu công nghệ cao tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
72 Về mô hình khu công nghệ cao tại Việt Nam 
VỀ MÔ HÌNH KHU CÔNG NGHỆ CAO TẠI VIỆT NAM 
TS. Doãn Ngọc Lưu 
Cố vấn Khoa học Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN 
Tóm tắt: 
Các khái niệm: “Mô thức” và “mô hình” đã được sử dụng để phân loại tóm lược các loại 
hình phát triển công nghệ cao (CNC) và khu CNC; từ đó trình bày nguyên nhân ra đời và 
nội dung cốt lõi “Khu CNC” đang sử dụng phổ biến hiện nay trên thế giới. 
Tính “quy luật khách quan” của việc phát triển CNC và khu CNC kết hợp với các thế mạnh 
đặc thù của Việt Nam và dựa trên những văn bản pháp lý của Việt Nam đã ban hành, là 
những căn cứ quan trọng để đề xuất ra mô hình khu CNC thích hợp ở Việt Nam. 
Đặt vấn đề 
Phát triển CNC và xây dựng khu CNC ở nước ta đã được Đảng và Nhà nước 
coi là một quốc sách quan trọng trong việc xây dựng đất nước. 
Thông báo kết luận số 234-TB/TƯ ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị về báo 
cáo kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương II (Khóa VIII) về 
KH&CN và nhiệm vụ, giải pháp phát triển KH&CN từ nay đến năm 2020 
[1] đã ghi nhận: 
“Phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ dựa trên CNC, dịch chuyển 
nhanh cơ cấu kinh tế sang các ngành dựa nhiều vào công nghệ và tri thức, 
đưa nền kinh tế đất nước vượt qua khó khăn trong tình hình kinh tế thế giới 
suy giảm hiện nay và vươn lên vị trí cao hơn trong mạng lưới sản xuất quốc 
tế và trong quá trình hội nhập quốc tế”. 
Tại Nghị định số 99/2003/NĐ-CP ngày 28/8/2003 [2] về quy chế khu CNC, 
ban hành kèm theo Nghị định số 99/2003/NĐ-CP ngày 28/8/2003 đã ghi: 
“khu CNC là khu kinh tế - kỹ thuật đa chức năng, có ranh giới xác định, do 
Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, nhằm nghiên cứu phát triển và 
ứng dụng CNC, ươm tạo doanh nghiệp CNC, đào tạo nhân lực CNC và sản 
xuất, kinh doanh sản phẩm CNC. Trong khu CNC có thể có khu chế xuất, 
kho ngoại quan, khu bảo thuế và khu nhà ở”. 
JSTPM Vol 1, No 1, 2012 73 
Văn bản này ban hành đã lâu (năm 2003), tuy nhiên cũng vẫn còn giá trị gợi 
mở cho các nghiên cứu tiếp tục về xây dựng các mô hình Khu CNC thích 
hợp trong các điều kiện cụ thể của nước ta. 
Văn bản pháp lý cao nhất hiện hành là Luật CNC - Luật số 21/2008/QH12. 
Theo Luật CNC:“CNC là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa 
học và phát triển công nghệ; được tích hợp từ thành tựu KH&CN hiện đại; 
tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân 
thiện với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành 
sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có”. 
Tại Điều 31. Luật đã quy định: 
1. Khu CNC là nơi tập trung, liên kết hoạt động nghiên cứu và phát triển, 
ứng dụng CNC; ươm tạo CNC, ươm tạo doanh nghiệp CNC; đào tạo nhân 
lực CNC; sản xuất và kinh doanh sản phẩm CNC, cung ứng dịch vụ CNC. 
2. Quy định các nhiệm vụ Khu CNC. 
3. Quy định các điều kiện thành lập khu CNC. 
Những văn bản nêu trên là căn cứ để tiếp tục nghiên cứu và đề xuất các vấn 
đề phát triển CNC và các mô hình Khu CNC thích hợp với hoàn cảnh cụ thể 
của Việt Nam. 
1. Các con đường phát triển khoa học và công nghệ trong đó có công 
nghệ cao 
1.1. Từ các trường đại học danh tiếng 
Trải dài nhiều trăm năm của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, các 
trường đại học danh tiếng tại mỗi quốc gia là nơi tập trung nghiên cứu khoa 
học lớn của mỗi quốc gia, là nơi đạt nhiều các thành tựu nghiên cứu phát 
minh KH&CN, trong đó có nhiều phòng thí nghiệm đã sản sinh ra rất nhiều 
giải thưởng Nobel; theo đà phát triển khách quan, tại các đại học đã hình 
thành một cách tự nhiên mối quan hệ gắn bó giữa: Đào tạo nhân lực - 
Nghiên cứu- Sản xuất. 
Ngày nay tại các nước phát triển trên thế giới, hầu như các tập đoàn, các 
công ty lớn đều có các hợp đồng nghiên cứu với các phòng thí nghiệm, các 
khoa chuyên ngành tại các trường đại học nghiên cứu; một hiện tượng phổ 
biến là các tập đoàn, các công ty lớn như General Motor, Astrium, Canon... 
đều có các trụ sở đại diện nằm trong khuôn viên của các trường đại học lớn. 
Một Trung tâm Công nghệ thông tin hàng đầu thế giới nằm tại Thung lũng 
silicon (Silicon Valley) nằm ở phía Nam của vùng vịnh San Francisco và 
phía Bắc California (Mỹ), trong đó trường đại học Stanford nổi tiếng là chủ 
74 Về mô hình khu công nghệ cao tại Việt Nam 
nhân các kết quả nghiên cứu và chế tạo ra các công nghệ mới; các kết quả 
mới này được chuyển giao cho các đơn vị sản xuất ra các sản phẩm mới nhất 
như những chip điện tử hiện đại nhất, mạnh nhất, bao gồm các xí nghiệp lớn, 
cả các xí nghiệp nhỏ và vừa cũng tham gia quá trình chế tạo và sản xuất; các 
đơn vị sản xuất đều nằm trong phạm vi “điều hành” của “Thung lũng 
Silicon”... 
1.2. Viện Hàn lâm Khoa học 
Cho đến nay Viện Hàn lâm Khoa học còn tồn tại ở một số quốc gia chỉ còn 
là các biểu tượng cao quý của khoa học, bình phát các giải thưởng về khoa 
học chứ không còn là các trung tâm trực tiếp tổ chức thực hiện và phát triển 
các nghiên cứu khoa học nữa. 
Tuy nhiên, sau khi Chiến tranh Thế giới thứ II kết thúc, thế giới phân chia 
thành hai “phe đối đầu”: 
“Các nước phương Tây” do Mỹ và các nước châu Âu phát triển đứng đầu, 
các nghiên cứu khoa học vẫn được phát triển và gắn kết tại các trường đại 
học. 
“Các nước phương Đông” bao gồm các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô 
lãnh đạo; trong quá trình diễn ra “Chiến tranh lạnh” giữa hai phe, các nước 
xã hội chủ nghĩa phải tập trung sức lực vào việc vừa phải phát triển kinh tế 
vừa phải tập trung xây dựng củng cố an ninh - quốc phòng, một nguyên lý về 
phát triển kinh tế - xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đề xuất và được sự noi theo 
của các quốc gia khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa là: “Ưu tiên phát triển 
công nghiệp nặng đồng thời ra sức phát triển công nghiệp nhẹ một cách hợp 
lý”; mặt khác dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng cộng sản, Nhà nước xã 
hội chủ nghĩa trực tiếp chỉ đạo và điều hành guồng máy phát triển kinh tế - 
xã hội chủ nghĩa thông qua công cụ “Kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân”, 
trong quá trình đó Nhà nước trực tiếp phân bổ tài chính về nghiên cứu phát 
triển khoa học kỹ thuật cho các cơ quan, viện nghiên cứu tại các Bộ, ngành; 
cơ quan Viện Hàn lâm Khoa học trực thuộc Chính phủ, quản lý trực tiếp các 
cơ sở nghiên cứu KH&CN lớn nhất của quốc gia, có tiềm năng và tiềm lực 
để phát triển KH&CN trong đó có các CNC, Viện Hàn lâm là nơi nhận 
nhiệm vụ các nghiên cứu lớn của Nhà nước về KH&CN. 
Các hoạt động của các viện nghiên cứu quốc gia được tiến hành theo nhu 
cầu, theo đơn đặt hàng của Nhà nước, kinh phí được Nhà nước cấp phát toàn 
bộ thông qua cơ quan Kế hoạch Nhà nước. Cơ chế này có ưu điểm là tập 
trung được các tiềm lực của các viện nghiên cứu, trong thời gian nhất định 
có thể hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu lớn nhất của quốc gia; nhưng 
mặt trái của nó là: việc tập trung và Nhà nước “bao cấp” đã dẫn tới việc các 
JSTPM Vol 1, No 1, 2012 75 
cơ quan nghiên cứu “xa dần” với thực tiễn sản xuất và không gắn bó với việc 
giáo dục và đào tạo kể cả với các cơ sở đào tạo đại học quốc gia. 
Sau thời kỳ chiến tranh lạnh, nước Nga bị chảy máu chất xám ra nước ngoài, 
một số ngành khoa học của Nga đứng hàng đầu thế giới bị ngưng trệ, hiện 
nay nước Nga đang có chính sách để phục hồi và đẩy mạnh KH&CN sang 
một giai đoạn phát triển mới; Nga đã xây dựng một khu CNC tại 
XanhPêtecbua và hiện nay đích thân Tổng thống Medvedev đang trực tiếp 
chỉ đạo xây dựng INOGRAD (thành phố đổi mới), khu công nghệ rộng lớn 
này đặt ở bên ngoài Matxcơva được coi là một “Thung lũng SILICON” của 
Nga, có thể coi đây là một thông điệp nước Nga đang chuyển khoa học và 
CNC gắn dần với thị trường, chuyển mạnh theo hướng: tạo sự gắn kết tự 
nhiên theo cơ chế thị trường giữa các lĩnh vực Nghiên cứu phát triển - Đào 
tạo - Doanh nghiệp [9]. 
1.3. Con đường của Nhật Bản 
Đầu Thế kỷ XX Nhật đã là một cường quốc công nghiệp, ngay từ năm 1907 
Nhật đã lập Viện Nghiên cứu Kỹ thuật Đường sắt và đã có một hệ thống 
đường sắt hoàn chỉnh. 
Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, Nhật tập trung vào sản xuất công nghiệp 
thông qua việc mua Patent của nước ngoài. Vào những thập niên cuối của 
Thế kỷ XX, Nhật vươn lên là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế 
giới. Lúc này muốn giữ vững vị thế là một quốc gia phát triển hàng đầu thế 
giới về kinh tế, KH&CN người Nhật chuyển hướng phát triển bằng cách tổ 
chức đi sâu vào các nghiên cứu khoa học cơ bản và phát minh sáng chế trong 
các lĩnh vực công nghệ hiện đại nhất trên thế giới; Thành phố Khoa học 
TSUKUBA ra đời trong bối cảnh đó, Chính phủ tập trung xây dựng các viện 
nghiên cứu có trình độ cao hàng đầu thế giới, trong khuôn viên của thành 
phố khoa học này không có các tổ chức sản xuất công nghiệp, nhưng họ có 
truyền thống gắn bó với các doanh nghiệp và vẫn tiếp tục nhận các đơn đặt 
hàng nghiên cứu của các doanh nghiệp công nghiệp hàng đầu Nhật Bản. 
1.4. Các nước công nghiệp mới 
Những thập niên cuối của Thế kỷ XX, thế giới đã được chứng kiến sự phát 
triển nở rộ của KH&CN, sự phát triển này đã đưa con người lên vũ trụ và 
KH&CN đã góp phần hình thành các quốc gia công nghiệp mới (NIC): Đài 
Loan, Hàn Quốc, Singapor...; Những bước phát triển thần kỳ về kinh tế của 
các quốc gia NIC này đã đánh dấu một thời kỳ phát triển mới của kinh tế thế 
giới...; trên đà phát triển này, các quốc gia NIC phải nghĩ tới việc tiếp theo là 
làm sao có thể tạo ra được các sản phẩm có giá trị gia tăng cao và có sức 
cạnh tranh với các nước công nghiệp phát triển (G7). Con đường đó là xây 
76 Về mô hình khu công nghệ cao tại Việt Nam 
dựng các Khu CNC khép kín; ở đó có thể tiến hành các nghiên cứu - đưa các 
nghiên cứu vào sản xuất tạo ra các sản phẩm chất lượng cao có sức cạnh 
tranh trên thị trường thế giới, đồng thời tiến hành đào tạo và cung ứng trực 
tiếp nhân lực chất lượng cao (tập trung trên một địa bàn nhất định gọi là Khu 
CNC); có thể nói các nước NIC như Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, 
Malaysia... chính là quê hương, là nơi sinh ra các khu CNC đầu tiên với khái 
niệm “khu” CNC như đang sử dụng phổ biến hiện nay trên thế giới (có thể 
xem [5, 6, 7, 8, 9]). 
1.5. Trung Quốc phát triển công nghệ cao và khu công nghệ cao [12] 
Ở thập niên đầu của Thế kỷ XXI, sự phát triển kinh tế của Trung Quốc đã 
ghi dấu ấn ngoạn mục, là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, thay thế vị trí 
của Nhật Bản; người ta hay nói đến “mầu sắc Trung Quốc”, nhưng trước hết 
thông qua con đường Trung Quốc phát triển CNC và khu CNC đã nổi bật lên 
là “tính bài bản” và tính “quy luật” trong lựa chọn hướng đi. 
- Trước hết phát triển công nghiệp và Khu công nghiệp. 
Thời kỳ đầu mở cửa, xây dựng hàng loạt các khu công nghiệp tập trung tại 
các tỉnh duyên hải, đã biến các vùng đất không có khả năng sản xuất nông 
nghiệp thành các trung tâm công nghiệp, đô thị, từ đó mở rộng vào nội địa. 
Về công nghệ, Trung Quốc thống nhất lựa chọn loại hình "kỹ thuật tương đối 
tiên tiến" là loại có nhiều kỹ thuật và tri thức, vừa thích ứng với cách mạng 
kỹ thuật mới, vừa phù hợp với ý đồ chiến lược là đưa nền công nghiệp tiến 
lên theo chiều hướng "cao cấp hóa", hướng vào các ngành vi điện tử, vật liệu 
mới, công nghệ sinh học Trong đó, ngành công nghiệp điện tử là chủ đạo. 
Nhà nước Trung Quốc xác định không để các khu công nghiệp trở thành nơi 
tập kết các ngành "công nghiệp cổ điển" mà một số nước khi thành lập khu 
công nghiệp đã gánh chịu. Tuy nhiên, đối với một số doanh nghiệp công 
nghiệp sử dụng công nghệ truyền thống vẫn cần được duy trì và đổi mới dần 
dần. 
Chiến lược sản xuất trong khu công nghiệp là hàng xuất khẩu đồng thời cũng 
không coi nhẹ chiến lược thay thế hàng nhập khẩu. 
Một đặc điểm nổi bật là: trong ba giai đoạn vòng đời của một khu công 
nghiệp thì giai đoạn chuẩn bị thành lập và thu hút đầu tư rút lại ngắn hơn chỉ 
còn khoảng từ năm đến mười năm. 
- Phát triển các Khu CNC. 
Các Khu CNC ở Trung Quốc đã hình thành theo các dạng như sau: 
- Các khu sử dụng hoàn toàn các cơ sở sẵn có của các trường cao đẳng, đại 
học và các viện nghiên cứu KH&CN; nhằm tận dụng các tiềm năng và 
JSTPM Vol 1, No 1, 2012 77 
tiềm lực của địa phương, thành lập các xí nghiệp CNC tại các khu vực xác 
định dưới sự quản lý của Trung ương. Sự kết hợp giữa nghiên cứu khoa 
học với công nghệ sản xuất và thương mại được hình thành tại đây; 
- Các khu tập trung các nhà máy được thành lập theo quy hoạch và có sự 
quản lý thống nhất; 
- Các khu được hình thành dựa vào lợi thế về địa điểm ở ven biển và các 
chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư nước ngoài và khai thác thị trường 
ngoài nước; 
- Các khu có hình thức "Khu trong khu". 
Thông qua việc cho phép thành lập các khu phát triển CNC, Hội đồng Nhà 
nước đã ban hành hàng loạt các qui định và luật lệ liên quan như quy định về 
phạm vi các lĩnh vực KH&CN cao được phát triển trong khu, bao gồm vi 
điện tử, thông tin điện tử, không gian và vũ trụ, khoa học vật liệu, năng 
lượng mới và năng lượng hiệu quả cao, sinh thái và bảo vệ môi trường, khoa 
học về trái đất và địa lý biển, các yếu tố cơ bản và phóng xạ, khoa học về y 
học và vi sinh, và các ngành công nghệ thay thế khác cho các ngành công 
nghiệp truyền thống đang được sử dụng hiện nay. 
Không chỉ đối với các Khu CNC, mà phần lớn các khu công nghiệp, đặc biệt 
là khu công nghiệp trong đặc khu kinh tế đều được đặc biệt khuyến khích sử 
dụng kỹ thuật CNC bao gồm: chuyển giao CNC, ứng dụng CNC, sản xuất 
sản phẩm hàng hóa bằng CNC. Việc nghiên cứu sáng tạo ra CNC được thực 
hiện ở các viện nghiên cứu, các trường đại học... 
Trong đặc khu kinh tế có "Trung tâm hội chợ triển lãm kỹ thuật, CNC" mang 
tính quốc tế. Tại trung tâm này, luôn luôn tổ chức triển lãm, giới thiệu các 
loại sản phẩm công nghiệp được sản xuất bằng kỹ thuật CNC của các nước 
tiên tiến và cả của Trung Quốc. 
Từ các con đường phát triển KH&CN và CNC của các quốc gia khác cho ta 
thấy: 
1. Từ hàng trăm năm nay phát triển KH&CN ở các quốc gia đều dựa trên 
nền tảng phát triển của các trường đại học, gắn đào tạo với nghiên cứu 
KH&CN, vai trò của các Viện Hàn lâm Khoa học dần dần trở thành một 
tổ chức mang tính biểu tượng là nơi tôn vinh KH&CN (bao gồm khoa học 
tự nhiên và khoa học xã hội); 
2. Khi Liên Xô ra đời, thế giới hình thành hai phe, xây dựng trên nền tảng 
chính trị khác nhau, đã tạo ra các con đường phát triển kinh tế, xã hội 
khác nhau, từ đó sự phát triển KH&CN cũng phát triển theo các con 
đường khác nhau dựa trên nền tảng chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau. 
78 Về mô hình khu công nghệ cao tại Việt Nam 
Con đường phát triển KH&CN mang theo dấu ấn của “ý thức hệ” khác nhau, 
từ đó tạo ra các con đường phát triển KH&CN khác nhau, có thể gọi đó là 
các mô thức (Ideological Type for Scientific development) phát triển 
KH&CN, mô thức phát triển CNC. 
Như vậy “Mô thức” là khái niệm rộng để dùng cho phương thức phát triển 
KH&CN và phát triển CNC, thông qua khái niệm mô thức phát triển 
KH&CN và CNC có thể giải thích được nguyên nhân gây ra căn bệnh “mãn 
tính” ở nước ta là sự thiếu gắn bó giữa ba lĩnh vực: phát triển KH&CN, 
phát triển giáo dục và đào tạo đại học và phát triển các doanh nghiệp 
KH&CN và CNC; còn khái niệm “Mô hình” (Model) là khái niệm hẹp dùng 
trong phân loại cụ thể các Khu CNC. 
2. Các mô hình khu công nghệ cao phổ biến 
Hiện nay, trên thế giới, có khoảng 800 khu được xếp vào loại Khu CNC với 
nhiều loại mô hình khác nhau. Việc thành lập Khu CNC ở bất cứ nơi nào 
phát triển công nghiệp CNC, thu hút chất xám để tạo ra sản phẩm có hàm 
lượng khoa học cao hơn hẳn các khu công nghiệp hay khu chế xuất, nhằm 
tạo ra những bước đột phá quan trọng để phát triển công nghệ và công 
nghiệp trong nước. Khu CNC được chính quyền các địa phương dành nhiều 
điều kiện ưu đãi để khuyến khích các nhà đầu tư, các nhà khoa học vào làm 
việc và nghiên cứu, ứng dụng và cho ra đời các sản phẩm mới có hàm lượng 
KH&CN cao. 
Khu CNC phân chia thành năm loại gồm: 
- Công viên khoa học truyền thống (Traditional Science Park). 
 Trung tâm ươm tạo (Incubation Center); 
 Công viên khoa học/Công viên công nghệ (Science 
Park/Technology Park); 
 Công viên nghiên cứu (Research Park). 
- Thành phố khoa học (Science City hay Technopolis). 
 Thành phố khoa học (Science City); 
 Technopolis; 
 Chuỗi đổi mới theo Vùng (Regional Innovation Cluster). 
- Công viên đổi mới công nghệ (Technology Innovation Park- TIP); 
- Trung tâm công nghệ (Technology Center); 
- Công viên khoa học chuyên biệt (Special Science Park). 
JSTPM Vol 1, No 1, 2012 79 
2.1. Giới thiệu tổng quan ba khu công nghệ cao được coi là thành công 
 Thành phố 
khoa học TSUKUBA 
Công viên khoa học 
HSINCHU 
Công viên CNC 
KULIM 
Thành lập Tháng 9/1963 Tháng 12/1980 Năm 1996 
Diện tích 28.400 ha 2.100 ha 1.450 ha 
Chủ trương Chính phủ Chính Phủ Chính phủ 
Cách trung 
tâm đô thị 
Tokyo: 60Km Đài Bắc: 70km 
Các nhà đầu 
tư R&D 
Chủ yếu các Viện Nhà 
nước. 
R&D và Giáo dục. 
33 Viện. 
131 cơ sở R&D. 
Trung tâm Hội nghị 
Quốc tế1 
Trung tâm Tin học chất 
lượng cao Quốc gia 
Trung tâm nghiên cứu 
phóng xạ Xincrôtron Quốc 
gia 
Văn phòng chương trình 
vũ trụ Quốc gia 
Trung tâm Phát triển đo 
lường chính xác 
Trung tâm triển khai Chip 
Các phòng thí nghiệm thiết 
bị Nano Quốc gia gần Viện 
nghiên cứu công nghệ 
công nghiệp (ITRI) và Đại 
học quốc gia Tsing Hua và 
Chiao 
Trung tâm vật liệu tiên 
tiến (AMREC) 
Trung tâm Điện tử 
MIMOS 
Phòng thí nghiệm PLC 
và máy móc 
Trung tâm kỹ thuật 
CNC 
Trung tâm công nghệ 
thông tin KHTP 
Trung tâm bảo mật 
mạng, trung tâm điều 
hành mạng. 
Nhà đầu tư 
Công nghiệp 
CNC 
 Mạch tổ hợp: 169 
Máy tính cá nhân/thiết bị 
ngoại vi: 56 
Thông tin liên lạc: 47 
Quang điện tử: 65 
Cơ khí chính xác: 21 
CN sinh học: 24 
Tổng số: 382 công ty 
Sản xuất: Điện tử, Cơ 
khí, Thông tin liên lạc, 
Chất bán dẫn, Quang 
điện tử học, Công nghệ 
sinh học và Vật liệu 
tiên tiến. 
Nhận xét: 
1 Điểm qua danh mục các cơ quan nghiên cứu tại Thành phố Khoa học Tsukuba. 
- Trường Đại Học Tsukuba. 
- Các trung tâm và các viện nghiên cứu Tsukuba: Cơ quan nghiên cứu máy gia tốc năng lượng cao; Viện Nghiên 
cứu Quốc gia Khoa học vật liệu; Viện Nghiên cứu Quốc gia Khoa học Trái đất và Phòng ngừa thảm họa; Bảo tàng 
Khoa học Quốc gia; Trung tâm Nghiên cứu Tsukuba; Vườn Thực vật Tsukuba; Trung tâm Vũ trụ Tsukuba; Viện 
Nghiên cứu Vật lý và Hóa học; Viện Quốc gia Đổi mới Y Sinh; Viện Quốc gia các Khoa học Sinh học Nông 
nghiệp; Viện Quốc gia Nghiên cứu Lương thực; Trung tâm Quốc gia về Giống và Cây giống; Viện Nghiên cứu 
Rừng và các Sản phẩm Rừng; Viện Nghiên cứu Quốc gia về KH&CN Công nghiệp tiên tiến; Trung tâm các Thiết 
bị Khí tượng; Viện Nghiên cứu Khí tượng... 
80 Về mô hình khu công nghệ cao tại Việt Nam 
1. Các Khu CNC thành công là các khu khép kín, trong đó có nhiều phân 
khu, quan trọng nhất là các phân khu: Nghiên cứu triển khai, Đào tạo và 
Công nghiệp CNC; ba phân khu này gắn kết chặt chẽ với nhau để tạo ra các 
sản phẩm CNC có giá trị gia tăng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường trong 
và ngoài nước. 
2. Trong các Khu CNC khép kín, tập trung nghiên cứu các công nghệ tiên 
tiến và chế tạo ra các sản phẩm CNC cụ thể, và công nghiệp chế tạo các sản 
phẩm điện tử là đối tượng có mặt phổ biến ở các khu CNC. 
3. Thành phố Khoa học Tsukuba là địa bàn giành cho các viện nghiên cứu 
triển khai lớn, nghiên cứu các khoa học tiên tiến hiện nay trên thế giới đồng 
thời giữ truyền thống gắn kết với các tập đoàn công nghiệp lớn thông qua 
việc ký kết các hợp đồng, đây là một Khu có tính “mở” không có hàng rào 
bao quanh như một khu công nghiệp thông thường. 
4. Các Khu CNC thành công đều nằm trong các quốc gia đang sở hữu một 
nền công nghiệp phát triển. 
2.2. Phát triển công nghệ cao ở Việt Nam và sự cần thiết có một quá trình 
chuyển đổi thích hợp 
Trường Đại học Quốc gia đầu tiên của Việt Nam được thành lập từ năm 
1945, và được ghi nhận là cơ quan giáo dục khoa học đầu tiên ở nước ta2; 
cuốn “Danh từ khoa học” Pháp - Việt của Hoàng Xuân Hãn [12] ra đời năm 
1942 đánh dấu sự cố gắng bước đầu các nhà khoa học Việt Nam được đào 
tạo từ nước ngoài về nước cùng góp sức xây dựng một nền khoa học Việt 
Nam; nhưng tiếp liền ngay đó là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của 
nhân dân Việt Nam đã mở rộng trong toàn quốc và việc xây dựng đại học và 
2 Từ năm 1897 một số trường dạy nghề có tính chất chuyên nghiệp đã được thành lập, như Trường Dạy nghề Hà 
Nội (Ecole professionelle de Hanoi) thành lập năm 1898, Trường Hậu bổ Hà Nội (Ecole d’Aministration de Hanoi) 
năm 1897, Trường Công chính (Ecole des Travaux Publics) năm 1902 và Trường Y khoa Đông Dương (Ecole de 
Médecine de l’Indochine) năm 1902. 
Đại học Đông Dương thành lập (16/5/1906), tại 19 Lê Thánh Tông - Hà Nội. Đại học Đông Dương gồm có năm 
trường thành viên, trong đó có một số trường hoặc khoa đã được thành lập từ trước đó, một số trường hoặc khoa 
được thành lập hoàn toàn mới. Năm trường thành viên đó là: Trường Cao đẳng Luật và Hành chính, Trường Cao 
đẳng Khoa học (gồm các ngành toán, vật lý, hóa học và sinh vật), Trường Cao đẳng Y khoa, Trường Cao đẳng Xây 
dựng và Trường Cao đẳng Văn chương (dạy các môn ngôn ngữ và văn học cổ phương Đông, lịch sử và địa lý các 
nước Viễn Đông, Pháp, lịch sử triết học và nghệ thuật...). 
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước đã thành lập Trường Đại học Quốc gia Việt Nam trên cơ sở 
kế thừa Đại học Đông Dương và khai giảng khóa học đầu tiên vào ngày 15/11/1945. 
Để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, người Pháp cũng lập ra một số cơ sở nghiên cứu khoa học như Viện Vi 
trùng học (tại Sài Gòn - 1891, Nha Trang - 1896 và Hà Nội - 1900), Sở Thú y (1897), Nha Khí tượng (1898), Viện 
Nghiên cứu Nông nghiệp và Kỹ nghệ Sài Gòn (1898), Sở Địa lý (1899), Sở Kiểm lâm (1901) và Trường Viễn 
Đông Bác Cổ (1898)... Nhưng các cơ sở nghiên cứu khoa học này hoạt động gần như hoàn toàn biệt lập với các cơ 
sở đào tạo chuyên nghiệp nói trên. 
JSTPM Vol 1, No 1, 2012 81 
khoa học đã phát triển trong cả nước trong tình thế cả nước đang diễn ra 
cuộc chiến tranh vệ quốc chống thực dân Pháp. 
Năm 1959 - 1960 Chính phủ Liên Xô cử một đoàn do các Viện sĩ thuộc các 
chuyên ngành khoa học khác nhau sang giúp Việt Nam xây dựng một 
chương trình phát triển khoa học. Sự kiện này được coi là mốc ghi nhận sự 
hình thành bước phát triển khoa học có bài bản ở nước ta. Lần đầu tiên một 
trung tâm khoa học lớn của Việt Nam ra đời, đó là Viện Khoa học Việt Nam 
theo mô thức Viện Hàn lâm Khoa học các nước xã hội chủ nghĩa: do nhà 
nước giao và duyệt các nhiệm vụ nghiên cứu, cung cấp toàn bộ kinh phí 
Các nhà khoa học Việt Nam từng bước tiếp cận nghiên cứu các vấn đề khoa 
học hiện đại. 
Trong một thời gian dài, nhiều chục năm, Việt Nam vẫn chưa định hình 
được bản sắc khoa học của mình là gì, có lẽ do trình độ khởi đầu về khoa 
học ở nước ta trong giai đoạn này còn quá yếu kém: kinh tế nghèo, trình độ 
phát triển thấp, thiếu chuyên gia đầu ngành, cơ sở trang thiết bị nghiên cứu 
và đào tạo từ đại học trở lên còn non yếu, thậm chí các phòng thí nghiệm ở 
các trường đại học quá nghèo nàn, thiết bị tại các phòng thí nghiệm lớn tầm 
quốc gia thiếu thốn, trang bị không đồng bộ dẫn đến tình trạng là: các cơ 
sở sản xuất chưa có nhu cầu phát triển từ việc vận dụng các kết quả nghiên 
cứu KH&CN, vì nền sản xuất của chúng ta còn lạc hậu, manh mún; giáo dục 
đại học thiếu gắn bó với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; có thể nói 
nghiên cứu khoa học, giáo dục đại học và các doanh nghiệp công nghiệp, 
nông nghiệp là các mảng chỉ nhận nhiệm vụ trực tiếp từ Nhà nước, thông 
qua cơ quan điều phối kế hoạch và tài chính của Nhà nước; thiếu cơ chế gắn 
kết giữa nghiên cứu - đào tạo và sản xuất. 
2.2.1. Sự phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam 
Việt Nam chúng ta đang đứng trước một thách thức: Nền kinh tế đang vượt 
qua khỏi danh sách các nước nghèo và nền công nghiệp chủ yếu là lạc hậu 
nhưng mặt khác từ nhiều chục năm nay chúng ta đã có số lượng đáng kể cán 
bộ KH&CN được đào tạo tại nhiều nước tiên tiến trên thế giới, nếu lực lượng 
này tiếp tục làm việc tại các nước công nghiệp tiên tiến, họ có thể phát huy 
hết được các kiến thức đào tạo, hòa cùng với mạch đập của KH&CN thế 
giới, nhưng khi về Việt Nam là nơi chưa có môi trường làm việc KH&CN, 
kiến thức của họ bị bào mòn theo thời gian. Vấn đề đặt ra là làm sao “san 
lấp” được khoảng cách giữa một nền kinh tế với công nghiệp lạc hậu mà 
vẫn phát huy được năng lực của một đội ngũ KH&CN đã được đào tạo bài 
bản tại các nước công nghiệp tiên tiến? 
82 Về mô hình khu công nghệ cao tại Việt Nam 
Việt Nam chúng ta cần có giai đoạn chuyển đổi từ mô thức Hàn lâm viện 
sang mô thức “gắn nghiên cứu - đào tạo - sản xuất”. Giai đoạn chuyển đổi 
này tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội, mang tính quy luật đó là: 
- Cần phát triển công nghiệp đồng thời với việc phát triển công nghiệp hỗ 
trợ; phát triển công nghiệp hỗ trợ có vai trò là cung cấp cho nhu cầu về 
thiết bị, phụ tùng thay thế phục vụ cho sự phát triển của các ngành công 
nghiệp. Quá trình phát triển công nghiệp hỗ trợ sẽ được nâng cao dần và 
hình thành một nền công nghiệp hỗ trợ đáp ứng từng bước cho sự phát 
triển công nghiệp CNC; 
- Bước tiếp theo là xây dựng được hệ thống công nghiệp hỗ trợ cho phát 
triển công nghiệp CNC và tiến tới thúc đẩy cho CNC phát triển. 
Trải qua hàng nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, hiện nay đất nước chúng ta 
đã có những kết quả đáng khích lệ và đã bộc lộ những cản trở trên con 
đường phát triển CNC và xây dựng Khu CNC. 
Các thành tựu đáng ghi nhận: 
- Việt Nam có một hệ thống giáo dục phổ thông phát triển, trong nhiều năm 
học sinh của Việt Nam đã đạt nhiều giải thưởng trong các cuộc thi quốc 
tế; 
- Có một hệ thống các trường đại học và cao đẳng; đã đào tạo ra nhiều 
thế hệ sinh viên tốt nghiệp phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội 
trong nước, nhiều thế hệ sinh viên tốt nghiệp đại học ở Việt Nam được đi 
đào tạo tiếp ở nước ngoài, nhiều người trong số đó tiếp tục được tuyển 
dụng làm việc tại các nước có nền KH&CN tiên tiến, trong các ngành 
CNC; 
- Việt Nam chúng ta cũng đã xây dựng được hàng trăm viện nghiên cứu 
KH&CN cấp quốc gia, có mối liên hệ trao đổi khoa học, trao đổi chuyên 
gia với nhiều nước tiên tiến trên thế giới về CNC, có nhiều công trình 
nghiên cứu được công bố trên các tạp chí chuyên ngành có uy tín trên thế 
giới. 
Những tồn tại: 
Trong quá trình xây dựng và phát triển KH&CN ở Việt Nam đã bộc lộ một 
số nhược điểm: 
- Việt Nam chúng ta chưa hình thành được các trường phái trong nghiên 
cứu và phát triển KH&CN, trong đó có nguyên nhân cơ bản là chúng ta 
thiếu các chuyên gia đầu đàn đủ sức dẫn dắt phát triển các chuyên ngành 
KH&CN; 
JSTPM Vol 1, No 1, 2012 83 
- Việc đầu tư cho KH&CN ở Việt Nam hiện nay còn rất khiêm tốn, đầu tư 
cho KH&CN chỉ có trên dưới 1% GDP, thì chưa thể đẩy nhanh tốc độ 
phát triển KH&CN, nhất là đối với CNC, là nơi đòi hỏi một đầu tư “mạo 
hiểm”; 
- Mối liên hệ giữa KH&CN và thực tiễn sản xuất ở Việt Nam đang còn 
”lệch pha” rất cao. Các nhà KH&CN chưa có câu trả lời hiệu quả cho các 
nhà sản xuất, và thực trạng các nhà sản xuất vẫn còn “ngoảnh mặt” với 
KH&CN, qua điều tra sơ bộ tại một số địa phương cho thấy: Số doanh 
nghiệp đầu tư cho KH&CN chỉ chiếm dưới 1% trong các doanh nghiệp 
đang hoạt động và lượng đầu tư thì quá ít ỏi, chỉ chiếm vài phần nghìn 
trong tổng doanh thu của doanh nghiệp; 
- Chúng ta khó tìm thấy một doanh nghiệp CNC trong số các doanh nghiệp 
Việt Nam đang hoạt động. 
Điểm tựa để phát triển CNC và xây dựng Khu CNC: 
Trong điều kiện “toàn cầu hóa” hiện nay, Việt Nam chúng ta không cần thiết 
phải đi theo con đường “quy luật phát triển theo thời gian”. 
Với tích luỹ tri thức trong quá trình phát triển theo mô thức Viện Hàn lâm 
Khoa học của Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây, chắc chắn chúng ta 
sẽ tìm ra được bước đi thích hợp để đến năm 2020 khi Việt Nam cơ bản trở 
thành một quốc gia công nghiệp, chúng ta có thể bước tiếp ngay vào quá 
trình xây dựng và phát triển CNC và công nghiệp CNC; 
Chúng ta có các điểm tựa vững chắc để phát triển CNC và xây dựng Khu 
CNC là: 
- Điều kiện tự nhiên ở Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới và nhiệt đới ẩm, 
tài nguyên thiên nhiên Việt Nam có độ đa dạng sinh học cao so với các 
nước trong vùng và có nhiều nét đặc thù so với nhiều quốc gia trên thế 
giới. Đây là tiềm năng phong phú có thể cung cấp nhiều nguyên liệu bản 
địa để tạo ra nhiều sản phẩm CNC có giá trị gia tăng cao, có sức cạnh 
tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu; 
- Trong quá trình lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước, con người Việt Nam 
được hun đúc và tôi luyện tạo nên truyền thống ham học, ham hiểu biết, 
cần cù, nhẫn nại trong công việc, dám vượt qua nhiều điều kiện khắc 
nghiệt để vươn tới thành công; đó là một điều kiện quý báu của đất nước, 
cần ghi nhận và phát huy trong tiến trình phát triển CNC và xây dựng 
Khu CNC ở nước ta; 
84 Về mô hình khu công nghệ cao tại Việt Nam 
- Chính dựa vào các điểm tựa nêu trên, trong những năm gần đây ở Việt 
Nam đã hình thành các doanh nghiệp thành công trong việc tạo ra nhiều 
sản phẩm xuất khẩu, tham gia vào thị trường thế giới như: 
+ Trung tâm Nghiên cứu và bảo tồn dược liệu Đồng Tháp” (Remedica - 
Imexpharm), thuộc xã Bình Phong Lợi, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long 
An. Ở đây, có hàng trăm loại tinh dầu, gồm cả dược phẩm chữa bệnh 
và tinh dầu làm nước hoa cao cấp cung cấp cho một số hãng danh tiếng 
của châu Âu [13]; 
+ Công ty cổ phần Fucoidan Việt Nam đưa ra thị trường sản phẩm 
 Fucogastro, viên nang chứa 100 mg fucoidan 80%, chiết xuất từ Rong 
nâu Việt Nam. Công dụng: Tăng cường sức khoẻ, nâng cao khả năng 
miễn dịch, ngăn ngừa sự hình thành khối u, hỗ trợ điều trị viêm loét và 
ung thư dạ dày, tá tràng. 
2.2.2. Tình hình phát triển các khu công nghệ cao trong nước 
2.2.2.1. Khu công nghệ cao Hòa Lạc 
Tháng 10/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định thành lập Khu CNC 
Hòa Lạc có diện tích 1.586 ha, đồng thời, phê duyệt Quy hoạch tổng thể và 
dự án đầu tư bước một, giai đoạn một Khu CNC Hòa Lạc. 
Khu CNC Hòa Lạc có chức năng, nhiệm vụ và tổ chức đáp ứng điều kiện 
của một khu CNC được quy định tại Luật CNC. Hiện trạng liên kết ba cột trụ 
của Khu CNC là: Nghiên cứu triển khai - Đào tạo nhân lực chất lượng cao - 
Doanh nghiệp CNC, chưa thấy rõ nét. 
Mối liên kết của Khu CNC Hòa Lạc với khu CNC Thành phố Hồ Chí Minh, 
các khu công nghiệp xung quanh chưa phát triển (xem thêm [14]). 
2.2.2.2. Khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh 
Khu CNC Thành phố Hồ Chí Minh chính thức được thành lập theo Quyết 
định số 145/QĐ-TTg ngày 24/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ, với tổng 
diện tích hiện nay là 913 ha. 
Vườn ươm doanh nghiệp được đưa vào hoạt động từ tháng 10/2006, nhưng 
cho đến nay việc liên kết nghiên cứu - đào tạo - và phát triển doanh nghiệp 
để tạo ra được sản phẩm CNC mang thương hiệu “Khu CNC thành phố Hồ 
Chí Minh “vẫn còn là vấn đề thách thức trước mắt và cả trong tương 
lai”(xem thêm [15]). 
JSTPM Vol 1, No 1, 2012 85 
2.2.2.3. Các công viên phần mềm 
Tính đến nay, cả nước đã có tám công viên phần mềm đi vào hoạt động, tập 
trung ở các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà Nội, 
Hải Phòng, Cần Thơ, Thừa Thiên Huế. Hầu hết các công viên phần mềm này 
đều mới được xây dựng và đưa vào hoạt động trong những năm 2003 - 2005. 
Một số công viên phần mềm đã khai thác có hiệu quả công suất thiết bị và cơ 
sở hạ tầng, nổi bật nhất là Công viên phần mềm Quang Trung, Công viên 
phần mềm Sài Gòn và E-Tower của Thành phố Hồ Chí Minh (chỉ riêng ba 
công viên phần mềm này đã thu hút được 118 doanh nghiệp phần mềm trong 
và ngoài nước). Đặc biệt tháng 7/2008, SaigonTel đã liên kết với tập đoàn 
Teco (Đài Loan) khởi công xây dựng Trung tâm phần mềm Thủ Thiêm, với 
tổng vốn đầu tư 1,2 tỷ USD, doanh số dự kiến 6,5 tỷ USD/năm và thu hút 
khoảng 70.000 kỹ sư công nghệ thông tin tới làm việc. Đà Nẵng có Công ty 
phần mềm Soft Đà Nẵng là công viên phần mềm có nhiều thành công và 
phát triển có hiệu quả. 
Về liên kết giữa các công viên và với các tổ chức kinh tế khác nói chung đã 
có bước đầu phát triển tốt. 
2.2.2.4. Một số dự án sản suất sản phẩm công nghệ cao 
Một số dự án sản xuất sản phẩm CNC đã được đầu tư vào các khu công 
nghiệp ở một số tỉnh, thành phố. Ngày càng có nhiều các dự án sản xuất sản 
phẩm CNC đầu tư và tập trung đầu tư vào một số khu công nghiệp như Hải 
Phòng, Hải Dương, Quảng Nam, Bà Rịa - Vũng Tàu, Nhơn Trạch (Đồng 
Nai), Việt Nam - Singapore (Bình Dương), Nomura (Hải Phòng). Khi phần 
lớn các dự án trong khu này là các dự án sản xuất sản phẩm CNC cùng với 
sự xuất hiện hoạt động nghiên cứu trong các khu nêu trên, các khu này sẽ trở 
thành các khu công nghiệp CNC. 
2.2.2.5. Các khu nông nghiệp công nghệ cao 
Đã hình thành 12 khu nông nghiệp ứng dụng CNC tại các địa phương như 
Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thái Nguyên, Sơn La, Cần Thơ, Hải 
Phòng, Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Định, Lâm Đồng, Bạc Liêu. Các tỉnh, 
thành phố thuộc các vùng kinh tế trọng điểm đều dự kiến thành lập khu nông 
nghiệp ứng dụng CNC trên địa bàn. 
2.3. Các gợi ý tham chiếu để hình thành các mô hình khu công nghệ cao 
thích hợp tại Việt Nam 
2.3.1. Phát triển công nghệ cao và xây dựng khu công nghệ cao 
86 Về mô hình khu công nghệ cao tại Việt Nam 
CNC đã và đang được ứng dụng trong mọi ngành nghề, lĩnh vực; đang mang 
lại hiệu quả sản xuất cao gấp nhiều lần so với công nghệ cũ, công nghệ 
truyền thống và làm tăng nhanh tổng thu nhập quốc dân. 
Kinh nghiệm phát triển kinh tế cho thấy: 
- Chính phủ Hàn Quốc đã đẩy mạnh phát triển ngành CNC, nhờ đó thu 
nhập bình quân đầu người tăng lên 20.000 - 30.000 USD/năm; 
- Nhật Bản là quốc gia không nhiều tài nguyên thiên nhiên; nhờ phát triển 
ngành CNC, chỉ sau chiến tranh 40 năm (năm 1985), nước Nhật đã vươn 
lên đứng hàng thứ hai trên thế giới về tổng thu nhập quốc dân; 
- Từ Thập niên 70 của thế kỷ trước đến nay, vì không thể phát triển ngành 
CNC nên Brazil đã không thể xây dựng vị thế cường quốc về công nghệ; 
thu nhập bình quân đầu người của Brazil cho đến nay cũng chỉ mới đạt 
8.000 USD/năm. 
Tại Việt Nam, nếu chỉ dựa vào xuất khẩu thủy sản, lúa gạo, cà phê thì 
chắc chắn Việt Nam chỉ đạt được mức thu nhập bình quân trên đầu người 
4.000 - 5.000 USD/người/năm. Do đó, CNC chắc chắn sẽ là con đường đưa 
nền kinh tế Việt Nam phát triển và hòa nhập vào kinh tế thế giới, để có thể 
nâng mức thu nhập bình quân của người dân lên mức vài chục nghìn 
USD/năm. 
Các nước công nghiệp mới (NIC) khi đã đạt thành tựu về phát triển công 
nghiệp (trong đó có một tiềm lực mạnh về các cơ sở công nghiệp hỗ trợ), đã 
tìm giải pháp CNC để đẩy sức cạnh tranh của nền kinh tế. 
Trung Quốc cũng có những bước phát triển rất mạnh về các khu công nghiệp 
(đặc biệt là phát triển các khu công nghiệp ven biển), những khu công nghiệp 
này là nơi tiếp nhận các công nghiệp sạch, tiên tiến, bảo vệ môi trường, phát 
triển bền vững, tạo đà phát triển CNC và xây dựng các Khu CNC. 
2.3.2. Khu CNC là sân chơi tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh dựa vào 
việc sử dụng kịp thời các kết quả phát minh mới vào trong sản xuất; các 
thành viên là những doanh nghiệp công nghiệp phát triển, họ muốn nâng tầm 
trình độ công nghệ để đủ sức tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng, có sức 
cạnh tranh với các sản phẩm của các quốc gia hàng đầu thế giới; Các kết quả 
nghiên cứu triển khai và công nghệ sản xuất là các bí mật, tạo ra ưu thế cạnh 
tranh mà các chủ sở hữu không thể chuyển giao một cách bình thường. 
2.3.3. Chủ trương và quyết định của Chính phủ là điều kiện tiên quyết để có 
thể phát triển CNC và xây dựng khu CNC: đảm bảo đầu tư về tài chính, nhân 
lực, vật lực cần thiết để phát triển. 
JSTPM Vol 1, No 1, 2012 87 
Quá trình phát triển của các quốc gia công nghiệp hàng đầu thế giới như 
Anh, Mỹ, Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản... đều xây dựng chính sách công 
nghiệp, trong đó Mỹ thực hiện dưới tên là hỗ trợ cho các doanh nghiệp 
nghiên cứu và phát triển ở những ngành có lợi thế cạnh tranh cao, như công 
nghiệp quốc phòng, công nghệ viễn thông, sinh học. 
Theo kinh nghiệm các nước Đông Á phát triển nhanh cho thấy nên áp dụng 
chính sách công nghiệp vào một số lĩnh vực. 
Bài học từ Tập đoàn TSMC (Taiwan Semiconductor Manufacturing Corp) 
của Đài Loan (Trung Quốc) cho thấy, những ngày đầu tiên xây dựng công 
ty, chính quyền đã nắm đa số cổ phần để giúp công ty phát triển. Sau đó, họ 
chuyển sang tư hữu hóa. Đến nay thì TSMC là công ty lớn nhất thế giới về 
gia công silic với doanh thu khoảng 10 tỷ USD/năm. 
Tập đoàn Điện tử Samsung, với sự giúp đỡ của Nhà nước cũng phải đến 25 
năm phát triển mới tạo ra vị thế như ngày hôm nay. 
Cho đến hiện nay có lẽ không chỉ ra được đất nước nào có thể phát triển 
ngành CNC mà thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước. 
2.3.4. Sự gắn kết ba cột trụ của khu công nghệ cao 
- Nghiên cứu để tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao. 
- Đào tạo nhân lực chất lượng cao cung cấp cho nghiên cứu và sản xuất. 
- Phát triển doanh nghiệp CNC trên cơ sở chuyển hóa được các kết quả 
nghiên cứu và sử dụng có hiệu quả nhân lực được tuyển lựa và đào tạo. 
Sự gắn kết này phải xem là một “nguyên lý vàng” trong việc phát triển CNC 
và xây dựng Khu CNC. 
Trong mỗi khu CNC thường chỉ tập trung gắn kết đồng bộ ba cột trụ để tạo 
một số sản phẩm CNC cụ thể, trong khi ở một khu công nghiệp thông thường 
có thể tiếp nhận các doanh nghiệp theo yêu cầu của nhà đầu tư và trong khu 
đó thường sản xuất ra các loại sản phẩm công nghiệp khác nhau. Tập đoàn 
Intel là công ty số một thế giới về ngành bán dẫn, họ chỉ chế tạo chip CPU 
được sử dụng trong từng cái máy tính chứ không sản xuất và bán máy tính 
hoàn chỉnh. Đây là một đặc thù của việc phát triển CNC và sự hình thành các 
khu CNC. 
Các nhà đầu tư đều có mong muốn tìm kiếm lợi nhuận từ các chính sách giá 
thuê đất và nhân công rẻ, do vậy họ tìm các nơi có ưu thế này để đặt các 
nhà máy thành viên ở các quốc gia khác nhau. Thiết kế, chế tạo đặt ở Trung 
tâm điều hành còn các đơn vị sản xuất từng bộ phận sản phẩm, các đơn vị 
lắp ráp sản phẩm có thể đặt ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới (nơi có các 
88 Về mô hình khu công nghệ cao tại Việt Nam 
lợi thế: nhân lực rẻ, thuế thấp, nhiều ưu đãi mang lại lợi nhuận cao hơn 
cho nhà đầu tư). 
Cần nắm chắc “nguyên lý vàng” để tránh cái “bẫy” biến Khu CNC thành khu 
công nghiệp trong quá trình chỉ đạo và điều hành. 
2.3.5. Con đường phát triển công nghệ cao và xây dựng khu công nghệ cao ở 
Việt Nam 
Như đã nhận xét ở Phần 2.1. các khu CNC thành công đều nằm trong các 
quốc gia công nghiệp phát triển; Việt Nam chúng ta vừa vượt ra khỏi một 
quốc gia nghèo, đang phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành 
một nước công nghiệp với thu nhập bình quân GDP/người là 3.000 USD; 
đây là một thách thức trong việc phát triển CNC và xây dựng Khu CNC ở 
Việt Nam, đồng thời là một yếu tố không thể “quên” để tìm ra mô hình phát 
triển CNC và xây dựng Khu CNC thích hợp cho Việt Nam trong những năm 
trước mắt. 
Giải pháp hữu hiệu là phát huy các thế mạnh của Việt Nam, khắc phục các 
mặt yếu, với các điểm tựa đã nêu trong Phần 2.2.1. 
2.3.6. Ưu tiên phát triển ngành công nghiệp điện tử, một nền tảng cơ bản để 
phát triển một nền công nghiệp hiện đại, là lựa chọn của các quốc gia NIC và 
Trung Quốc trong những bước đi ban đầu phát triển CNC và xây dựng Khu 
CNC. 
Vấn đề này cần được các cơ quan liên quan rà soát và nghiên cứu đánh giá 
một cách khách quan: vì sao Việt Nam chúng ta chưa phát triển tốt ngành 
công nghiệp điện tử và khẳng định việc phát triển ngành này tại Việt Nam. 
2.3.7. Tính “đa chức năng” và “có ranh giới xác định” của Khu CNC không 
nằm trong quy định của Luật CNC năm 2008, đây là một điều kiện “mở” để 
có thể nghiên cứu tạo ra các mô hình Khu CNC khác nhau tại Việt Nam./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Thông báo kết luận số 234-TB/TƯ ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị về Báo cáo kiểm 
điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương II (Khóa VIII) về KH&CN và nhiệm 
vụ, giải pháp phát triển KH&CN từ nay đến năm 2020. 
2. Thủ tướng Chính phủ. Nghị định số 99/2003/NĐ-CP ngày 28/8/2003 về việc Ban hành 
quy chế Khu CNC. 
3. Luật Công nghệ cao, năm 2008. 
4. Trang web Sciencedirect.com. 
JSTPM Vol 1, No 1, 2012 89 
5. Dieter Ernst. What Permits Small Firms to Compete in High-Tech Industries? Inter-
Organizational Knowledge Creation in the Taiwanese Computer Industry.Copenhagen 
Business School, 
7. Hsien-Che Lai and Joseph Z. Shyu. A comparison of innovation capacity at science 
parks across the Taiwan Strait: the case of Zhangjiang High-Tech Park and Hsinchu 
Science-based Industrial Park. Technovation, Volume 25, Issue 7, July 2005, Pages 
805-813. 
8. Yi Ling Ku, Shu-Jong Liau and Woan-Chiau Hsing. The high-tech milieu and 
innovation-oriented development. Technovation, Volume 25, Issue 2, February 2005, 
Pages 145-153. 
9. Alessandro Kihlgren. Promotion of innovation activity in Russia through the creation of 
science parks: the case of St. Petersburg (1992 - 1998). Technovation, Volume 23, 
Issue 1, January 2003, Pages 65-76. 
10. 
minh 
11. Maureen M. J. Berry and James H. Taggart. Combining technology and corporate 
strategy in small high tech firms. Research Policy, Volume 26, Issues 7-8, April 1998, 
Pages 883-895. 
12. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). 
%C3%A1c_v%C3%A0_Ph%C3%A1t_tri%E1%BB%83n_Kinh_t%E1%BA%BF 
13. Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia. Đặc điểm khu công nghiệp, khu 
công nghệ cao của Trung Quốc. 
14. Hoàng Xuân Hãn. Danh từ khoa học. Toán, Lý, Hóa, Cơ, Thiên văn. Pháp - Việt. Nxb 
Minh Tân 7, Rue Guériégaud. PARIS-VI. 
15. Khu công nghệ cao Hòa Lạc. 
16. Khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh. 
D=68. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
ve_mo_hinh_khu_cong_nghe_cao_tai_viet_nam.pdf