Những kết luận chủ yếu từ nghiên
cứu này, bao gồm:
1. Sự tập trung của doanh nghiệp
FDI trong các ngành thâm dụng lao
động khiến hiệu ứng lan tỏa kĩ thuật
của các doanh nghiệp này ở Việt Nam
rất yếu kém.
2. Sự tập trung của doanh nghiệp
FDI trong các ngành thâm dụng lao
động làm chậm quá trình nâng cao tiền
lương cho công nhân viên Việt Nam. Bởi
lẽ, “giá trị gia tăng” từ lao động chân
tay (lao động giản đơn) luôn đặt người
lao động vào tình thế bất lợi trong việc
đòi hỏi được hưởng mức phân chia cao
hơn từ lợi nhuận doanh nghiệp.
3. Sự tập trung của doanh nghiệp
FDI trong các ngành thâm dụng lao động
khó lòng hỗ trợ công nghiệp Việt Nam
phát triển theo chiều sâu và hiện đại.
4. Việc doanh nghiệp FDI chuyển
từ khu vực công nghiệp sang bất động
sản và dịch vụ lưu trú cần phải được coi
là một dạng đầu tư rủi ro đòi hỏi có
kiểm soát chặt chẽ.
5. Sự yếu kém của các ngành công
nghiệp phụ trợ làm suy yếu sức hấp dẫn
của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư
nước ngoài đồng thời làm giảm thiểu
ngay chính tác động tích cực của doanh
nghiệp FDI trong việc truyền bá/chuyển
giao công nghệ.
6. Hoạt động đầu tư của Việt Nam
đang phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn
bên ngoài (cả trực tiếp và gián tiếp).
Trên thực tế, không có quốc gia nào
phát triển ổn định lại không dựa vào
việc phát triển đội ngũ doanh nghiệp
bản địa hùng hậu. Trường hợp của Nhật
Bản, Hàn Quốc giai đoạn cất cánh,
trường hợp của Trung Quốc hiện nay
đều là minh chứng sống động cho việc
chính phủ kết hợp với doanh nghiệp bản
địa để hình thành nên các “quả đấm
thép” – một thuật ngữ ưa thích của các
nhà hoạch định chính sách Việt Nam.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
12 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 626 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Về vai trò của vốn FDI - Nghiên cứu so sánh trường hợp Việt Nam và Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Về VAI TRò CủA VốN FDI – NGHIÊN CứU SO SáNH TRƯờNG HợP 
VIệT NAM Và TRUNG QUốC 
Phạm Sĩ Thành (*) 
Vốn đầu t− trực tiếp n−ớc ngoài (FDI) có vai trò quan trọng đối với sự 
phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia bản địa (quốc gia tiếp nhận). 
Tuy nhiên, tùy theo từng điều kiện của mỗi quốc gia, các mong mỏi này 
có thể sẽ thành hiện thực, sẽ đ−ợc đáp ứng một phần, hoặc có thể sẽ chỉ 
là một giấc mơ đẹp. Đ−ợc đánh giá là hai quốc gia có sự bùng nổ về thu 
hút FDI nh−ng rõ ràng khi so sánh về vai trò (đóng góp) của nguồn vốn 
FDI đối với sự phát triển kinh tế của hai quốc gia Việt Nam và Trung 
Quốc, có thể nhận thấy rất nhiều điểm khác biệt. Nguyên do của những 
khác biệt này đôi khi không phải do điều kiện khách quan mà bắt nguồn 
từ sự khác biệt trong khi hoạch định chính sách và khả năng thực hiện 
các chính sách đó ở mỗi n−ớc. 
I. Tổng quan về FDI ở Việt Nam và Trung Quốc 
Một thay đổi quan trọng trong t− 
duy kinh tế của Việt Nam là ban hành 
Luật Đầu t− N−ớc ngoài (năm 1986). 
Đến năm 2005, luật này đ−ợc đổi tên 
thành Luật Đầu t− năm 2005 (có hiệu 
lực từ 1/7/2006) để thay thế cho Luật 
Đầu t− n−ớc ngoài tại Việt Nam (ban 
hành năm 1996) và bổ sung, sửa đổi một 
số điều của Luật Đầu t− n−ớc ngoài tại 
Việt Nam năm 2000. Điều đó đánh dấu 
nỗ lực của Việt Nam trong việc hoàn 
thiện khung pháp lí cho các hoạt động 
đầu t− n−ớc ngoài. Theo số liệu của 
Tổng cục Thống kê, số FDI tích tụ tăng 
từ 140 triệu USD với 28 dự án (năm 
1988) lên 5,5 tỉ USD với hơn 700 dự án 
(năm 1993) và 60 tỉ USD với tổng số dự 
án là 6164 (năm 2004) (xem: 20). Trong 
giai đoạn bùng nổ FDI 1994 – 1997, tỉ 
trọng FDI/GDP của Việt Nam là khoảng 
10%, giúp Việt Nam trở thành quốc gia 
dẫn đầu về nhận FDI trong số các quốc 
gia đang phát triển. Khi khủng hoảng 
tài chính – tiền tệ châu á nổ ra năm 
1997, tỉ trọng này đã sụt giảm mạnh, và 
đến năm 2005 mới trở lại mức 10% nh− 
tr−ớc (xem: 20). Điều đáng ngạc nhiên 
là cuộc khủng hoảng tồi tệ năm 2008 
khiến tăng tr−ởng xuất khẩu của Việt 
Nam giảm sút nh−ng l−ợng vốn FDI 
giải ngân thực tế trong năm 2009 và 11 
tháng đầu năm 2010 vẫn duy trì đ−ợc 
đà tăng. ∗11 tháng đầu năm 2010, tổng 
số vốn đăng kí FDI vào Việt Nam là 
13,304 tỉ USD, trong đó số vốn FDI đã 
giải ngân là 9,95 tỉ USD, tăng nhẹ so 
với 11 tháng của năm 2009 (9,05 tỉ 
USD) (theo: 5). 
(∗) TS., Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại 
học quốc gia Hà Nội. 
16 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2011 
Đối với Trung Quốc, trong toàn bộ 
thập niên 1980, quy mô FDI nhận đ−ợc 
rất nhỏ, tốc độ tăng cũng chậm chạp. 
Năm 1991, số vốn FDI theo đăng kí đạt 
mức cao nhất trong một thập kỉ (11,977 
tỉ USD) nh−ng số FDI thực tế chỉ có 
4,366 tỉ USD. Tuy nhiên, kể từ năm 
1992, tăng tr−ởng FDI đã b−ớc sang một 
chu kì mới, Trung Quốc trở thành quốc 
gia đang phát triển nhận FDI lớn nhất 
thế giới (năm 2009, vốn FDI thực tế 
nhận đ−ợc đạt 90 tỉ USD) (dẫn theo: 4). 
Tính đến cuối năm 2007, l−ợng FDI tích 
tụ của Trung Quốc đã đạt 760 tỉ USD. 
Trong giai đoạn 2004 – 2006, trung bình 
mỗi năm Trung Quốc nhận đ−ợc 70 tỉ 
USD (xem: 9). Tr−ớc năm 1990, tỉ trọng 
FDI/GDP của Trung Quốc chỉ ch−a đầy 
1%, sau đó tăng với tốc độ chậm chạp 
0,1% mỗi năm, đến năm 1991 mới đạt 
ng−ỡng 1% GDP. Từ năm 1991 – 1994, 
con số này có sự tăng tr−ởng mạnh mẽ 
và đạt đến đỉnh 6,04% (năm 1994). So 
với các quốc gia Đông á khác nh− Nhật 
Bản và Hàn Quốc, Trung Quốc t−ơng 
đối mở cửa cho đầu t− trực tiếp n−ớc 
ngoài. Bởi lẽ, trong thời kì tăng tr−ởng 
nhanh nhất, tỉ trọng FDI/GDP của hai 
n−ớc Nhật Bản, Hàn Quốc cũng ch−a 
đầy 1% (xem: 1). 
II. Vai trò của vốn FDI đối với sự phát triển kinh tế 
của Việt Nam và Trung Quốc 
1. Những điểm t−ơng đồng về vai trò 
của vốn FDI đối với sự phát triển kinh tế 
ở Việt Nam và Trung Quốc 
Đóng góp mạnh mẽ cho tăng tr−ởng 
sản xuất và xuất khẩu. Điểm t−ơng 
đồng rõ nét nhất về đóng góp của doanh 
nghiệp FDI cho sự tăng tr−ởng kinh tế 
của Việt Nam và Trung Quốc là việc 
khu vực doanh nghiệp này đã tạo ra lực 
kéo về tăng tr−ởng sản xuất. Đồng thời, 
d−ới tác động định h−ớng chính sách 
của chính phủ (đặc biệt là ở Trung 
Quốc), chúng cũng trở thành đội ngũ 
xuất khẩu chủ lực của cả hai quốc gia. 
Tr−ớc và sau khủng hoảng 1997, doanh 
nghiệp FDI luôn duy trì đ−ợc mức tăng 
tr−ởng sản xuất cao hơn rất nhiều so với 
các doanh nghiệp bản địa của Việt Nam, 
tỉ lệ tăng tr−ởng này luôn ở mức trên 
10%, cá biệt có những năm đạt 35% 
(năm 1999). Giai đoạn 2000 – 
2003 là giai đoạn sụt giảm tăng 
tr−ởng sản xuất (trung bình 
14%/năm) nh−ng từ 2003 đã có 
dấu hiệu hồi phục. Điều đó đã 
tạo đà hoàn hảo cho những cú 
bật về xuất khẩu của doanh 
nghiệp FDI (biểu đồ 1). 
Tăng tr−ởng xuất khẩu của 
doanh nghiệp FDI cao hơn so 
với doanh nghiệp nhà n−ớc 
(DNNN) của Việt Nam, đồng 
thời tỉ trọng xuất khẩu của các 
doanh nghiệp này trong tổng 
giá trị xuất khẩu của Việt Nam cũng 
tăng mạnh (từ gần 30% năm 1995 lên 
khoảng 60% năm 2007). Năm 2009 tỉ 
trọng này đạt 42,3%, 7 tháng đầu năm 
2010 là 46,2% (theo: 21, tr.1). 
Tại Trung Quốc, vai trò của các 
doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực xuất 
Về vai trò của vốn FDI - 
17 
khẩu thậm chí còn nổi bật hơn so với 
Việt Nam (biểu đồ 2). 
Nguồn: Niên giám Thống kê Trung 
Quốc (năm 2007) và Công báo thống kê phát 
triển kinh tế và xã hội n−ớc CHND Trung 
Hoa (các năm). 
So với doanh nghiệp bản địa, các 
doanh nghiệp FDI cho thấy rõ khuynh 
h−ớng xuất khẩu nh−ng 2/3 l−ợng hàng 
hóa tiêu thụ của các doanh nghiệp này 
vẫn h−ớng vào thị tr−ờng Trung Quốc. 
Các doanh nghiệp FDI đảm nhiệm gần 
nh− trọn vẹn hoạt động xuất khẩu mặt 
hàng điện tử và dụng cụ đo đạc, đo 
l−ờng của Trung Quốc khi tỉ trọng xuất 
khẩu của chúng trong tổng xuất khẩu 
của ngành lên tới 91,12% và 93,83% 
(xem: 2). Bên cạnh đó, vai trò của doanh 
nghiệp FDI cho xuất khẩu của Trung 
Quốc còn quan trọng ở chỗ các doanh 
nghiệp này góp phần biến hàng hóa 
“Made in China” thành một th−ơng hiệu 
toàn cầu. Mô hình “Quảng Đông là nhà 
x−ởng – Hong Kong là cửa hàng” giúp 
các doanh nghiệp bản địa tháo gỡ khó 
khăn về marketing. 
DNNN - “Hoàng tử đỏ”; Doanh 
nghiệp FDI – “trải thảm đỏ”; Doanh 
nghiệp t− nhân trong n−ớc – “con đỏ”: 
Phân biệt đối xử giữa các loại hình 
doanh nghiệp rất rõ nét. ở Trung Quốc, 
doanh nghiệp t− nhân (DNTN) không 
chỉ “lép vế” hơn DNNN trong việc tiếp 
cận các khoản tín dụng (xem: 2), mà còn 
bị thiệt thòi 
trong lĩnh vực 
đầu t− kinh 
doanh. Có rất 
nhiều lĩnh vực 
kinh doanh 
mở cửa cho 
doanh nghiệp 
FDI và DNNN 
nh−ng lại hạn 
chế hoặc 
không cho 
phép DNTN đ−ợc tham gia (xem thêm: 
12). Nghiên cứu gần đây của Dollar và 
Ngụy Th−ợng Tiến cho thấy ở Trung 
Quốc mặc dù tỉ trọng của DNNN trong 
sản xuất liên tục giảm sút (từ 70% năm 
1985 xuống còn 53% năm 1997 và năm 
2007 chỉ còn khoảng 40%) nh−ng tổng 
mức vay tín dụng của các DNNN vẫn 
chiếm hơn 50% tổng mức d− nợ tín dụng 
của các ngân hàng th−ơng mại nhà n−ớc 
(xem: 6). 
Tại Việt Nam, truyền thống −u đãi 
tín dụng cho DNNN đã thay đổi trong 
một thập niên qua với tỉ trọng cho khu 
vực ngoài nhà n−ớc vay tín dụng tăng từ 
37% (năm 1994) lên gần 70% (năm 
2006) (xem: 16). ấn t−ợng hơn, tỉ trọng 
tín dụng từ ngân hàng th−ơng mại nhà 
n−ớc dành cho DNNN gần nh− chỉ còn 
1/2 trong 10 năm (55,8% năm 1994 
xuống còn 28,6% năm 2005) (xem: 16). 
Tuy nhiên, cho vay theo chỉ đạo đã làm 
tăng tỉ lệ các khoản nợ khó đòi (20 – 
30% so với số liệu chính thức 5 – 7%), 
nhờ vào việc DNNN liên tục đ−ợc giãn 
nợ cho các khoản vay không (thể) hoàn 
trả. Điều đáng báo động là tính bất cân 
xứng giữa những −u đãi chính sách của 
Chính phủ với hiệu quả hoạt động của 
DNNN. Đóng góp của DNNN ở Việt 
18 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2011 
Nam cho tăng tr−ởng sản xuất đã suy 
giảm một cách chóng vánh (từ mức hơn 
40% năm 1996 xuống còn ch−a đầy 10% 
năm 2008) (xem: 16). Nguyên nhân của 
tình trạng trên không chỉ là do hiệu quả 
kinh doanh của nhiều tập đoàn kinh tế 
nhà n−ớc, các tổng công ty nhà n−ớc ở 
Việt Nam th−ờng yếu kém, mà còn do 
các tập đoàn và tổng công ty này bị cuốn 
vào cơn lốc bành tr−ớng lĩnh vực kinh 
doanh. Hoạt động đầu t− và kinh doanh 
trong các ngành phụ đôi khi đ−ợc coi 
trọng hơn trong lĩnh vực nghiệp vụ chủ 
đạo. Tr−ờng hợp Tập đoàn Công nghiệp 
Tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) là một 
thí dụ điển hình (xem: 8). Nhiều tập 
đoàn nhà n−ớc lớn của Việt Nam nh− 
Petro Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt 
Nam (EVN), Vinatex, Vinacomin đã mở 
ngân hàng, công ty tài chính, công ty 
chứng khoán, công ty thuê mua và công 
ty bảo hiểm. Những thói quen cũ là rất 
khó rũ bỏ. 
Phân bố FDI theo khu vực địa lí làm 
tăng mất cân bằng phát triển kinh tế 
vùng. Vốn FDI vừa đem lại nhiều ích lợi 
cho nền kinh tế của hai quốc gia Việt 
Nam, Trung Quốc, nh−ng đồng thời 
cũng khiến tình trạng phát triển mất 
cân đối giữa các vùng miền ngày càng 
trầm trọng. Những địa ph−ơng thu hút 
đ−ợc nhiều vốn FDI đã bỏ xa các địa 
ph−ơng khác về mức độ phát triển kinh 
tế, trình độ công nghệ, mức sống, điều 
kiện và cơ hội việc làm, v.v Về lâu dài, 
những chênh lệch này có thể trở thành 
những đứt gãy nguy hiểm, dẫn đến việc 
loại bỏ hoàn toàn khả năng hội nhập 
của các địa ph−ơng có mức phát triển 
thấp vào các khu vực có trình độ phát 
triển cao. 
Tại Trung Quốc, trong khi khu vực 
duyên hải phía Đông là nơi có mật độ 
FDI rất cao thì miền Tây và vùng nội 
địa gần nh− “đói” vốn. Thực tế này một 
mặt phản ánh −u thế nổi trội của khu 
vực duyên hải miền Đông so với các 
vùng còn lại (về vị trí địa lí, kết cấu thị 
tr−ờng, quy mô dân số, trình độ phát 
triển kinh tế, v.v). Trong 11 năm 
(1993 – 2003) tỉ lệ FDI/GDP bình quân 
của Quảng Đông là 13%, của Phúc Kiến 
là 11%. Các tỉnh thành ven biển khác – 
những nơi có mật độ vốn FDI rất cao – 
chỉ thấp hơn hai tỉnh này một chút: của 
Th−ợng Hải là 9%, Giang Tô và Bắc 
Kinh là 7% (xem: 7). So với khu vực 
duyên hải phía Đông, các tỉnh miền Tây 
và Đông Bắc chỉ thu hút đ−ợc l−ợng FDI 
khiêm tốn. Điều thực sự đáng quan ngại 
là sự chênh lệch về năng lực thu hút 
FDI giữa các tỉnh thu hút ít với các tỉnh 
thu hút nhiều ngày càng lớn chứ không 
phải mức FDI đã thu hút đ−ợc. Trong 
thời gian 1979 – 1985, FDI của các tỉnh 
miền Đông chiếm 64,1% tổng mức của 
cả Trung Quốc, các tỉnh miền Tây và 
vùng nội địa chiếm 35,9%. Từ năm 1985 
– 1990, con số này lần l−ợt là 73,8% và 
26,2%. Kể từ sau những năm 1990, tỉ lệ 
của khu vực miền Đông đã lên tới trên 
84,6% (xem: 7). Mặc dù kể từ những 
năm 1990, “khai thác – phát triển miền 
Tây” đã trở thành ch−ơng trình trọng 
điểm quốc gia của Trung Quốc, chính 
phủ cũng ban hành nhiều chính sách −u 
đãi về đầu t− nhằm thu hút FDI đổ về 
các tỉnh miền Tây nh−ng hiệu quả 
không thực sự là bao. Bởi lẽ, một mặt 
tác dụng của cơ chế khích lệ đối với vốn 
FDI rất hạn chế, mặt khác, sự cạnh 
tranh quyết liệt giữa các tỉnh miền 
Đông càng làm cho tác dụng của các 
chính sách khích lệ trên trở nên mờ 
nhạt (xem thêm: 3). Một nguyên do tạo 
nên sự chênh lệch ngày càng lớn này là 
tác động của kết cấu quốc gia/khu vực 
đầu t−. Theo đó, Hong Kong, Đài Loan – 
Về vai trò của vốn FDI - 
19 
0%
20%
40%
60%
80%
100%
N
ă
m
19
96
N
ă
m
19
97
N
ă
m
19
98
N
ă
m
19
99
N
ă
m
20
00
N
ă
m
20
01
N
ă
m
20
02
N
ă
m
20
03
N
ă
m
20
04
N
ă
m
20
05
N
ă
m
20
06
N
ă
m
20
07
N
ă
m
20
08
Nhà nước Tư nhõn FDI
hai khu vực có đóng góp FDI rất cao cho 
Trung Quốc – đều nằm sát với các tỉnh 
miền Đông. 
ở Việt Nam, sự mất cân đối về phân 
bố FDI cũng chịu tác động rõ rệt của 
điều kiện địa lí và đặc điểm phát triển 
kinh tế - xã hội của địa ph−ơng. Nhìn 
chung, đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), 
Đông Bắc (với các cảng biển quan trọng 
ở Quảng Ninh và Hải Phòng), đồng 
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và Đông 
Nam Bộ là những khu vực nhận đ−ợc 
vốn FDI với tỉ trọng nổi bật hơn cả. 
Năm 2009, tỉ trọng thu hút vốn FDI 
đăng kí phân theo vùng của Việt Nam 
lần l−ợt là: ĐBSH 24,8%, Đông Bắc 
1,5%, Tây Bắc: 0,3%, Bắc Trung bộ 
9,9%, duyên hải Nam Trung bộ 11,8%, 
Tây Nguyên 0,4%, Đông Nam bộ 60,9%, 
ĐBSCL 4,4% (xem thêm: 5). 11 tháng 
đầu năm 2010, tỉ trọng này là: ĐBSH 
8,31%, Đông Bắc 19,52%, Tây Bắc 
0,01%, Bắc Trung bộ 10,89%, duyên hải 
Nam Trung bộ 6,03%, Tây Nguyên 
0,65%, Đông Nam bộ 42%, ĐBSCL 
12,56% (xem thêm: 5). Nh− vậy, 
năm 2010 hai cực tăng tr−ởng kinh 
tế của Việt Nam (ĐBSH + Đông Bắc 
và Đông Nam bộ + ĐBSCL) chiếm 
tới 82,39% tổng số FDI đăng kí của 
cả n−ớc. Con số này tuy thấp hơn 
mức 90,6% của năm 2009 nh−ng rõ 
ràng Việt Nam không chỉ có hai vựa 
lúa mà còn có hai vựa FDI. 
2. Những khác biệt cơ bản về hiệu quả thu 
hút FDI giữa hai quốc gia 
Những khác biệt về quy mô 
kinh tế, cơ sở kinh tế, thể chế - 
chính sách khiến việc so sánh về hiệu 
quả thu hút FDI ở Việt Nam và Trung 
Quốc gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, có 
thể khẳng định rằng, việc nhận biết 
những khác biệt cơ bản trong hiệu quả 
thu hút FDI giữa hai quốc gia sẽ là một 
sự gợi mở và tham khảo có ý nghĩa đối 
với Việt Nam trong việc nhìn nhận lại 
vai trò của khối doanh nghiệp FDI, hiệu 
quả của các chính sách đã ban hành. 
Trên cơ sở đó, có thể có những điều chỉnh 
về chính sách cho phù hợp với tình hình 
phát triển hiện tại và đặc biệt là tầm 
nhìn chiến l−ợc đến năm 2020. 
Vốn FDI đóng vai trò quan trọng 
trong tổng hình thành vốn ở Việt Nam. 
Với t− cách là luồng tiền bên ngoài, vốn 
FDI đóng vai trò quan trọng trong sự 
tăng tr−ởng kinh tế của Việt Nam trong 
bối cảnh đầu t− trong n−ớc (đặc biệt là 
của DNNN) ít hiệu quả. Trong hơn 10 
năm qua, nguồn FDI luôn chiếm khoảng 
20% tổng mức đầu t− toàn xã hội ở Việt 
Nam. Năm 2008, con số này là hơn 30% 
và đóng góp 15,5% GDP (dẫn theo: 11) 
(biểu đồ 3). 
Biểu đồ 3. Cơ cấu vốn đầu t− xã hội 
của Việt Nam giai đoạn 1996 – 2008 (%) 
(14, p.21) 
Tác động trực tiếp to lớn của vốn 
FDI đối với tăng tr−ởng kinh tế ở Việt 
Nam vừa thể hiện những thành công 
nhất định trong chính sách thu hút vốn 
của Việt Nam, sự hấp dẫn của thị 
tr−ờng này, nh−ng ở một khía cạnh 
20 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2011 
khác điều đó còn phản ánh sự lệ thuộc 
của nền kinh tế Việt Nam vào vốn n−ớc 
ngoài. Các nguồn tiền đến, và cũng có 
thể rút đi khi có rủi ro, để lại cho quốc 
gia bản địa những th−ơng tổn. Đó chính 
là những gì mà Malaysia, Thailand, 
Indonesia, v.v đã trải qua trong 
khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997. 
Mặc dù, trong số các quốc gia đó, chỉ có 
Malaysia là có chung đặc điểm phụ 
thuộc vào vốn FDI nh− Việt Nam. Tỉ 
trọng FDI của Việt Nam giai đoạn 1991 – 
2007 là 5,9%, thậm chí còn cao hơn mức 
4,3% của quốc gia đô thị Malaysia (1977 – 
1996) và cao hơn rất nhiều so với mức 
1,1% của Thailand (1976 – 1995) hay 
Indonesia (1977 – 1996) vốn chỉ ở mức 
0,9% (xem thêm: 8). Trong giai đoạn hậu 
khủng hoảng (2000 – 2006) tỉ trọng này 
của Việt Nam trung bình là 4% GDP và 
còn cao hơn vào các năm 2007, 2008. 
Đóng góp của FDI cho tăng tr−ởng 
kinh tế Trung Quốc với vai trò là nguồn 
vốn bổ sung trực tiếp không mạnh mẽ/rõ 
nét nh− tr−ờng hợp Việt Nam. Trong 
suốt giai đoạn 24 năm (1981 – 2004), tỉ 
trọng của vốn đầu t− n−ớc ngoài (gồm cả 
đầu t− gián tiếp và FDI) luôn chiếm một 
tỉ trọng rất nhỏ trong tổng mức đầu t− 
tài sản cố định toàn Trung Quốc. Ngay 
trong giai đoạn bùng nổ về đầu t− (1994 
– 1997), tỉ trọng này cũng chỉ dao động 
từ 10 – 12%. Ch−a kể có rất nhiều thời 
điểm tỉ trọng này chỉ dao động ở ng−ỡng 
3 – 4%. Tới 90% vốn đầu t− vào tài sản 
cố định là “nguồn vốn tự thân” của 
Trung Quốc. 
Một điểm quan trọng cần l−u ý là do 
những chính sách đặc thù của Trung 
Quốc về lãi suất tín dụng, thu hút đầu 
t−, v.v nên một phần trong số vốn FDI 
đó không phải là vốn n−ớc ngoài mà là 
vốn của ng−ời Trung Quốc (bao gồm cả 
những công dân sống ở hai đặc khu 
hành chính Hong Kong và Ma Cao). 
Mặc dù con số FDI đổ vào Trung Quốc 
thật ấn t−ợng khi quốc gia này chiếm 
tới 18% dòng vốn FDI toàn cầu, nh−ng 
về bản chất 1/3 trong tổng số vốn FDI 
này đã “đi đ−ờng vòng” – chúng là 
nguồn vốn trong n−ớc, đ−ợc chuyển qua 
Hong Kong và tái đầu t− vào trong n−ớc 
để h−ởng lợi từ các −u đãi về thuế - và 
thêm 1/3 nữa từ ng−ời Trung Quốc di c− 
và chỉ đầu t− lại vào Trung Quốc (xem 
thêm: 10). Bởi lẽ, trong khi lãi suất huy 
động vốn trong n−ớc thấp, đầu t− n−ớc 
ngoài lại nhận đ−ợc nhiều −u đãi về mặt 
chính sách (nh− chính sách thuế, chính 
sách kinh doanh, chính sách cơ sở hạ 
tầng, v.v), nên không ít ng−ời Trung 
Quốc thoạt tiên “đ−a” tiền ra bên ngoài 
rồi sau đó đầu t− trở lại d−ới vỏ bọc công 
ty n−ớc ngoài nhằm h−ởng các −u đãi 
này. Trong một kết quả nghiên cứu gần 
đây (xem: 12), tác giả chỉ ra rằng, đầu 
t− tài sản cố định toàn xã hội của Trung 
Quốc có tác động rõ rệt đến tăng tr−ởng 
kinh tế: tỉ trọng của nó trong GDP mỗi 
khi tăng thêm 1% thì khiến cho GDP 
thực tế bình quân tăng thêm 0,23%; tỉ 
trọng vốn nhà n−ớc tăng thêm 1% có thể 
khiến GDP thực tế bình quân tăng thêm 
0,22%; vốn t− nhân và FDI đều không 
có “tác động trực tiếp” rõ rệt đến tăng 
tr−ởng kinh tế. Đầu t− tài sản cố định 
của các doanh nghiệp nhà n−ớc vẫn là 
động lực tăng tr−ởng chính của đầu t− ở 
Trung Quốc. 
Doanh nghiệp vốn FDI đóng vai trò 
quan trọng trong việc giải quyết việc 
làm ở Việt Nam nh−ng không rõ rệt ở 
Trung Quốc. Cùng với DNTN, doanh 
nghiệp FDI đang tạo ra 2/3 số lao động 
trong khu vực doanh nghiệp. Mặc dù tốc 
độ tăng tr−ởng lao động của doanh 
nghiệp FDI đã suy giảm nh−ng vẫn ở 
mức lớn nhất (18,4% năm 2006), cao hơn 
Về vai trò của vốn FDI - 
21 
so với kinh tế ngoài nhà n−ớc (7,7%), 
trong khi đó, khả năng tạo việc làm của 
DNNN ở Việt Nam yếu kém hơn rất 
nhiều (- 9,5% năm 2005 và - 6,8% năm 
2006) (xem thêm: 15). Tốc độ tăng tr−ởng 
lao động này khiến tỉ trọng lao động của 
DNNN giảm từ gần 60% (năm 2000) 
xuống còn 28% (năm 2006), tỉ trọng của 
doanh nghiệp FDI đã tăng từ 11,53% 
(năm 2000) lên 21,52% (năm 2006). 
Các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam 
có thể khiến thâm hụt th−ơng mại thêm 
trầm trọng trong khi doanh nghiệp FDI 
ở Trung Quốc góp phần làm tăng thặng 
d− th−ơng mại một cách mạnh mẽ. Sự 
khác biệt này không đến từ mục tiêu 
hành vi của doanh nghiệp mà bắt nguồn 
từ sự khác biệt về cơ sở kinh tế và khả 
năng quản lí. Các doanh nghiệp FDI làm 
tăng mức thặng d− th−ơng mại chung 
của Trung Quốc bởi chúng không những 
chiếm −u thế về l−ợng (quy mô) xuất 
khẩu mà còn có vai trò quan trọng trong 
việc xuất khẩu các sản phẩm có giá trị 
gia tăng cao (các sản phẩm có hàm l−ợng 
công nghệ cao). Khác với ấn Độ và giống 
với tr−ờng hợp của Nhật Bản, Hàn Quốc, 
chính sách công nghiệp của Trung Quốc 
đ−ợc hoạch định theo h−ớng: ban đầu là 
chiếm thị phần của các ngành thâm 
dụng lao động, sau đó chuyển sang làm 
chủ các ngành thâm dụng về kĩ thuật. 
Trung Quốc hiện nay không chỉ là c−ờng 
quốc xuất khẩu hàng giá rẻ mà đã thực 
sự trở thành một n−ớc lớn về sản xuất và 
xuất khẩu hàng hóa có hàm l−ợng công 
nghệ cao. Trong giai đoạn 1995 – 2005, 
doanh nghiệp FDI luôn đóng góp 
khoảng hơn 80% vào xuất khẩu sản 
phẩm có trình độ công nghệ cao của 
Trung Quốc. Doanh nghiệp FDI đóng 
vai trò nổi bật trong việc tạo ra thặng 
d− cán cân th−ơng mại cho Trung Quốc. 
ở Việt Nam, doanh nghiệp FDI vừa 
đóng góp tích cực cho tăng tr−ởng xuất 
khẩu của Việt Nam nh−ng đồng thời 
cũng là nhân tố làm tăng thâm hụt 
th−ơng mại. Do công nghiệp phụ trợ của 
Việt Nam còn rất kém phát triển nên 
tại các ngành sản xuất sản phẩm có giá 
trị gia tăng cao, các doanh nghiệp FDI ở 
Việt Nam phải nhập khẩu hầu hết linh 
phụ kiện. Ngành công nghiệp cơ khí dù 
có nhiều nguồn nguyên liệu nh− quặng, 
đồng, chì, sắt... nh−ng chỉ có một nhà 
máy sản xuất ra thành phẩm từ nguyên 
liệu sắt, trên 80% nguyên vật liệu đóng 
tàu phụ thuộc vào việc nhập khẩu nh− 
gỗ, sắt, cách nhiệt, dây đồng. Ngay cả 
lĩnh vực sản xuất hàng đầu là dệt may, 
nguyên phụ liệu nhập khẩu cũng chiếm 
tỉ lệ không nhỏ dù tới nay tỉ lệ nội địa 
hóa trung bình của ngành trên 45% 
(xem thêm: 23). Đánh giá về mức độ 
phát triển ngành công nghiệp phụ trợ 
của Việt Nam, ông Jetsusaburo 
Hayashi, Phó chủ tịch Tổ chức Xúc tiến 
th−ơng mại Nhật Bản (JETRO) tại 
thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, xét về 
tỷ lệ nội địa hóa, Việt Nam vẫn đứng 
sau một số quốc gia trong khu vực, 
trong đó có Thailand. Điều này sẽ ảnh 
h−ởng lớn đến khả năng cạnh tranh của 
nền kinh tế Việt Nam. 
Ngoài ra, một nguyên nhân làm 
tăng chi phí nhập khẩu của các doanh 
nghiệp FDI ở Việt Nam là nhằm trốn 
thuế và chuyển lợi nhuận về n−ớc bằng 
cách nhập khẩu linh phụ kiện, máy móc 
thiết bị từ công ty mẹ với giá “trên trời”. 
Vì vậy, mặc dù giải quyết đ−ợc một 
l−ợng lao động đáng kể và đóng góp cho 
tăng tr−ởng xuất khẩu nh−ng về lâu 
dài, sự tồn tại của các doanh nghiệp 
FDI ở Việt Nam không thúc đẩy sự phát 
triển của công nghiệp Việt Nam theo 
chiều sâu. Những ích lợi từ doanh 
22 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2011 
nghiệp FDI phụ thuộc rất nhiều vào mối 
liên kết giữa doanh nghiệp FDI và 
doanh nghiệp bản địa (xem thêm: 8). 
Các rào cản đối với doanh nghiệp t− 
nhân trong n−ớc đã hạn chế sự phát 
triển của các ngành công nghiệp phụ trợ 
- những ngành vốn h−ởng lợi nhiều từ 
mối liên kết này. Vì thế, nếu không có 
mối liên kết vững chắc và lâu bền với 
các nhà sản xuất, cung ứng (linh phụ 
kiện) trong n−ớc, thì khi chi phí lao 
động tại Việt Nam tăng lên, các doanh 
nghiệp FDI sẽ không còn động cơ để ở 
lại Việt Nam. Hoặc các doanh nghiệp 
này sẽ chuyển sang một hình thức kinh 
doanh mới nh− hiện t−ợng chuyển 
thành doanh nghiệp phân phối nhập 
khẩu gần đây. 
Năm 2007, Sony Việt Nam tuyên bố 
dừng sản xuất tại Việt Nam. Theo chân 
Sony, các tập đoàn lớn của n−ớc ngoài 
nh−: Canon, Brother, Sharp hay 
Nissan, LG, Samsung giờ đều đã hoặc 
đang ráo riết thành lập các công ty 
phân phối, nhập khẩu nhằm tiêu thụ 
các sản phẩm của họ tại thị tr−ờng Việt 
Nam. Tình trạng này đã đ−ợc Bộ Công 
th−ơng coi là đáng báo động bởi nhiều 
doanh nghiệp FDI thay vì sản xuất tại 
Việt Nam lại đang chuyển sang nhập 
khẩu và bán lại lấy lời. Năm 2008 khối 
FDI nhập khẩu hơn 1 tỷ USD, nh−ng 
năm 2009 tăng vọt lên 4 tỷ USD, tức là 
chiếm tới 30% kim ngạch nhập khẩu 
của Việt Nam (xem thêm: 25). 
Nhìn chung, hiệu ứng lan tỏa kĩ 
thuật (Technology Spillover Effect) mà 
doanh nghiệp FDI ở Việt Nam tạo ra rất 
không nổi bật. Sau hàng chục năm thu 
hút FDI và đạt đ−ợc những hiệu quả 
b−ớc đầu về quy mô vốn, tạo việc làm 
v.v, mức độ chuyển giao công nghệ 
của doanh nghiệp FDI cho doanh 
nghiệp Việt Nam cũng nh− hiệu ứng lan 
tỏa kĩ thuật mà các doanh nghiệp này 
tạo ra không thực sự rõ nét. Trong cơ 
cấu xuất khẩu hàng công nghiệp của 
Việt Nam, tỉ trọng của các sản phẩm 
công nghiệp thấp và tài nguyên thô vẫn 
còn rất lớn. Tỉ trọng này của Việt Nam, 
trong khu vực Đông Nam á, chỉ thấp 
hơn Indonesia (dẫn theo: 11, tr.222). 
Nguyên nhân của tình trạng hiệu 
ứng lan tỏa kĩ thuật ở Việt Nam kém 
nổi bật là do: thứ nhất, doanh nghiệp 
FDI ở Việt Nam chủ yếu tập trung trong 
các ngành thâm dụng lao động. Đáng 
chú ý, đây phần lớn là những “lao động 
phổ thông d−ới chuẩn”, những lao động 
không có kĩ năng – những ng−ời nhiều 
khả năng sẽ phải nhận mức l−ơng tối 
thiểu. Một báo cáo của UNDP (15) cho 
thấy để đối phó với áp lực tăng tiền 
l−ơng danh nghĩa, hầu hết các công ty 
may mặc ở Việt Nam đã hạ thấp tiêu 
chuẩn tuyển dụng. Năm 2007, họ đã 
nhận cả những công nhân không biết 
chữ và mở lớp xóa mù chữ để đảm bảo 
các công nhân này đọc đ−ợc bản thông 
báo an toàn và các chỉ dẫn cơ bản (dẫn 
theo: 11, tr.255). Thứ hai, công nghiệp 
phụ trợ của Việt Nam không phát triển. 
Thứ ba, chính sách kinh tế thay thế nhập 
khẩu (tăng dần tỉ lệ nội địa hóa) không 
tạo ra áp lực đổi mới công nghệ cho cả 
doanh nghiệp bản địa lẫn doanh nghiệp 
FDI. Ngoài ra, nh− những phân tích ở 
phần sau, việc các doanh nghiệp FDI 
không h−ớng vào lĩnh vực sản xuất có 
công nghệ cao mà chuyển h−ớng sang các 
ngành siêu lợi nhuận (nh− bất động sản) 
cũng là một phần của tình trạng này. 
Mặc dù thực thi chính sách “lấy thị 
tr−ờng đổi kĩ thuật”, nh−ng ấn t−ợng 
trực giác là vốn FDI vào Trung Quốc 
cũng chủ yếu tập trung vào các ngành 
Về vai trò của vốn FDI - 
23 
thâm dụng lao động. Mức độ tập trung 
của doanh nghiệp FDI vào các ngành 
thâm dụng lao động và rất thâm dụng 
lao động là 69% (đối với doanh nghiệp 
Hong Kong – Đài Loan – Ma Cao) và 
58% (với doanh nghiệp FDI khác) (xem 
thêm: 13). Lí do doanh nghiệp FDI tập 
trung ở các ngành thâm dụng lao động 
có thể là do bản thân các doanh nghiệp 
này e ngại công nghệ của họ sẽ bị “đánh 
cắp”, hoặc cũng có thể là do khả năng 
hấp thụ kĩ thuật của các doanh nghiệp 
bản địa Trung Quốc có hạn. Doanh 
nghiệp FDI có −u thế về khoa học - kĩ 
thuật hoặc công nghệ hơn doanh nghiệp 
Trung Quốc hay không? Thoạt nhìn, câu 
trả lời t−ởng nh− rất đơn giản: Có. 
Nh−ng số liệu thống kê cho thấy đối với 
533 mặt hàng thuộc phân vị 4 trở lên 
trong ngành chế tạo – chế biến (giai 
đoạn 1998 – 2003), thì 11,8% số doanh 
nghiệp FDI có hiệu suất sản xuất lao 
động (labor productivity – LP) thấp hơn 
so với doanh nghiệp bản địa (xem thêm: 
18). Nếu tính gộp với các mặt hàng chế 
tạo – chế biến phân vị 4 với các mặt 
hàng nhóm ngành này nh−ng là phân vị 
2 thì trong số 37 ngành thuộc nhóm 
ngành chế tạo – chế biến có 2 ngành mà 
LP của doanh nghiệp FDI thấp hơn so 
với doanh nghiệp Trung Quốc. Đó là các 
ngành: thời trang và các hàng thành 
phẩm khác từ sợi; da, giả da, hàng 
thành phẩm làm từ lông vũ, v.v... Nếu 
so sánh dựa vào hiệu suất sản xuất toàn 
yếu tố/hiệu suất yếu tố tổng hợp (total 
factor productivity – TFP), trong giai 
đoạn 1998 – 2003, có 14% doanh nghiệp 
FDI thuộc các ngành sản xuất hàng chế 
tạo – chế biến phân vị 4 trở lên có TFP 
thấp hơn so với doanh nghiệp bản địa 
(xem thêm: 18). Nếu tính cả các ngành 
chế tạo – chế biến phân vị 2 thì doanh 
nghiệp FDI trong ngành sản xuất thuốc 
lá có TFP thấp hơn so với doanh nghiệp 
bản địa. Điều này cho thấy, mặc dù 
doanh nghiệp FDI – xét cho cùng – có 
trình độ phát triển khoa học kĩ thuật và 
hiệu suất sản xuất cao hơn so với doanh 
nghiệp bản địa nh−ng đó chỉ là sự v−ợt 
trội t−ơng đối. 
Để kiểm chứng về giả thiết sự gia 
nhập của các nguồn vốn bên ngoài đã 
nâng cao c−ờng độ hoạt động R&D của 
Trung Quốc, Yundan Gong và Gary H. 
Jefferson (năm 2007) đã kiểm nghiệm 
về ảnh h−ởng của FDI ở cùng tỉnh, 
trong cùng ngành công nghiệp phân vị 3 
đối với c−ờng độ R&D. Kết quả nghiên 
cứu cho thấy, các doanh nghiệp FDI 
(không bao gồm doanh nghiệp Hồng – 
Đài – Ma) quả thực có ảnh h−ởng qua 
lại với hoạt động R&D của doanh 
nghiệp bản địa, cuối cùng nâng cao 
c−ờng độ nghiên cứu. Khi nghiên cứu về 
ghi chép của Cục quyền sở hữu trí tuệ 
quốc gia Trung Quốc (SIPO) Albert G. 
Z. Hu và Gary H. Jefferson (năm 2006) 
đã phát hiện ra rằng sự tồn tại của 
doanh nghiệp FDI chính là nhân tố 
quan trọng quyết định việc các doanh 
nghiệp bản địa nộp đơn xin cấp bằng 
sáng tạo – sáng chế (xem: 2). Do vậy, 
hai tác giả kết luận rằng, doanh nghiệp 
FDI trong khu vực công nghiệp là một 
lực l−ợng quan trọng thúc đẩy doanh 
nghiệp bản địa đăng kí quyền sở hữu trí 
tuệ. Tuy doanh nghiệp FDI không thể 
hiện vai trò tích cực nh− kì vọng của 
quốc gia bản địa trong việc phát triển 
khoa học kĩ thuật nh−ng có một bộ phận 
doanh nghiệp n−ớc ngoài đã phần nào 
thể hiện kì vọng đó ở Trung Quốc – đó 
là các doanh nghiệp Mỹ. Năm 2000, Mỹ 
có 458 công ty con ở Trung Quốc, trong 
đó có những tên tuổi nổi tiếng nh− 
Motorola, IBM, Intel, Microsoft, Ford, 
General Motor. Trong giai đoạn 1997 – 
24 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2011 
2000, tỉ trọng giữa chi tiêu cho R&D 
trong tổng giá trị gia tăng của các 
doanh nghiệp Mỹ đã tăng từ 1,1% lên 
9,2% - cao hơn rất nhiều so với con số 
trung bình 3,3% của các công ty con của 
Mỹ ở n−ớc ngoài (dẫn theo: 2). 
Doanh nghiệp FDI ở Việt Nam ngày 
càng đầu t− nhiều vào lĩnh vực dịch vụ 
(bất động sản) và rời bỏ nhóm ngành 
công nghiệp. Phân bổ vốn FDI theo 
ngành ở Việt Nam thay đổi theo thời 
gian. Xây dựng là ngành quan trọng 
nhất vào giai đoạn đầu với đỉnh cao vào 
năm 1996. Các ngành nh− hóa chất, vật 
liệu xây dựng và thiết bị điện có tỉ trọng 
vốn FDI tăng dần thời gian gần đây. 
Gần 100% các doanh nghiệp trong 
ngành khai thác dầu của Việt Nam là 
doanh nghiệp FDI, con số này trong các 
ngành lắp ráp ô-tô là 84%, điện tử 45%, 
dệt may 41%, hóa chất 38%, thép 32%, 
xi-măng, cao su, nhựa, l−ơng thực và đồ 
uống 25 – 30% (xem: 20). Nh−ng mấy 
năm trở lại đây, dịch vụ và bất động sản 
trở thành ngành nhận đ−ợc nhiều vốn 
FDI nhất. Năm 2007, tỉ trọng vốn đăng 
kí vào các dự án thuộc lĩnh vực này đạt 
45,8%, cao gấp đôi so với mức 22% trong 
giai đoạn 20 năm tr−ớc (xem thêm: 11, 
tr.235). 
Song song với xu h−ớng này, từ năm 
2010, vốn FDI đổ vào lĩnh vực công 
nghiệp (chủ yếu là công nghiệp gia công 
và chế biến) đã có dấu hiệu chững lại – 
điều đã đ−ợc nhìn thấy từ vài năm tr−ớc 
đó (2006 – 2007). Có thể sự chuyển ra 
khỏi công nghiệp chế tác của vốn FDI 
không hoàn toàn do nhu cầu thị tr−ờng, 
mà còn do những tác động của chính 
sách phát triển ngành công nghiệp của 
Việt Nam – các ngành công nghiệp thay 
thế nhập khẩu đ−ợc −u tiên thu hút vốn 
FDI hơn các ngành h−ớng ra xuất khẩu 
(dẫn theo: 26, tr.14). Về lâu dài, nếu 
không cải thiện đ−ợc việc vốn FDI “tháo 
chạy” khỏi khu vực công nghiệp, nền 
kinh tế Việt Nam vốn ở trong tình trạng 
thiểu năng về sản xuất, sẽ càng lún sâu 
vào “căn bệnh Hà Lan” – các ngành 
công nghiệp cơ bản không phát triển, 
nền kinh tế không có các ngành sản 
xuất x−ơng sống. 
Trong phân bố ngành, kể từ năm 
1992, Trung Quốc bắt đầu mở cửa thị 
tr−ờng trong n−ớc một cách có chọn lựa 
cho nhà đầu t− n−ớc ngoài. Trong các 
ngành dịch vụ ở Trung Quốc, bất động 
sản là ngành thu hút đ−ợc nhiều FDI 
nhất (trong bối cảnh Chính phủ vẫn 
ch−a sẵn sàng mở cửa khu vực tài chính 
– tiền tệ). Nh−ng khác với Việt Nam, 
vốn FDI vào Trung Quốc đến nay chủ 
yếu vẫn tập trung vào công nghiệp chế 
tạo – chế biến. Trong tổng vốn đầu t− 
FDI năm 2004 thì khu vực công nghiệp 
chiếm khoảng 75%, nông nghiệp chỉ 
chiếm 1,8%, các ngành sự nghiệp công 
cộng chiếm 1,8%, các ngành dịch vụ 
chiếm khoảng 23% (xem: 19). Kể từ 
năm 1996, FDI đổ vào lĩnh vực chế tạo 
luôn chiếm trên 54% tổng mức FDI. 
Trong thời gian 1996 – 2007, ngành chế 
tạo tổng cộng đã chiếm 63,52% tổng vốn 
FDI. Năm 1996, FDI đổ vào công nghiệp 
chế tạo chiếm 67,39%, liền đó trải qua 3 
năm sụt giảm, năm 1999 là năm tỉ lệ 
này ở vào mức thấp nhất (56,6%); từ 
2002 – 2004 tỉ trọng này lại tăng lên, 
năm 2004 đạt mức cao nhất (70,95%). 
Kể từ năm 2006, tỉ trọng FDI đổ vào các 
ngành chế tạo bắt đầu giảm sút mạnh 
do những nới lỏng quản lí của Chính 
phủ Trung Quốc đối với các ngành tài 
chính – ngân hàng – tiền tệ - bảo hiểm 
v.v Năm 2007, lĩnh vực ngân hàng 
Trung Quốc bắt đầu mở cửa, đánh dấu 
cột mốc mới trong tiến trình tự do hóa 
Về vai trò của vốn FDI - 
25 
th−ơng mại của quốc gia này. Mặc dù 
vậy, trong 15 ngành thu hút nhiều FDI 
nhất của Trung Quốc năm 2009, có 9767 
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực 
chế tạo – chế biến, với tổng vốn đầu t− 
46,77 tỉ USD (trên tổng số 55,58 tỉ USD 
của nhóm ngành công nghiệp). 
III. Những kết luận chủ yếu 
Những kết luận chủ yếu từ nghiên 
cứu này, bao gồm: 
1. Sự tập trung của doanh nghiệp 
FDI trong các ngành thâm dụng lao 
động khiến hiệu ứng lan tỏa kĩ thuật 
của các doanh nghiệp này ở Việt Nam 
rất yếu kém. 
2. Sự tập trung của doanh nghiệp 
FDI trong các ngành thâm dụng lao 
động làm chậm quá trình nâng cao tiền 
l−ơng cho công nhân viên Việt Nam. Bởi 
lẽ, “giá trị gia tăng” từ lao động chân 
tay (lao động giản đơn) luôn đặt ng−ời 
lao động vào tình thế bất lợi trong việc 
đòi hỏi đ−ợc h−ởng mức phân chia cao 
hơn từ lợi nhuận doanh nghiệp. 
3. Sự tập trung của doanh nghiệp 
FDI trong các ngành thâm dụng lao động 
khó lòng hỗ trợ công nghiệp Việt Nam 
phát triển theo chiều sâu và hiện đại. 
4. Việc doanh nghiệp FDI chuyển 
từ khu vực công nghiệp sang bất động 
sản và dịch vụ l−u trú cần phải đ−ợc coi 
là một dạng đầu t− rủi ro đòi hỏi có 
kiểm soát chặt chẽ. 
5. Sự yếu kém của các ngành công 
nghiệp phụ trợ làm suy yếu sức hấp dẫn 
của Việt Nam trong mắt các nhà đầu t− 
n−ớc ngoài đồng thời làm giảm thiểu 
ngay chính tác động tích cực của doanh 
nghiệp FDI trong việc truyền bá/chuyển 
giao công nghệ. 
6. Hoạt động đầu t− của Việt Nam 
đang phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn 
bên ngoài (cả trực tiếp và gián tiếp). 
Trên thực tế, không có quốc gia nào 
phát triển ổn định lại không dựa vào 
việc phát triển đội ngũ doanh nghiệp 
bản địa hùng hậu. Tr−ờng hợp của Nhật 
Bản, Hàn Quốc giai đoạn cất cánh, 
tr−ờng hợp của Trung Quốc hiện nay 
đều là minh chứng sống động cho việc 
chính phủ kết hợp với doanh nghiệp bản 
địa để hình thành nên các “quả đấm 
thép” – một thuật ngữ −a thích của các 
nhà hoạch định chính sách Việt Nam. 
TàI LIệU THAM KHảO 
1. Barry Naughton. The Chinese 
Economy: Transitions and Growth. 
Cambridge, Mass: MIT Press, 2007. 
2. Brandt L., Thomas G. Rawski (chủ 
biên). Công cuộc chuyển đổi kinh tế 
vĩ đại của Trung Quốc (tiếng 
Trung). Cách Trí, Nhân dân Th−ợng 
Hải, 2009. 
3. C. Coughlin, E. Segev. Foreign 
Direct Investment in China: A 
Spatial Econometric Study. World 
Economy, 21(1): 1 – 23, 2000. 
4. Công báo thống kê phát triển kinh 
tế - xã hội n−ớc CHND Trung Hoa 
năm 2009 (tiếng Trung). 
gb/qgRMBjgb 
5. Cục Đầu t− n−ớc ngoài. Báo cáo 
nhanh đầu t− trực tiếp n−ớc ngoài 
11 tháng năm 2010. Số liệu 
download từ trang web Thời báo 
Kinh tế Việt Nam, 
 2010 
6. David Dollar, Ngụy Th−ợng Tiến. 
Nguồn vốn ch−a đ−ợc tận dụng triệt 
để. Tạp chí Tiền tệ và Phát triển - 
IMF, số tháng 6/2007. 
7. D− Diểu Kiệt. 30 năm ngoại th−ơng 
Trung Quốc: 1978 – 2008. Tập 
26 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2011 
nghiên cứu chuyên đề của Trung 
tâm Nghiên cứu Kinh tế Trung 
Quốc, 2008. 
8. Harvard University (John F. 
Kennedy School of Government) - 
Ch−ơng trình châu á. Nguyên nhân 
sâu xa về mặt cơ cấu của bất ổn vĩ 
mô. Ch−ơng trình giảng dạy kinh tế 
Fulbright, 2008. 
9. Investment Surges. Chinese 
Oversea Investment Surges by 32 pc 
in 2006. www.china-
embassy.org/eng/xw/t289449.htm, 
2007. 
10. James Riedel. Nghiên cứu mới về 
tăng tr−ởng kinh tế Trung Quốc: Đầu 
t−, tạo vốn và cải cách. Trung Quốc: 
Đại học Bắc Kinh, 2007. 
11. Nguyễn Đức Thành (Chủ biên). Kinh 
tế Việt Nam 2008 – Suy giảm và 
thách thức đổi mới. H.: Tri Thức, 
2009. 
12. Phạm Sỹ Thành. Nghiên cứu diễn 
tiến về cải cách doanh nghiệp nhà 
n−ớc của Trung Quốc (tiếng Trung), 
Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Nam 
Khai, Thiên Tân (Trung Quốc), 2008. 
13. Thẩm Quế Long. Nghiên cứu hiệu 
quả FDI ở Trung Quốc – khảo sát biện 
chứng đối với tăng tr−ởng kinh tế. 
Trung Quốc: Tập đoàn xuất bản Thế 
Kỉ Th−ợng Hải, 2007. 
14. United Nations. Investment Policy 
Review – Viet nam. New York: 2008. 
15. UNDP. Báo cáo đánh giá hai năm thi 
hành Luật Doanh nghiệp và Luật 
Đầu t−, 2008. 
16. UNDP. Chính sách công nghiệp của 
Việt Nam – Thiết kế chính sách để 
phát triển bền vững, 2010. 
17. Vũ Thành Tự Anh. Top 500 doanh 
nghiệp Việt - Múc tài nguyên thô + 
đặc quyền dễ ngồi chiếu trên. 
364cat44 
18. V−ơng Linh, Đồ Cần. Nghiên cứu về 
tính điều kiện của hiệu ứng lan tỏa 
hiệu suất sản xuất từ doanh nghiệp 
vốn đầu t− n−ớc ngoài trong ngành 
chế tạo – chế biến của Trung Quốc. 
Tạp chí Kinh tế học, số 1 quyển 7, 
2007. 
19. World Bank. Nghiên cứu về viễn cảnh 
và chiến l−ợc tận dụng vốn FDI của 
Trung Quốc (tiếng Trung). Báo cáo 
nghiên cứu th−ờng niên, số 39008, 
2004. 
20. World Bank. Kinh doanh – Báo cáo 
phát triển Việt Nam 2006. 
21. Biểu đồ xuất khẩu khối doanh nghiệp 
FDI. Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày 
8/9/2010, số 215, trang 1. 
22. Bốn công ty dầu khí chung vốn kinh 
doanh khách sạn. 
7498cat44/ 
23. 
CA0/ti-le-noi-dia-hoa-qua-thap.chn 
24. 
r/baivietkinhtedautu/repository/coll
aboration/sites%20content/live/vir/
web%20contents/chude/kinhtedautu
/cohoidautu/9abb37517f000001000a
40acac4f538f 
25. 
436009020/Bung_no_nha_nhap_khau
_phan_phoi_Bao_dong.html và vtv.vn 
26. Đổi dòng nguồn vốn FDI. Báo Đầu 
t−, số 103, ngày 27/8/2010, trang 14.
            Các file đính kèm theo tài liệu này: