Những kết luận chủ yếu từ nghiên
cứu này, bao gồm:
1. Sự tập trung của doanh nghiệp
FDI trong các ngành thâm dụng lao
động khiến hiệu ứng lan tỏa kĩ thuật
của các doanh nghiệp này ở Việt Nam
rất yếu kém.
2. Sự tập trung của doanh nghiệp
FDI trong các ngành thâm dụng lao
động làm chậm quá trình nâng cao tiền
lương cho công nhân viên Việt Nam. Bởi
lẽ, “giá trị gia tăng” từ lao động chân
tay (lao động giản đơn) luôn đặt người
lao động vào tình thế bất lợi trong việc
đòi hỏi được hưởng mức phân chia cao
hơn từ lợi nhuận doanh nghiệp.
3. Sự tập trung của doanh nghiệp
FDI trong các ngành thâm dụng lao động
khó lòng hỗ trợ công nghiệp Việt Nam
phát triển theo chiều sâu và hiện đại.
4. Việc doanh nghiệp FDI chuyển
từ khu vực công nghiệp sang bất động
sản và dịch vụ lưu trú cần phải được coi
là một dạng đầu tư rủi ro đòi hỏi có
kiểm soát chặt chẽ.
5. Sự yếu kém của các ngành công
nghiệp phụ trợ làm suy yếu sức hấp dẫn
của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư
nước ngoài đồng thời làm giảm thiểu
ngay chính tác động tích cực của doanh
nghiệp FDI trong việc truyền bá/chuyển
giao công nghệ.
6. Hoạt động đầu tư của Việt Nam
đang phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn
bên ngoài (cả trực tiếp và gián tiếp).
Trên thực tế, không có quốc gia nào
phát triển ổn định lại không dựa vào
việc phát triển đội ngũ doanh nghiệp
bản địa hùng hậu. Trường hợp của Nhật
Bản, Hàn Quốc giai đoạn cất cánh,
trường hợp của Trung Quốc hiện nay
đều là minh chứng sống động cho việc
chính phủ kết hợp với doanh nghiệp bản
địa để hình thành nên các “quả đấm
thép” – một thuật ngữ ưa thích của các
nhà hoạch định chính sách Việt Nam.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 301 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Về vai trò của vốn FDI - Nghiên cứu so sánh trường hợp Việt Nam và Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Về VAI TRò CủA VốN FDI – NGHIÊN CứU SO SáNH TRƯờNG HợP
VIệT NAM Và TRUNG QUốC
Phạm Sĩ Thành (*)
Vốn đầu t− trực tiếp n−ớc ngoài (FDI) có vai trò quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia bản địa (quốc gia tiếp nhận).
Tuy nhiên, tùy theo từng điều kiện của mỗi quốc gia, các mong mỏi này
có thể sẽ thành hiện thực, sẽ đ−ợc đáp ứng một phần, hoặc có thể sẽ chỉ
là một giấc mơ đẹp. Đ−ợc đánh giá là hai quốc gia có sự bùng nổ về thu
hút FDI nh−ng rõ ràng khi so sánh về vai trò (đóng góp) của nguồn vốn
FDI đối với sự phát triển kinh tế của hai quốc gia Việt Nam và Trung
Quốc, có thể nhận thấy rất nhiều điểm khác biệt. Nguyên do của những
khác biệt này đôi khi không phải do điều kiện khách quan mà bắt nguồn
từ sự khác biệt trong khi hoạch định chính sách và khả năng thực hiện
các chính sách đó ở mỗi n−ớc.
I. Tổng quan về FDI ở Việt Nam và Trung Quốc
Một thay đổi quan trọng trong t−
duy kinh tế của Việt Nam là ban hành
Luật Đầu t− N−ớc ngoài (năm 1986).
Đến năm 2005, luật này đ−ợc đổi tên
thành Luật Đầu t− năm 2005 (có hiệu
lực từ 1/7/2006) để thay thế cho Luật
Đầu t− n−ớc ngoài tại Việt Nam (ban
hành năm 1996) và bổ sung, sửa đổi một
số điều của Luật Đầu t− n−ớc ngoài tại
Việt Nam năm 2000. Điều đó đánh dấu
nỗ lực của Việt Nam trong việc hoàn
thiện khung pháp lí cho các hoạt động
đầu t− n−ớc ngoài. Theo số liệu của
Tổng cục Thống kê, số FDI tích tụ tăng
từ 140 triệu USD với 28 dự án (năm
1988) lên 5,5 tỉ USD với hơn 700 dự án
(năm 1993) và 60 tỉ USD với tổng số dự
án là 6164 (năm 2004) (xem: 20). Trong
giai đoạn bùng nổ FDI 1994 – 1997, tỉ
trọng FDI/GDP của Việt Nam là khoảng
10%, giúp Việt Nam trở thành quốc gia
dẫn đầu về nhận FDI trong số các quốc
gia đang phát triển. Khi khủng hoảng
tài chính – tiền tệ châu á nổ ra năm
1997, tỉ trọng này đã sụt giảm mạnh, và
đến năm 2005 mới trở lại mức 10% nh−
tr−ớc (xem: 20). Điều đáng ngạc nhiên
là cuộc khủng hoảng tồi tệ năm 2008
khiến tăng tr−ởng xuất khẩu của Việt
Nam giảm sút nh−ng l−ợng vốn FDI
giải ngân thực tế trong năm 2009 và 11
tháng đầu năm 2010 vẫn duy trì đ−ợc
đà tăng. ∗11 tháng đầu năm 2010, tổng
số vốn đăng kí FDI vào Việt Nam là
13,304 tỉ USD, trong đó số vốn FDI đã
giải ngân là 9,95 tỉ USD, tăng nhẹ so
với 11 tháng của năm 2009 (9,05 tỉ
USD) (theo: 5).
(∗) TS., Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại
học quốc gia Hà Nội.
16 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2011
Đối với Trung Quốc, trong toàn bộ
thập niên 1980, quy mô FDI nhận đ−ợc
rất nhỏ, tốc độ tăng cũng chậm chạp.
Năm 1991, số vốn FDI theo đăng kí đạt
mức cao nhất trong một thập kỉ (11,977
tỉ USD) nh−ng số FDI thực tế chỉ có
4,366 tỉ USD. Tuy nhiên, kể từ năm
1992, tăng tr−ởng FDI đã b−ớc sang một
chu kì mới, Trung Quốc trở thành quốc
gia đang phát triển nhận FDI lớn nhất
thế giới (năm 2009, vốn FDI thực tế
nhận đ−ợc đạt 90 tỉ USD) (dẫn theo: 4).
Tính đến cuối năm 2007, l−ợng FDI tích
tụ của Trung Quốc đã đạt 760 tỉ USD.
Trong giai đoạn 2004 – 2006, trung bình
mỗi năm Trung Quốc nhận đ−ợc 70 tỉ
USD (xem: 9). Tr−ớc năm 1990, tỉ trọng
FDI/GDP của Trung Quốc chỉ ch−a đầy
1%, sau đó tăng với tốc độ chậm chạp
0,1% mỗi năm, đến năm 1991 mới đạt
ng−ỡng 1% GDP. Từ năm 1991 – 1994,
con số này có sự tăng tr−ởng mạnh mẽ
và đạt đến đỉnh 6,04% (năm 1994). So
với các quốc gia Đông á khác nh− Nhật
Bản và Hàn Quốc, Trung Quốc t−ơng
đối mở cửa cho đầu t− trực tiếp n−ớc
ngoài. Bởi lẽ, trong thời kì tăng tr−ởng
nhanh nhất, tỉ trọng FDI/GDP của hai
n−ớc Nhật Bản, Hàn Quốc cũng ch−a
đầy 1% (xem: 1).
II. Vai trò của vốn FDI đối với sự phát triển kinh tế
của Việt Nam và Trung Quốc
1. Những điểm t−ơng đồng về vai trò
của vốn FDI đối với sự phát triển kinh tế
ở Việt Nam và Trung Quốc
Đóng góp mạnh mẽ cho tăng tr−ởng
sản xuất và xuất khẩu. Điểm t−ơng
đồng rõ nét nhất về đóng góp của doanh
nghiệp FDI cho sự tăng tr−ởng kinh tế
của Việt Nam và Trung Quốc là việc
khu vực doanh nghiệp này đã tạo ra lực
kéo về tăng tr−ởng sản xuất. Đồng thời,
d−ới tác động định h−ớng chính sách
của chính phủ (đặc biệt là ở Trung
Quốc), chúng cũng trở thành đội ngũ
xuất khẩu chủ lực của cả hai quốc gia.
Tr−ớc và sau khủng hoảng 1997, doanh
nghiệp FDI luôn duy trì đ−ợc mức tăng
tr−ởng sản xuất cao hơn rất nhiều so với
các doanh nghiệp bản địa của Việt Nam,
tỉ lệ tăng tr−ởng này luôn ở mức trên
10%, cá biệt có những năm đạt 35%
(năm 1999). Giai đoạn 2000 –
2003 là giai đoạn sụt giảm tăng
tr−ởng sản xuất (trung bình
14%/năm) nh−ng từ 2003 đã có
dấu hiệu hồi phục. Điều đó đã
tạo đà hoàn hảo cho những cú
bật về xuất khẩu của doanh
nghiệp FDI (biểu đồ 1).
Tăng tr−ởng xuất khẩu của
doanh nghiệp FDI cao hơn so
với doanh nghiệp nhà n−ớc
(DNNN) của Việt Nam, đồng
thời tỉ trọng xuất khẩu của các
doanh nghiệp này trong tổng
giá trị xuất khẩu của Việt Nam cũng
tăng mạnh (từ gần 30% năm 1995 lên
khoảng 60% năm 2007). Năm 2009 tỉ
trọng này đạt 42,3%, 7 tháng đầu năm
2010 là 46,2% (theo: 21, tr.1).
Tại Trung Quốc, vai trò của các
doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực xuất
Về vai trò của vốn FDI -
17
khẩu thậm chí còn nổi bật hơn so với
Việt Nam (biểu đồ 2).
Nguồn: Niên giám Thống kê Trung
Quốc (năm 2007) và Công báo thống kê phát
triển kinh tế và xã hội n−ớc CHND Trung
Hoa (các năm).
So với doanh nghiệp bản địa, các
doanh nghiệp FDI cho thấy rõ khuynh
h−ớng xuất khẩu nh−ng 2/3 l−ợng hàng
hóa tiêu thụ của các doanh nghiệp này
vẫn h−ớng vào thị tr−ờng Trung Quốc.
Các doanh nghiệp FDI đảm nhiệm gần
nh− trọn vẹn hoạt động xuất khẩu mặt
hàng điện tử và dụng cụ đo đạc, đo
l−ờng của Trung Quốc khi tỉ trọng xuất
khẩu của chúng trong tổng xuất khẩu
của ngành lên tới 91,12% và 93,83%
(xem: 2). Bên cạnh đó, vai trò của doanh
nghiệp FDI cho xuất khẩu của Trung
Quốc còn quan trọng ở chỗ các doanh
nghiệp này góp phần biến hàng hóa
“Made in China” thành một th−ơng hiệu
toàn cầu. Mô hình “Quảng Đông là nhà
x−ởng – Hong Kong là cửa hàng” giúp
các doanh nghiệp bản địa tháo gỡ khó
khăn về marketing.
DNNN - “Hoàng tử đỏ”; Doanh
nghiệp FDI – “trải thảm đỏ”; Doanh
nghiệp t− nhân trong n−ớc – “con đỏ”:
Phân biệt đối xử giữa các loại hình
doanh nghiệp rất rõ nét. ở Trung Quốc,
doanh nghiệp t− nhân (DNTN) không
chỉ “lép vế” hơn DNNN trong việc tiếp
cận các khoản tín dụng (xem: 2), mà còn
bị thiệt thòi
trong lĩnh vực
đầu t− kinh
doanh. Có rất
nhiều lĩnh vực
kinh doanh
mở cửa cho
doanh nghiệp
FDI và DNNN
nh−ng lại hạn
chế hoặc
không cho
phép DNTN đ−ợc tham gia (xem thêm:
12). Nghiên cứu gần đây của Dollar và
Ngụy Th−ợng Tiến cho thấy ở Trung
Quốc mặc dù tỉ trọng của DNNN trong
sản xuất liên tục giảm sút (từ 70% năm
1985 xuống còn 53% năm 1997 và năm
2007 chỉ còn khoảng 40%) nh−ng tổng
mức vay tín dụng của các DNNN vẫn
chiếm hơn 50% tổng mức d− nợ tín dụng
của các ngân hàng th−ơng mại nhà n−ớc
(xem: 6).
Tại Việt Nam, truyền thống −u đãi
tín dụng cho DNNN đã thay đổi trong
một thập niên qua với tỉ trọng cho khu
vực ngoài nhà n−ớc vay tín dụng tăng từ
37% (năm 1994) lên gần 70% (năm
2006) (xem: 16). ấn t−ợng hơn, tỉ trọng
tín dụng từ ngân hàng th−ơng mại nhà
n−ớc dành cho DNNN gần nh− chỉ còn
1/2 trong 10 năm (55,8% năm 1994
xuống còn 28,6% năm 2005) (xem: 16).
Tuy nhiên, cho vay theo chỉ đạo đã làm
tăng tỉ lệ các khoản nợ khó đòi (20 –
30% so với số liệu chính thức 5 – 7%),
nhờ vào việc DNNN liên tục đ−ợc giãn
nợ cho các khoản vay không (thể) hoàn
trả. Điều đáng báo động là tính bất cân
xứng giữa những −u đãi chính sách của
Chính phủ với hiệu quả hoạt động của
DNNN. Đóng góp của DNNN ở Việt
18 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2011
Nam cho tăng tr−ởng sản xuất đã suy
giảm một cách chóng vánh (từ mức hơn
40% năm 1996 xuống còn ch−a đầy 10%
năm 2008) (xem: 16). Nguyên nhân của
tình trạng trên không chỉ là do hiệu quả
kinh doanh của nhiều tập đoàn kinh tế
nhà n−ớc, các tổng công ty nhà n−ớc ở
Việt Nam th−ờng yếu kém, mà còn do
các tập đoàn và tổng công ty này bị cuốn
vào cơn lốc bành tr−ớng lĩnh vực kinh
doanh. Hoạt động đầu t− và kinh doanh
trong các ngành phụ đôi khi đ−ợc coi
trọng hơn trong lĩnh vực nghiệp vụ chủ
đạo. Tr−ờng hợp Tập đoàn Công nghiệp
Tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) là một
thí dụ điển hình (xem: 8). Nhiều tập
đoàn nhà n−ớc lớn của Việt Nam nh−
Petro Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN), Vinatex, Vinacomin đã mở
ngân hàng, công ty tài chính, công ty
chứng khoán, công ty thuê mua và công
ty bảo hiểm. Những thói quen cũ là rất
khó rũ bỏ.
Phân bố FDI theo khu vực địa lí làm
tăng mất cân bằng phát triển kinh tế
vùng. Vốn FDI vừa đem lại nhiều ích lợi
cho nền kinh tế của hai quốc gia Việt
Nam, Trung Quốc, nh−ng đồng thời
cũng khiến tình trạng phát triển mất
cân đối giữa các vùng miền ngày càng
trầm trọng. Những địa ph−ơng thu hút
đ−ợc nhiều vốn FDI đã bỏ xa các địa
ph−ơng khác về mức độ phát triển kinh
tế, trình độ công nghệ, mức sống, điều
kiện và cơ hội việc làm, v.v Về lâu dài,
những chênh lệch này có thể trở thành
những đứt gãy nguy hiểm, dẫn đến việc
loại bỏ hoàn toàn khả năng hội nhập
của các địa ph−ơng có mức phát triển
thấp vào các khu vực có trình độ phát
triển cao.
Tại Trung Quốc, trong khi khu vực
duyên hải phía Đông là nơi có mật độ
FDI rất cao thì miền Tây và vùng nội
địa gần nh− “đói” vốn. Thực tế này một
mặt phản ánh −u thế nổi trội của khu
vực duyên hải miền Đông so với các
vùng còn lại (về vị trí địa lí, kết cấu thị
tr−ờng, quy mô dân số, trình độ phát
triển kinh tế, v.v). Trong 11 năm
(1993 – 2003) tỉ lệ FDI/GDP bình quân
của Quảng Đông là 13%, của Phúc Kiến
là 11%. Các tỉnh thành ven biển khác –
những nơi có mật độ vốn FDI rất cao –
chỉ thấp hơn hai tỉnh này một chút: của
Th−ợng Hải là 9%, Giang Tô và Bắc
Kinh là 7% (xem: 7). So với khu vực
duyên hải phía Đông, các tỉnh miền Tây
và Đông Bắc chỉ thu hút đ−ợc l−ợng FDI
khiêm tốn. Điều thực sự đáng quan ngại
là sự chênh lệch về năng lực thu hút
FDI giữa các tỉnh thu hút ít với các tỉnh
thu hút nhiều ngày càng lớn chứ không
phải mức FDI đã thu hút đ−ợc. Trong
thời gian 1979 – 1985, FDI của các tỉnh
miền Đông chiếm 64,1% tổng mức của
cả Trung Quốc, các tỉnh miền Tây và
vùng nội địa chiếm 35,9%. Từ năm 1985
– 1990, con số này lần l−ợt là 73,8% và
26,2%. Kể từ sau những năm 1990, tỉ lệ
của khu vực miền Đông đã lên tới trên
84,6% (xem: 7). Mặc dù kể từ những
năm 1990, “khai thác – phát triển miền
Tây” đã trở thành ch−ơng trình trọng
điểm quốc gia của Trung Quốc, chính
phủ cũng ban hành nhiều chính sách −u
đãi về đầu t− nhằm thu hút FDI đổ về
các tỉnh miền Tây nh−ng hiệu quả
không thực sự là bao. Bởi lẽ, một mặt
tác dụng của cơ chế khích lệ đối với vốn
FDI rất hạn chế, mặt khác, sự cạnh
tranh quyết liệt giữa các tỉnh miền
Đông càng làm cho tác dụng của các
chính sách khích lệ trên trở nên mờ
nhạt (xem thêm: 3). Một nguyên do tạo
nên sự chênh lệch ngày càng lớn này là
tác động của kết cấu quốc gia/khu vực
đầu t−. Theo đó, Hong Kong, Đài Loan –
Về vai trò của vốn FDI -
19
0%
20%
40%
60%
80%
100%
N
ă
m
19
96
N
ă
m
19
97
N
ă
m
19
98
N
ă
m
19
99
N
ă
m
20
00
N
ă
m
20
01
N
ă
m
20
02
N
ă
m
20
03
N
ă
m
20
04
N
ă
m
20
05
N
ă
m
20
06
N
ă
m
20
07
N
ă
m
20
08
Nhà nước Tư nhõn FDI
hai khu vực có đóng góp FDI rất cao cho
Trung Quốc – đều nằm sát với các tỉnh
miền Đông.
ở Việt Nam, sự mất cân đối về phân
bố FDI cũng chịu tác động rõ rệt của
điều kiện địa lí và đặc điểm phát triển
kinh tế - xã hội của địa ph−ơng. Nhìn
chung, đồng bằng sông Hồng (ĐBSH),
Đông Bắc (với các cảng biển quan trọng
ở Quảng Ninh và Hải Phòng), đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và Đông
Nam Bộ là những khu vực nhận đ−ợc
vốn FDI với tỉ trọng nổi bật hơn cả.
Năm 2009, tỉ trọng thu hút vốn FDI
đăng kí phân theo vùng của Việt Nam
lần l−ợt là: ĐBSH 24,8%, Đông Bắc
1,5%, Tây Bắc: 0,3%, Bắc Trung bộ
9,9%, duyên hải Nam Trung bộ 11,8%,
Tây Nguyên 0,4%, Đông Nam bộ 60,9%,
ĐBSCL 4,4% (xem thêm: 5). 11 tháng
đầu năm 2010, tỉ trọng này là: ĐBSH
8,31%, Đông Bắc 19,52%, Tây Bắc
0,01%, Bắc Trung bộ 10,89%, duyên hải
Nam Trung bộ 6,03%, Tây Nguyên
0,65%, Đông Nam bộ 42%, ĐBSCL
12,56% (xem thêm: 5). Nh− vậy,
năm 2010 hai cực tăng tr−ởng kinh
tế của Việt Nam (ĐBSH + Đông Bắc
và Đông Nam bộ + ĐBSCL) chiếm
tới 82,39% tổng số FDI đăng kí của
cả n−ớc. Con số này tuy thấp hơn
mức 90,6% của năm 2009 nh−ng rõ
ràng Việt Nam không chỉ có hai vựa
lúa mà còn có hai vựa FDI.
2. Những khác biệt cơ bản về hiệu quả thu
hút FDI giữa hai quốc gia
Những khác biệt về quy mô
kinh tế, cơ sở kinh tế, thể chế -
chính sách khiến việc so sánh về hiệu
quả thu hút FDI ở Việt Nam và Trung
Quốc gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, có
thể khẳng định rằng, việc nhận biết
những khác biệt cơ bản trong hiệu quả
thu hút FDI giữa hai quốc gia sẽ là một
sự gợi mở và tham khảo có ý nghĩa đối
với Việt Nam trong việc nhìn nhận lại
vai trò của khối doanh nghiệp FDI, hiệu
quả của các chính sách đã ban hành.
Trên cơ sở đó, có thể có những điều chỉnh
về chính sách cho phù hợp với tình hình
phát triển hiện tại và đặc biệt là tầm
nhìn chiến l−ợc đến năm 2020.
Vốn FDI đóng vai trò quan trọng
trong tổng hình thành vốn ở Việt Nam.
Với t− cách là luồng tiền bên ngoài, vốn
FDI đóng vai trò quan trọng trong sự
tăng tr−ởng kinh tế của Việt Nam trong
bối cảnh đầu t− trong n−ớc (đặc biệt là
của DNNN) ít hiệu quả. Trong hơn 10
năm qua, nguồn FDI luôn chiếm khoảng
20% tổng mức đầu t− toàn xã hội ở Việt
Nam. Năm 2008, con số này là hơn 30%
và đóng góp 15,5% GDP (dẫn theo: 11)
(biểu đồ 3).
Biểu đồ 3. Cơ cấu vốn đầu t− xã hội
của Việt Nam giai đoạn 1996 – 2008 (%)
(14, p.21)
Tác động trực tiếp to lớn của vốn
FDI đối với tăng tr−ởng kinh tế ở Việt
Nam vừa thể hiện những thành công
nhất định trong chính sách thu hút vốn
của Việt Nam, sự hấp dẫn của thị
tr−ờng này, nh−ng ở một khía cạnh
20 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2011
khác điều đó còn phản ánh sự lệ thuộc
của nền kinh tế Việt Nam vào vốn n−ớc
ngoài. Các nguồn tiền đến, và cũng có
thể rút đi khi có rủi ro, để lại cho quốc
gia bản địa những th−ơng tổn. Đó chính
là những gì mà Malaysia, Thailand,
Indonesia, v.v đã trải qua trong
khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997.
Mặc dù, trong số các quốc gia đó, chỉ có
Malaysia là có chung đặc điểm phụ
thuộc vào vốn FDI nh− Việt Nam. Tỉ
trọng FDI của Việt Nam giai đoạn 1991 –
2007 là 5,9%, thậm chí còn cao hơn mức
4,3% của quốc gia đô thị Malaysia (1977 –
1996) và cao hơn rất nhiều so với mức
1,1% của Thailand (1976 – 1995) hay
Indonesia (1977 – 1996) vốn chỉ ở mức
0,9% (xem thêm: 8). Trong giai đoạn hậu
khủng hoảng (2000 – 2006) tỉ trọng này
của Việt Nam trung bình là 4% GDP và
còn cao hơn vào các năm 2007, 2008.
Đóng góp của FDI cho tăng tr−ởng
kinh tế Trung Quốc với vai trò là nguồn
vốn bổ sung trực tiếp không mạnh mẽ/rõ
nét nh− tr−ờng hợp Việt Nam. Trong
suốt giai đoạn 24 năm (1981 – 2004), tỉ
trọng của vốn đầu t− n−ớc ngoài (gồm cả
đầu t− gián tiếp và FDI) luôn chiếm một
tỉ trọng rất nhỏ trong tổng mức đầu t−
tài sản cố định toàn Trung Quốc. Ngay
trong giai đoạn bùng nổ về đầu t− (1994
– 1997), tỉ trọng này cũng chỉ dao động
từ 10 – 12%. Ch−a kể có rất nhiều thời
điểm tỉ trọng này chỉ dao động ở ng−ỡng
3 – 4%. Tới 90% vốn đầu t− vào tài sản
cố định là “nguồn vốn tự thân” của
Trung Quốc.
Một điểm quan trọng cần l−u ý là do
những chính sách đặc thù của Trung
Quốc về lãi suất tín dụng, thu hút đầu
t−, v.v nên một phần trong số vốn FDI
đó không phải là vốn n−ớc ngoài mà là
vốn của ng−ời Trung Quốc (bao gồm cả
những công dân sống ở hai đặc khu
hành chính Hong Kong và Ma Cao).
Mặc dù con số FDI đổ vào Trung Quốc
thật ấn t−ợng khi quốc gia này chiếm
tới 18% dòng vốn FDI toàn cầu, nh−ng
về bản chất 1/3 trong tổng số vốn FDI
này đã “đi đ−ờng vòng” – chúng là
nguồn vốn trong n−ớc, đ−ợc chuyển qua
Hong Kong và tái đầu t− vào trong n−ớc
để h−ởng lợi từ các −u đãi về thuế - và
thêm 1/3 nữa từ ng−ời Trung Quốc di c−
và chỉ đầu t− lại vào Trung Quốc (xem
thêm: 10). Bởi lẽ, trong khi lãi suất huy
động vốn trong n−ớc thấp, đầu t− n−ớc
ngoài lại nhận đ−ợc nhiều −u đãi về mặt
chính sách (nh− chính sách thuế, chính
sách kinh doanh, chính sách cơ sở hạ
tầng, v.v), nên không ít ng−ời Trung
Quốc thoạt tiên “đ−a” tiền ra bên ngoài
rồi sau đó đầu t− trở lại d−ới vỏ bọc công
ty n−ớc ngoài nhằm h−ởng các −u đãi
này. Trong một kết quả nghiên cứu gần
đây (xem: 12), tác giả chỉ ra rằng, đầu
t− tài sản cố định toàn xã hội của Trung
Quốc có tác động rõ rệt đến tăng tr−ởng
kinh tế: tỉ trọng của nó trong GDP mỗi
khi tăng thêm 1% thì khiến cho GDP
thực tế bình quân tăng thêm 0,23%; tỉ
trọng vốn nhà n−ớc tăng thêm 1% có thể
khiến GDP thực tế bình quân tăng thêm
0,22%; vốn t− nhân và FDI đều không
có “tác động trực tiếp” rõ rệt đến tăng
tr−ởng kinh tế. Đầu t− tài sản cố định
của các doanh nghiệp nhà n−ớc vẫn là
động lực tăng tr−ởng chính của đầu t− ở
Trung Quốc.
Doanh nghiệp vốn FDI đóng vai trò
quan trọng trong việc giải quyết việc
làm ở Việt Nam nh−ng không rõ rệt ở
Trung Quốc. Cùng với DNTN, doanh
nghiệp FDI đang tạo ra 2/3 số lao động
trong khu vực doanh nghiệp. Mặc dù tốc
độ tăng tr−ởng lao động của doanh
nghiệp FDI đã suy giảm nh−ng vẫn ở
mức lớn nhất (18,4% năm 2006), cao hơn
Về vai trò của vốn FDI -
21
so với kinh tế ngoài nhà n−ớc (7,7%),
trong khi đó, khả năng tạo việc làm của
DNNN ở Việt Nam yếu kém hơn rất
nhiều (- 9,5% năm 2005 và - 6,8% năm
2006) (xem thêm: 15). Tốc độ tăng tr−ởng
lao động này khiến tỉ trọng lao động của
DNNN giảm từ gần 60% (năm 2000)
xuống còn 28% (năm 2006), tỉ trọng của
doanh nghiệp FDI đã tăng từ 11,53%
(năm 2000) lên 21,52% (năm 2006).
Các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam
có thể khiến thâm hụt th−ơng mại thêm
trầm trọng trong khi doanh nghiệp FDI
ở Trung Quốc góp phần làm tăng thặng
d− th−ơng mại một cách mạnh mẽ. Sự
khác biệt này không đến từ mục tiêu
hành vi của doanh nghiệp mà bắt nguồn
từ sự khác biệt về cơ sở kinh tế và khả
năng quản lí. Các doanh nghiệp FDI làm
tăng mức thặng d− th−ơng mại chung
của Trung Quốc bởi chúng không những
chiếm −u thế về l−ợng (quy mô) xuất
khẩu mà còn có vai trò quan trọng trong
việc xuất khẩu các sản phẩm có giá trị
gia tăng cao (các sản phẩm có hàm l−ợng
công nghệ cao). Khác với ấn Độ và giống
với tr−ờng hợp của Nhật Bản, Hàn Quốc,
chính sách công nghiệp của Trung Quốc
đ−ợc hoạch định theo h−ớng: ban đầu là
chiếm thị phần của các ngành thâm
dụng lao động, sau đó chuyển sang làm
chủ các ngành thâm dụng về kĩ thuật.
Trung Quốc hiện nay không chỉ là c−ờng
quốc xuất khẩu hàng giá rẻ mà đã thực
sự trở thành một n−ớc lớn về sản xuất và
xuất khẩu hàng hóa có hàm l−ợng công
nghệ cao. Trong giai đoạn 1995 – 2005,
doanh nghiệp FDI luôn đóng góp
khoảng hơn 80% vào xuất khẩu sản
phẩm có trình độ công nghệ cao của
Trung Quốc. Doanh nghiệp FDI đóng
vai trò nổi bật trong việc tạo ra thặng
d− cán cân th−ơng mại cho Trung Quốc.
ở Việt Nam, doanh nghiệp FDI vừa
đóng góp tích cực cho tăng tr−ởng xuất
khẩu của Việt Nam nh−ng đồng thời
cũng là nhân tố làm tăng thâm hụt
th−ơng mại. Do công nghiệp phụ trợ của
Việt Nam còn rất kém phát triển nên
tại các ngành sản xuất sản phẩm có giá
trị gia tăng cao, các doanh nghiệp FDI ở
Việt Nam phải nhập khẩu hầu hết linh
phụ kiện. Ngành công nghiệp cơ khí dù
có nhiều nguồn nguyên liệu nh− quặng,
đồng, chì, sắt... nh−ng chỉ có một nhà
máy sản xuất ra thành phẩm từ nguyên
liệu sắt, trên 80% nguyên vật liệu đóng
tàu phụ thuộc vào việc nhập khẩu nh−
gỗ, sắt, cách nhiệt, dây đồng. Ngay cả
lĩnh vực sản xuất hàng đầu là dệt may,
nguyên phụ liệu nhập khẩu cũng chiếm
tỉ lệ không nhỏ dù tới nay tỉ lệ nội địa
hóa trung bình của ngành trên 45%
(xem thêm: 23). Đánh giá về mức độ
phát triển ngành công nghiệp phụ trợ
của Việt Nam, ông Jetsusaburo
Hayashi, Phó chủ tịch Tổ chức Xúc tiến
th−ơng mại Nhật Bản (JETRO) tại
thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, xét về
tỷ lệ nội địa hóa, Việt Nam vẫn đứng
sau một số quốc gia trong khu vực,
trong đó có Thailand. Điều này sẽ ảnh
h−ởng lớn đến khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế Việt Nam.
Ngoài ra, một nguyên nhân làm
tăng chi phí nhập khẩu của các doanh
nghiệp FDI ở Việt Nam là nhằm trốn
thuế và chuyển lợi nhuận về n−ớc bằng
cách nhập khẩu linh phụ kiện, máy móc
thiết bị từ công ty mẹ với giá “trên trời”.
Vì vậy, mặc dù giải quyết đ−ợc một
l−ợng lao động đáng kể và đóng góp cho
tăng tr−ởng xuất khẩu nh−ng về lâu
dài, sự tồn tại của các doanh nghiệp
FDI ở Việt Nam không thúc đẩy sự phát
triển của công nghiệp Việt Nam theo
chiều sâu. Những ích lợi từ doanh
22 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2011
nghiệp FDI phụ thuộc rất nhiều vào mối
liên kết giữa doanh nghiệp FDI và
doanh nghiệp bản địa (xem thêm: 8).
Các rào cản đối với doanh nghiệp t−
nhân trong n−ớc đã hạn chế sự phát
triển của các ngành công nghiệp phụ trợ
- những ngành vốn h−ởng lợi nhiều từ
mối liên kết này. Vì thế, nếu không có
mối liên kết vững chắc và lâu bền với
các nhà sản xuất, cung ứng (linh phụ
kiện) trong n−ớc, thì khi chi phí lao
động tại Việt Nam tăng lên, các doanh
nghiệp FDI sẽ không còn động cơ để ở
lại Việt Nam. Hoặc các doanh nghiệp
này sẽ chuyển sang một hình thức kinh
doanh mới nh− hiện t−ợng chuyển
thành doanh nghiệp phân phối nhập
khẩu gần đây.
Năm 2007, Sony Việt Nam tuyên bố
dừng sản xuất tại Việt Nam. Theo chân
Sony, các tập đoàn lớn của n−ớc ngoài
nh−: Canon, Brother, Sharp hay
Nissan, LG, Samsung giờ đều đã hoặc
đang ráo riết thành lập các công ty
phân phối, nhập khẩu nhằm tiêu thụ
các sản phẩm của họ tại thị tr−ờng Việt
Nam. Tình trạng này đã đ−ợc Bộ Công
th−ơng coi là đáng báo động bởi nhiều
doanh nghiệp FDI thay vì sản xuất tại
Việt Nam lại đang chuyển sang nhập
khẩu và bán lại lấy lời. Năm 2008 khối
FDI nhập khẩu hơn 1 tỷ USD, nh−ng
năm 2009 tăng vọt lên 4 tỷ USD, tức là
chiếm tới 30% kim ngạch nhập khẩu
của Việt Nam (xem thêm: 25).
Nhìn chung, hiệu ứng lan tỏa kĩ
thuật (Technology Spillover Effect) mà
doanh nghiệp FDI ở Việt Nam tạo ra rất
không nổi bật. Sau hàng chục năm thu
hút FDI và đạt đ−ợc những hiệu quả
b−ớc đầu về quy mô vốn, tạo việc làm
v.v, mức độ chuyển giao công nghệ
của doanh nghiệp FDI cho doanh
nghiệp Việt Nam cũng nh− hiệu ứng lan
tỏa kĩ thuật mà các doanh nghiệp này
tạo ra không thực sự rõ nét. Trong cơ
cấu xuất khẩu hàng công nghiệp của
Việt Nam, tỉ trọng của các sản phẩm
công nghiệp thấp và tài nguyên thô vẫn
còn rất lớn. Tỉ trọng này của Việt Nam,
trong khu vực Đông Nam á, chỉ thấp
hơn Indonesia (dẫn theo: 11, tr.222).
Nguyên nhân của tình trạng hiệu
ứng lan tỏa kĩ thuật ở Việt Nam kém
nổi bật là do: thứ nhất, doanh nghiệp
FDI ở Việt Nam chủ yếu tập trung trong
các ngành thâm dụng lao động. Đáng
chú ý, đây phần lớn là những “lao động
phổ thông d−ới chuẩn”, những lao động
không có kĩ năng – những ng−ời nhiều
khả năng sẽ phải nhận mức l−ơng tối
thiểu. Một báo cáo của UNDP (15) cho
thấy để đối phó với áp lực tăng tiền
l−ơng danh nghĩa, hầu hết các công ty
may mặc ở Việt Nam đã hạ thấp tiêu
chuẩn tuyển dụng. Năm 2007, họ đã
nhận cả những công nhân không biết
chữ và mở lớp xóa mù chữ để đảm bảo
các công nhân này đọc đ−ợc bản thông
báo an toàn và các chỉ dẫn cơ bản (dẫn
theo: 11, tr.255). Thứ hai, công nghiệp
phụ trợ của Việt Nam không phát triển.
Thứ ba, chính sách kinh tế thay thế nhập
khẩu (tăng dần tỉ lệ nội địa hóa) không
tạo ra áp lực đổi mới công nghệ cho cả
doanh nghiệp bản địa lẫn doanh nghiệp
FDI. Ngoài ra, nh− những phân tích ở
phần sau, việc các doanh nghiệp FDI
không h−ớng vào lĩnh vực sản xuất có
công nghệ cao mà chuyển h−ớng sang các
ngành siêu lợi nhuận (nh− bất động sản)
cũng là một phần của tình trạng này.
Mặc dù thực thi chính sách “lấy thị
tr−ờng đổi kĩ thuật”, nh−ng ấn t−ợng
trực giác là vốn FDI vào Trung Quốc
cũng chủ yếu tập trung vào các ngành
Về vai trò của vốn FDI -
23
thâm dụng lao động. Mức độ tập trung
của doanh nghiệp FDI vào các ngành
thâm dụng lao động và rất thâm dụng
lao động là 69% (đối với doanh nghiệp
Hong Kong – Đài Loan – Ma Cao) và
58% (với doanh nghiệp FDI khác) (xem
thêm: 13). Lí do doanh nghiệp FDI tập
trung ở các ngành thâm dụng lao động
có thể là do bản thân các doanh nghiệp
này e ngại công nghệ của họ sẽ bị “đánh
cắp”, hoặc cũng có thể là do khả năng
hấp thụ kĩ thuật của các doanh nghiệp
bản địa Trung Quốc có hạn. Doanh
nghiệp FDI có −u thế về khoa học - kĩ
thuật hoặc công nghệ hơn doanh nghiệp
Trung Quốc hay không? Thoạt nhìn, câu
trả lời t−ởng nh− rất đơn giản: Có.
Nh−ng số liệu thống kê cho thấy đối với
533 mặt hàng thuộc phân vị 4 trở lên
trong ngành chế tạo – chế biến (giai
đoạn 1998 – 2003), thì 11,8% số doanh
nghiệp FDI có hiệu suất sản xuất lao
động (labor productivity – LP) thấp hơn
so với doanh nghiệp bản địa (xem thêm:
18). Nếu tính gộp với các mặt hàng chế
tạo – chế biến phân vị 4 với các mặt
hàng nhóm ngành này nh−ng là phân vị
2 thì trong số 37 ngành thuộc nhóm
ngành chế tạo – chế biến có 2 ngành mà
LP của doanh nghiệp FDI thấp hơn so
với doanh nghiệp Trung Quốc. Đó là các
ngành: thời trang và các hàng thành
phẩm khác từ sợi; da, giả da, hàng
thành phẩm làm từ lông vũ, v.v... Nếu
so sánh dựa vào hiệu suất sản xuất toàn
yếu tố/hiệu suất yếu tố tổng hợp (total
factor productivity – TFP), trong giai
đoạn 1998 – 2003, có 14% doanh nghiệp
FDI thuộc các ngành sản xuất hàng chế
tạo – chế biến phân vị 4 trở lên có TFP
thấp hơn so với doanh nghiệp bản địa
(xem thêm: 18). Nếu tính cả các ngành
chế tạo – chế biến phân vị 2 thì doanh
nghiệp FDI trong ngành sản xuất thuốc
lá có TFP thấp hơn so với doanh nghiệp
bản địa. Điều này cho thấy, mặc dù
doanh nghiệp FDI – xét cho cùng – có
trình độ phát triển khoa học kĩ thuật và
hiệu suất sản xuất cao hơn so với doanh
nghiệp bản địa nh−ng đó chỉ là sự v−ợt
trội t−ơng đối.
Để kiểm chứng về giả thiết sự gia
nhập của các nguồn vốn bên ngoài đã
nâng cao c−ờng độ hoạt động R&D của
Trung Quốc, Yundan Gong và Gary H.
Jefferson (năm 2007) đã kiểm nghiệm
về ảnh h−ởng của FDI ở cùng tỉnh,
trong cùng ngành công nghiệp phân vị 3
đối với c−ờng độ R&D. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, các doanh nghiệp FDI
(không bao gồm doanh nghiệp Hồng –
Đài – Ma) quả thực có ảnh h−ởng qua
lại với hoạt động R&D của doanh
nghiệp bản địa, cuối cùng nâng cao
c−ờng độ nghiên cứu. Khi nghiên cứu về
ghi chép của Cục quyền sở hữu trí tuệ
quốc gia Trung Quốc (SIPO) Albert G.
Z. Hu và Gary H. Jefferson (năm 2006)
đã phát hiện ra rằng sự tồn tại của
doanh nghiệp FDI chính là nhân tố
quan trọng quyết định việc các doanh
nghiệp bản địa nộp đơn xin cấp bằng
sáng tạo – sáng chế (xem: 2). Do vậy,
hai tác giả kết luận rằng, doanh nghiệp
FDI trong khu vực công nghiệp là một
lực l−ợng quan trọng thúc đẩy doanh
nghiệp bản địa đăng kí quyền sở hữu trí
tuệ. Tuy doanh nghiệp FDI không thể
hiện vai trò tích cực nh− kì vọng của
quốc gia bản địa trong việc phát triển
khoa học kĩ thuật nh−ng có một bộ phận
doanh nghiệp n−ớc ngoài đã phần nào
thể hiện kì vọng đó ở Trung Quốc – đó
là các doanh nghiệp Mỹ. Năm 2000, Mỹ
có 458 công ty con ở Trung Quốc, trong
đó có những tên tuổi nổi tiếng nh−
Motorola, IBM, Intel, Microsoft, Ford,
General Motor. Trong giai đoạn 1997 –
24 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2011
2000, tỉ trọng giữa chi tiêu cho R&D
trong tổng giá trị gia tăng của các
doanh nghiệp Mỹ đã tăng từ 1,1% lên
9,2% - cao hơn rất nhiều so với con số
trung bình 3,3% của các công ty con của
Mỹ ở n−ớc ngoài (dẫn theo: 2).
Doanh nghiệp FDI ở Việt Nam ngày
càng đầu t− nhiều vào lĩnh vực dịch vụ
(bất động sản) và rời bỏ nhóm ngành
công nghiệp. Phân bổ vốn FDI theo
ngành ở Việt Nam thay đổi theo thời
gian. Xây dựng là ngành quan trọng
nhất vào giai đoạn đầu với đỉnh cao vào
năm 1996. Các ngành nh− hóa chất, vật
liệu xây dựng và thiết bị điện có tỉ trọng
vốn FDI tăng dần thời gian gần đây.
Gần 100% các doanh nghiệp trong
ngành khai thác dầu của Việt Nam là
doanh nghiệp FDI, con số này trong các
ngành lắp ráp ô-tô là 84%, điện tử 45%,
dệt may 41%, hóa chất 38%, thép 32%,
xi-măng, cao su, nhựa, l−ơng thực và đồ
uống 25 – 30% (xem: 20). Nh−ng mấy
năm trở lại đây, dịch vụ và bất động sản
trở thành ngành nhận đ−ợc nhiều vốn
FDI nhất. Năm 2007, tỉ trọng vốn đăng
kí vào các dự án thuộc lĩnh vực này đạt
45,8%, cao gấp đôi so với mức 22% trong
giai đoạn 20 năm tr−ớc (xem thêm: 11,
tr.235).
Song song với xu h−ớng này, từ năm
2010, vốn FDI đổ vào lĩnh vực công
nghiệp (chủ yếu là công nghiệp gia công
và chế biến) đã có dấu hiệu chững lại –
điều đã đ−ợc nhìn thấy từ vài năm tr−ớc
đó (2006 – 2007). Có thể sự chuyển ra
khỏi công nghiệp chế tác của vốn FDI
không hoàn toàn do nhu cầu thị tr−ờng,
mà còn do những tác động của chính
sách phát triển ngành công nghiệp của
Việt Nam – các ngành công nghiệp thay
thế nhập khẩu đ−ợc −u tiên thu hút vốn
FDI hơn các ngành h−ớng ra xuất khẩu
(dẫn theo: 26, tr.14). Về lâu dài, nếu
không cải thiện đ−ợc việc vốn FDI “tháo
chạy” khỏi khu vực công nghiệp, nền
kinh tế Việt Nam vốn ở trong tình trạng
thiểu năng về sản xuất, sẽ càng lún sâu
vào “căn bệnh Hà Lan” – các ngành
công nghiệp cơ bản không phát triển,
nền kinh tế không có các ngành sản
xuất x−ơng sống.
Trong phân bố ngành, kể từ năm
1992, Trung Quốc bắt đầu mở cửa thị
tr−ờng trong n−ớc một cách có chọn lựa
cho nhà đầu t− n−ớc ngoài. Trong các
ngành dịch vụ ở Trung Quốc, bất động
sản là ngành thu hút đ−ợc nhiều FDI
nhất (trong bối cảnh Chính phủ vẫn
ch−a sẵn sàng mở cửa khu vực tài chính
– tiền tệ). Nh−ng khác với Việt Nam,
vốn FDI vào Trung Quốc đến nay chủ
yếu vẫn tập trung vào công nghiệp chế
tạo – chế biến. Trong tổng vốn đầu t−
FDI năm 2004 thì khu vực công nghiệp
chiếm khoảng 75%, nông nghiệp chỉ
chiếm 1,8%, các ngành sự nghiệp công
cộng chiếm 1,8%, các ngành dịch vụ
chiếm khoảng 23% (xem: 19). Kể từ
năm 1996, FDI đổ vào lĩnh vực chế tạo
luôn chiếm trên 54% tổng mức FDI.
Trong thời gian 1996 – 2007, ngành chế
tạo tổng cộng đã chiếm 63,52% tổng vốn
FDI. Năm 1996, FDI đổ vào công nghiệp
chế tạo chiếm 67,39%, liền đó trải qua 3
năm sụt giảm, năm 1999 là năm tỉ lệ
này ở vào mức thấp nhất (56,6%); từ
2002 – 2004 tỉ trọng này lại tăng lên,
năm 2004 đạt mức cao nhất (70,95%).
Kể từ năm 2006, tỉ trọng FDI đổ vào các
ngành chế tạo bắt đầu giảm sút mạnh
do những nới lỏng quản lí của Chính
phủ Trung Quốc đối với các ngành tài
chính – ngân hàng – tiền tệ - bảo hiểm
v.v Năm 2007, lĩnh vực ngân hàng
Trung Quốc bắt đầu mở cửa, đánh dấu
cột mốc mới trong tiến trình tự do hóa
Về vai trò của vốn FDI -
25
th−ơng mại của quốc gia này. Mặc dù
vậy, trong 15 ngành thu hút nhiều FDI
nhất của Trung Quốc năm 2009, có 9767
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
chế tạo – chế biến, với tổng vốn đầu t−
46,77 tỉ USD (trên tổng số 55,58 tỉ USD
của nhóm ngành công nghiệp).
III. Những kết luận chủ yếu
Những kết luận chủ yếu từ nghiên
cứu này, bao gồm:
1. Sự tập trung của doanh nghiệp
FDI trong các ngành thâm dụng lao
động khiến hiệu ứng lan tỏa kĩ thuật
của các doanh nghiệp này ở Việt Nam
rất yếu kém.
2. Sự tập trung của doanh nghiệp
FDI trong các ngành thâm dụng lao
động làm chậm quá trình nâng cao tiền
l−ơng cho công nhân viên Việt Nam. Bởi
lẽ, “giá trị gia tăng” từ lao động chân
tay (lao động giản đơn) luôn đặt ng−ời
lao động vào tình thế bất lợi trong việc
đòi hỏi đ−ợc h−ởng mức phân chia cao
hơn từ lợi nhuận doanh nghiệp.
3. Sự tập trung của doanh nghiệp
FDI trong các ngành thâm dụng lao động
khó lòng hỗ trợ công nghiệp Việt Nam
phát triển theo chiều sâu và hiện đại.
4. Việc doanh nghiệp FDI chuyển
từ khu vực công nghiệp sang bất động
sản và dịch vụ l−u trú cần phải đ−ợc coi
là một dạng đầu t− rủi ro đòi hỏi có
kiểm soát chặt chẽ.
5. Sự yếu kém của các ngành công
nghiệp phụ trợ làm suy yếu sức hấp dẫn
của Việt Nam trong mắt các nhà đầu t−
n−ớc ngoài đồng thời làm giảm thiểu
ngay chính tác động tích cực của doanh
nghiệp FDI trong việc truyền bá/chuyển
giao công nghệ.
6. Hoạt động đầu t− của Việt Nam
đang phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn
bên ngoài (cả trực tiếp và gián tiếp).
Trên thực tế, không có quốc gia nào
phát triển ổn định lại không dựa vào
việc phát triển đội ngũ doanh nghiệp
bản địa hùng hậu. Tr−ờng hợp của Nhật
Bản, Hàn Quốc giai đoạn cất cánh,
tr−ờng hợp của Trung Quốc hiện nay
đều là minh chứng sống động cho việc
chính phủ kết hợp với doanh nghiệp bản
địa để hình thành nên các “quả đấm
thép” – một thuật ngữ −a thích của các
nhà hoạch định chính sách Việt Nam.
TàI LIệU THAM KHảO
1. Barry Naughton. The Chinese
Economy: Transitions and Growth.
Cambridge, Mass: MIT Press, 2007.
2. Brandt L., Thomas G. Rawski (chủ
biên). Công cuộc chuyển đổi kinh tế
vĩ đại của Trung Quốc (tiếng
Trung). Cách Trí, Nhân dân Th−ợng
Hải, 2009.
3. C. Coughlin, E. Segev. Foreign
Direct Investment in China: A
Spatial Econometric Study. World
Economy, 21(1): 1 – 23, 2000.
4. Công báo thống kê phát triển kinh
tế - xã hội n−ớc CHND Trung Hoa
năm 2009 (tiếng Trung).
gb/qgRMBjgb
5. Cục Đầu t− n−ớc ngoài. Báo cáo
nhanh đầu t− trực tiếp n−ớc ngoài
11 tháng năm 2010. Số liệu
download từ trang web Thời báo
Kinh tế Việt Nam,
2010
6. David Dollar, Ngụy Th−ợng Tiến.
Nguồn vốn ch−a đ−ợc tận dụng triệt
để. Tạp chí Tiền tệ và Phát triển -
IMF, số tháng 6/2007.
7. D− Diểu Kiệt. 30 năm ngoại th−ơng
Trung Quốc: 1978 – 2008. Tập
26 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2011
nghiên cứu chuyên đề của Trung
tâm Nghiên cứu Kinh tế Trung
Quốc, 2008.
8. Harvard University (John F.
Kennedy School of Government) -
Ch−ơng trình châu á. Nguyên nhân
sâu xa về mặt cơ cấu của bất ổn vĩ
mô. Ch−ơng trình giảng dạy kinh tế
Fulbright, 2008.
9. Investment Surges. Chinese
Oversea Investment Surges by 32 pc
in 2006. www.china-
embassy.org/eng/xw/t289449.htm,
2007.
10. James Riedel. Nghiên cứu mới về
tăng tr−ởng kinh tế Trung Quốc: Đầu
t−, tạo vốn và cải cách. Trung Quốc:
Đại học Bắc Kinh, 2007.
11. Nguyễn Đức Thành (Chủ biên). Kinh
tế Việt Nam 2008 – Suy giảm và
thách thức đổi mới. H.: Tri Thức,
2009.
12. Phạm Sỹ Thành. Nghiên cứu diễn
tiến về cải cách doanh nghiệp nhà
n−ớc của Trung Quốc (tiếng Trung),
Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Nam
Khai, Thiên Tân (Trung Quốc), 2008.
13. Thẩm Quế Long. Nghiên cứu hiệu
quả FDI ở Trung Quốc – khảo sát biện
chứng đối với tăng tr−ởng kinh tế.
Trung Quốc: Tập đoàn xuất bản Thế
Kỉ Th−ợng Hải, 2007.
14. United Nations. Investment Policy
Review – Viet nam. New York: 2008.
15. UNDP. Báo cáo đánh giá hai năm thi
hành Luật Doanh nghiệp và Luật
Đầu t−, 2008.
16. UNDP. Chính sách công nghiệp của
Việt Nam – Thiết kế chính sách để
phát triển bền vững, 2010.
17. Vũ Thành Tự Anh. Top 500 doanh
nghiệp Việt - Múc tài nguyên thô +
đặc quyền dễ ngồi chiếu trên.
364cat44
18. V−ơng Linh, Đồ Cần. Nghiên cứu về
tính điều kiện của hiệu ứng lan tỏa
hiệu suất sản xuất từ doanh nghiệp
vốn đầu t− n−ớc ngoài trong ngành
chế tạo – chế biến của Trung Quốc.
Tạp chí Kinh tế học, số 1 quyển 7,
2007.
19. World Bank. Nghiên cứu về viễn cảnh
và chiến l−ợc tận dụng vốn FDI của
Trung Quốc (tiếng Trung). Báo cáo
nghiên cứu th−ờng niên, số 39008,
2004.
20. World Bank. Kinh doanh – Báo cáo
phát triển Việt Nam 2006.
21. Biểu đồ xuất khẩu khối doanh nghiệp
FDI. Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày
8/9/2010, số 215, trang 1.
22. Bốn công ty dầu khí chung vốn kinh
doanh khách sạn.
7498cat44/
23.
CA0/ti-le-noi-dia-hoa-qua-thap.chn
24.
r/baivietkinhtedautu/repository/coll
aboration/sites%20content/live/vir/
web%20contents/chude/kinhtedautu
/cohoidautu/9abb37517f000001000a
40acac4f538f
25.
436009020/Bung_no_nha_nhap_khau
_phan_phoi_Bao_dong.html và vtv.vn
26. Đổi dòng nguồn vốn FDI. Báo Đầu
t−, số 103, ngày 27/8/2010, trang 14.
Các file đính kèm theo tài liệu này: