Thứ nhất, về cơ sở pháp lý: Theo
nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, mọi
cơ quan nhà nước phải và chỉ thực hiện
những nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật
quy định. Việc thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan nhà nước cũng
phải theo thủ tục pháp luật quy định. Đối với
Quốc hội - là cơ quan có vị trí tối cao trong
bộ máy nhà nước, mọi chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và thủ tục hoạt động của Quốc
hội cần được quy định cụ thể trong Hiến
pháp và các luật liên quan. Tuy nhiên, Hiến
pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Quốc hội
năm 2014 không có quy định về biểu quyết
lại. Chúng tôi cho rằng, biểu quyết lại không
đơn thuần là vấn đề thủ tục mà còn liên quan
trực tiếp tới thực hiện các chức năng của
Quốc hội. Do vậy, việc đưa quy trình, thủ
tục này vào trong Nội quy Kỳ họp Quốc hội
điều chỉnh là chưa phù hợp với tầm quan
trọng của nó. Biểu quyết lại cần được quy
định trong Hiến pháp hoặc Luật Tổ chức
Quốc hội.
Thứ hai, về giới hạn lại các nội dung
được biểu quyết lại: Như đã phân tích, cần
hạn chế việc biểu quyết lại. Tuy nhiên, Nội
quy Kỳ họp Quốc hội hiện hành không giới
hạn phạm vi các vấn đề có thể biểu quyết lại.
Từ kinh nghiệm của một số nước và để đảm
bảo sự cẩn trọng trong quá trình đưa ra các
quyết định tại kỳ họp Quốc hội, chỉ nên quy
định việc biểu quyết lại đối với luật và nghị
quyết bầu một số chức danh.
Thứ ba, cần quy định cụ thể về trách
nhiệm của tập thể Quốc hội và trách nhiệm
của cá nhân đại biểu Quốc hội đã biểu
quyết cho những nội dung sai sót phải biểu
quyết lại. Theo quy định hiện nay, trừ
trường hợp biểu quyết lại đối với việc bầu
các chức danh trong bộ máy nhà nước,
những trường hợp khác đều là biểu quyết
lại do phát hiện ra những sai sót, bất cập của
nội dung được biểu quyết trước đó. Về
nguyên tắc, khi việc biểu quyết lại rơi vào
trường hợp này, Quốc hội đã thừa nhận lỗi
của mình. Với tư cách là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, tập thể Quốc hội rất
cần phải có một hành động cụ thể bày tỏ
nhận thức về trách nhiệm của mình trước
nhân dân trong việc để xảy ra sai sót dẫn
đến phải biểu quyết lại. Vấn đề này cũng
cần có quy định cụ thể trong luật.
Ngoài ra, cũng cần có chế độ xem xét
trách nhiệm của từng cá nhân đại biểu Quốc
hội đã ủng hộ cho những nội dung sai sót
phải biểu quyết lại. Trước hết, cần phải quy
định chế độ công khai thông tin biểu quyết
của các đại biểu về một vấn đề được xem xét
tại kỳ họp Quốc hội. Những thông tin biểu
quyết của các đại biểu về một vấn đề được
xem xét tại kỳ họp Quốc hội cần được sử
dụng là một trong những tiêu chí đánh giá
năng lực và mức độ hoàn thành nhiệm vụ
của từng đại biểu Quốc hội
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 201 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Về việc biểu quyết lại của quốc hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
VÏÌ VIÏåC BIÏÍU QUYÏËT LAÅI CUÃA QUÖËC HÖÅI
Đinh Thị Cẩm Hà*
* ThS, GV Khoa Luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Thông tin bài viết:
Từ khoá:
biểu quyết lại, bỏ phiếu lại
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 21/02/2017
Biên tập: 14/03/2017
Duyệt bài: 21/03/2017
Article Infomation:
Keywords: revote, reballot
Article History:
Received: 21 Feb. 2017
Edited: 14 Mar. 2017
Approved: 21 Mar. 2017
Tóm tắt:
Trong bài viết, tác giả tổng hợp và phân tích các quy định của pháp luật
hiện hành về phạm vi, quy trình, thủ tục biểu quyết lại của Quốc hội và
kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về biểu quyết lại trong
hoạt động của Quốc hội Việt Nam.
Abstract:
In this article, the author systematizes and analyses the regulations under
the law in force on the scope, process and procedures for the revoting of
the National Assembly, thereby, provides recommendations for improve-
ments of the existing regulations on revoting by the National Assembly of
Vietnam.
1 Từ điển tiếng Việt 370.000 từ, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, 2012, tr. 83.
2 https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%83u_quy%E1%BA%BFt, truy cập ngày 18/2/2017.
1. Khái niệm biểu quyết lại
Theo Từ điển tiếng Việt, “biểu
quyết” là một động từ dùng để chỉ hành
động “bày tỏ ý kiến để quyết định một công
việc chung nào đó trong một hội nghị bằng
cách bỏ phiếu hoặc giơ tay”1.
Từ điển Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia cũng có định nghĩa tương tự và
diễn giải cụ thể hơn, theo đó “biểu quyết”
là “biểu thị sự đồng tình hay không đồng
tình của cá nhân hay tập thể lúc quyết định
một vấn đề nào đó bằng cách bỏ phiếu kín,
hoặc giơ tay, hoặc bằng phương tiện điện tử.
Những vấn đề trong một tổ chức, tập thể nếu
không có sự đồng thuận giữa các thành viên
thì biểu quyết là phương pháp có hiệu quả”2.
4
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3 Từ điển tiếng Việt 370.000 từ, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, 2012, tr. 455.
4 https://vi.wiktionary.org/wiki/l%E1%BA%A1i#Ti.E1.BA.BFng_Vi.E1.BB.87t, truy cập ngày 18/2/2017.
5 Sau đây gọi là Nội quy Kỳ họp Quốc hội năm 2015.
Trong Từ điển tiếng Việt, từ “lại” có
thể được sử dụng với tính chất là một trạng
từ mang nghĩa là “thêm một lần nữa”3. Theo
Từ điển mới Wikitionary, “lại” có nghĩa là
“một hoặc nhiều lần nữa sau lần đã hỏng
việc, lần đã xảy ra trước đó”4.
Như vậy, có thể định nghĩa “biểu
quyết lại” là việc bày tỏ ý kiến để quyết định
thêm một lần nữa một vấn đề nhất định, sau
khi ý kiến quyết định trước đó không đạt
được mục đích, yêu cầu đặt ra.
2. Phạm vi, quy trình, thủ tục biểu quyết
lại hiện nay của Quốc hội
Phạm vi, quy trình, thủ tục biểu quyết
lại của Quốc hội được quy định tại Điều 18,
Điều 27 Nội quy Kỳ họp Quốc hội (ban
hành kèm theo Nghị quyết số
102/2015/QH13 của Quốc hội ngày
24/11/2015)5.
Khoản 4, khoản 5 Điều 18 Nội quy Kỳ
họp Quốc hội năm 2015 quy định:
“4. Trường hợp cần biểu quyết lại một
vấn đề đã được Quốc hội biểu quyết thông
qua nhưng chưa có hiệu lực thi hành thì Ủy
ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) tự
mình hoặc theo đề nghị của ít nhất hai mươi
phần trăm tổng số đại biểu Quốc hội hoặc
đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân trình
dự án, đề án, báo cáo, cơ quan thẩm tra trình
Quốc hội xem xét, quyết định việc biểu
quyết lại theo trình tự như sau:
a) UBTVQH trình Quốc hội việc biểu
quyết lại;
b) Quốc hội xem xét, thông qua việc
biểu quyết lại.
Việc biểu quyết lại được tiến hành khi
có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu
quyết tán thành.
5. Trình tự Quốc hội biểu quyết lại
như sau:
a) UBTVQH trình Quốc hội nội
dung vấn đề cần biểu quyết lại;
b) Quốc hội thảo luận, biểu quyết
thông qua nội dung vấn đề cần biểu quyết
lại”.
Khoản 3 Điều 27 Nội quy Kỳ họp
Quốc hội năm 2015 quy định: “Trong
trường hợp cùng bầu một chức danh mà
nhiều người được số phiếu tán thành ngang
nhau và đạt quá nửa số phiếu tán thành so
với tổng số đại biểu Quốc hội thì Quốc hội
biểu quyết lại việc bầu chức danh này trong
số những người được số phiếu tán thành
ngang nhau. Trong số những người được
đưa ra biểu quyết lại, người được số phiếu
tán thành nhiều hơn là người trúng cử; nếu
biểu quyết lại mà nhiều người vẫn được số
phiếu tán thành ngang nhau thì người nhiều
tuổi hơn là người trúng cử”.
So với Nội quy Kỳ họp Quốc hội năm
2002 (ban hành kèm theo Nghị quyết số
07/2002/QH11 ngày 16/12/2002), quy định
của Nội quy Kỳ họp Quốc hội năm 2015 về
quy trình, thủ tục biểu quyết lại có một số
điểm mới như sau:
Một là, quy định cụ thể hơn về điều
kiện và thủ tục biểu quyết lại về một vấn đề
Quốc hội đã biểu quyết trước đó. Theo đó,
vấn đề biểu quyết lại phải chưa có hiệu lực
thi hành và để biểu quyết lại, UBTVQH
phải trình Quốc hội để Quốc hội cho ý kiến
về việc có đồng ý hay không việc biểu quyết
lại. Trường hợp quá nửa tổng số đại biểu
Quốc hội biểu quyết tán thành việc biểu
quyết lại vấn đề đó thì UBTVQH sẽ trình
Quốc hội nội dung cần biểu quyết lại. Trên
cơ sở đó, Quốc hội thảo luận, biểu quyết
thông qua nội dung cần biểu quyết lại.
Hai là, bổ sung thêm thủ tục biểu
quyết lại đối với việc bầu các chức danh
trong bộ máy nhà nước thuộc thẩm quyền
quyết định của Quốc hội. Thủ tục biểu quyết
lại đối với việc bầu các chức danh chưa
được quy định trong Nội quy Kỳ họp Quốc
hội năm 2002. Việc bổ sung này cũng tạo
thuận lợi cho việc tăng số lượng ứng cử viên
cho một chức danh cụ thể, đảm bảo tính dân
chủ, mở rộng quyền lựa chọn cho các đại
biểu trong việc quyết định các nhân sự quan
trọng của bộ máy nhà nước.
Căn cứ quy định của Nội quy Kỳ họp
Quốc hội năm 2015 về biểu quyết lại, có thể
rút ra một số điểm quan trọng sau:
Thứ nhất, biểu quyết lại được sử dụng
trong hai trường hợp: Để điều chỉnh sai sót
trong nội dung của vấn đề đã được Quốc hội
biểu quyết trước đó và để bầu chọn chức
danh Nhà nước thuộc thẩm quyền quyết
định của Quốc hội.
Thứ hai, phạm vi vấn đề được xem xét
biểu quyết lại nhằm điều chỉnh sai sót không
bị giới hạn. Theo đó, vấn đề được biểu quyết
lại có thể là nội dung của Hiến pháp, luật,
hoặc nghị quyết của Quốc hội.
Thứ ba, vấn đề được biểu quyết lại là
những vấn đề có thể đã được công bố chính
thức nhưng chưa có hiệu lực thi hành.
3. Biểu quyết lại trong lịch sử lập hiến
Việt Nam và trong Hiến pháp một số
nước trên thế giới
Ở Việt Nam, trong số năm bản Hiến
pháp đã được ban hành thì duy nhất Hiến
pháp năm 1946 có quy định về biểu quyết
lại của Quốc hội.
Điều thứ 31 Hiến pháp năm 1946 quy
định: “Những luật đã được Nghị viện biểu
quyết, Chủ tịch nước Việt Nam phải ban bố
chậm nhất là 10 hôm sau khi nhận được
thông tri. Nhưng trong hạn ấy, Chủ tịch có
quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại.
Những luật đem ra thảo luận lại, nếu vẫn
được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ
tịch phải ban bố”.
Điều thứ 45 khi quy định về thủ tục
bầu Chủ tịch nước cũng có đề cập đến việc
bỏ phiếu lại: “Chủ tịch nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà chọn trong Nghị viện nhân
dân và phải được hai phần ba tổng số nghị
viện bỏ phiếu thuận. Nếu bỏ phiếu lần đầu
mà không đủ số phiếu ấy, thì lần thứ nhì sẽ
theo đa số tương đối”.
Căn cứ vào các quy định này của Hiến
pháp năm 1946, có thể thấy thủ tục tương tự
như biểu quyết lại của Quốc hội hiện nay
được áp dụng trong hai trường hợp:
- Khi nội dung luật đã được Nghị viện
biểu quyết bị Chủ tịch nước cho là “có vấn
đề”, “không ổn”.
- Khi cần có quyết định cuối cùng về
nhân sự.
Hiến pháp một số nước cũng có quy
định về biểu quyết lại, ví dụ như khoản
5 Điều 122 Hiến pháp Ba Lan năm 1997 quy
định: “Tổng thống Cộng hòa Ba Lan có thể
chuyển trả dự án luật để Hạ nghị viện xem
xét lại. Nếu dự luật này lại được đa số ¾
trong số ít nhất ½ số đại biểu theo luật định
có mặt biểu quyết thông qua, thì Tổng thống
Cộng hòa Ba Lan có trách nhiệm ký ban
hành dự án luật trong thời hạn 7 ngày và ra
lệnh công bố trên công báo Cộng hòa Ba
Lan”6.
5
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 “Tuyển tập Hiến pháp một số nước”, Tài liệu tham khảo phục vụ sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Lưu hành nội bộ,
Trung tâm Thông tin - Thư viện và Nghiên cứu khoa học, Văn phòng Quốc hội, 10/2011, tr. 23.
Điều 53 Hiến pháp sửa đổi năm 1987
của Hàn Quốc quy định: “Trong trường hợp
có yêu cầu xem xét lại một dự luật, Quốc hội
phải xem xét lại dự luật, nếu 2/3 trong số ít
nhất ½ đại biểu theo luật định có mặt biểu
quyết tiếp tục thông qua, dự luật sẽ trở thành
luật”7.
Khoản 3 Điều 107 Hiến pháp Nga
năm 1993 quy định: “Trong thời hạn 14
ngày kể từ ngày nhận được đạo luật liên
bang mà Tổng thống liên bang Nga bác bỏ,
Đuma Quốc gia và Hội đồng Liên bang sẽ
xem xét lại đạo luật. Sau khi xem xét lại, nếu
đạo luật vẫn được ít nhất hai phần ba tổng
số thành viên Hội đồng Liên bang và tổng
số đại biểu Đuma Quốc gia thông qua thì
đạo luật đó phải được Tổng thống Liên bang
ký trong vòng 7 ngày và công bố”8.
Đối chiếu giữa quy định của Hiến
pháp năm 1946, Hiến pháp một số nước với
quy định của Nội quy Kỳ họp Quốc hội năm
2015 về biểu quyết lại, có thể thấy một số
nội dung khác biệt như sau:
- Đối tượng bị cho là “có vấn đề”,
“không ổn về nội dung” được đưa ra thảo
luận, hoặc xem xét lại9 là luật đã được Nghị
viện biểu quyết trước khi được Chủ tịch
nước công bố, chứ không phải là bất kỳ vấn
đề nào.
- Chủ thể đề xuất biểu quyết lại là Chủ
tịch nước (nguyên thủ quốc gia). Nghĩa là,
không phải bản thân Quốc hội tự nhận thấy
(thừa nhận) nội dung mình đã quyết định là
sai sót cần phải biểu quyết lại mà do sự đánh
giá của một chủ thể bên ngoài, độc lập với
Quốc hội.
- Khi Chủ tịch nước (nguyên thủ quốc
gia) đề xuất thảo luận lại thì Nghị viện phải
thực hiện mà không thể quyết định đồng ý
việc có biểu quyết lại luật hay không.
Cũng phải thấy rằng, những quy định
của Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp một
số nước vừa nêu trên về biểu quyết lại xuất
phát từ một trong những mục đích chính là
kiểm soát và kiềm chế đối với hoạt động lập
pháp của Nghị viện. Tuy nhiên, qua đó cũng
có thể rút ra một số kinh nghiệm trong việc
quy định về biểu quyết lại của Quốc hội Việt
Nam hiện nay.
4. Một số kiến nghị hoàn thiện phạm vi,
quy trình, thủ tục biểu quyết lại trong
hoạt động của Quốc hội
Với tư cách là “cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất”10, những vấn đề được Quốc
hội quyết định sẽ ảnh hưởng rất lớn tới lợi
ích của nhân dân cả nước. Do vậy, trong
một số trường hợp, việc Quốc hội biểu
quyết lại sẽ ngăn chặn trước những tác động
tiêu cực do những sai sót trong nội dung của
các vấn đề đã được Quốc hội biểu quyết
trước đó. Ngoài ra, việc áp dụng thủ tục
biểu quyết lại như quy định của Nội dung
kỳ họp Quốc hội hiện nay cho thấy thái độ
cầu thị, sẵn sàng sửa sai của Quốc hội đối
với quyết định của mình.
Tuy nhiên, cũng cần phải kiểm soát
việc biểu quyết lại của Quốc hội, đặc biệt là
cần hạn chế việc phải biểu quyết lại do
những nội dung sai sót trong các quyết định
trước đó của Quốc hội. Quốc hội là cơ quan
tập trung những người ưu tú nhất của xã hội
trên mọi lĩnh vực nên cần hạn chế tối đa
việc mắc phải sai sót đến mức phải biểu
quyết lại những vấn đề đã được thông qua
và công bố. Bên cạnh đó, trong điều kiện đa
6
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7 Tuyển tập Hiến pháp một số nước, Tlđd, tr. 61.
8 Tuyển tập Hiến pháp một số nước, Tlđd, tr. 124.
9 Thực chất là biểu quyết lại.
10 Điều 69 Hiến pháp năm 2013.
số các đại biểu Quốc hội Việt Nam hoạt
động không chuyên trách như hiện nay, việc
triệu tập kỳ họp để biểu quyết lại có thể kéo
theo sự tốn kém về thời gian, tiền bạc và
những hệ lụy khác.
Mặt khác, nếu không kiểm soát việc
biểu quyết lại sẽ dẫn tới tâm lý “dễ dãi” của
các chủ thể tham gia trong quá trình soạn
thảo, nghiên cứu, thẩm định, thảo luận và
biểu quyết đối với các dự thảo được xem xét
tại Quốc hội. Ngoài ra, mỗi khi Quốc hội sai
sót dẫn đến việc phải biểu quyết lại chắc
chắn sẽ tạo nên những hiệu ứng không tốt
trong xã hội và đặt ra vấn đề xem lại về năng
lực cũng như vấn đề trách nhiệm của một
loạt chủ thể có liên quan.
Để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động của Quốc hội, chúng tôi cho rằng, cần
hoàn thiện các quy định của pháp luật về
phạm vi, quy trình, thủ tục biểu quyết lại
trong hoạt động của Quốc hội như sau:
Thứ nhất, về cơ sở pháp lý: Theo
nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, mọi
cơ quan nhà nước phải và chỉ thực hiện
những nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật
quy định. Việc thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan nhà nước cũng
phải theo thủ tục pháp luật quy định. Đối với
Quốc hội - là cơ quan có vị trí tối cao trong
bộ máy nhà nước, mọi chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và thủ tục hoạt động của Quốc
hội cần được quy định cụ thể trong Hiến
pháp và các luật liên quan. Tuy nhiên, Hiến
pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Quốc hội
năm 2014 không có quy định về biểu quyết
lại. Chúng tôi cho rằng, biểu quyết lại không
đơn thuần là vấn đề thủ tục mà còn liên quan
trực tiếp tới thực hiện các chức năng của
Quốc hội. Do vậy, việc đưa quy trình, thủ
tục này vào trong Nội quy Kỳ họp Quốc hội
điều chỉnh là chưa phù hợp với tầm quan
trọng của nó. Biểu quyết lại cần được quy
định trong Hiến pháp hoặc Luật Tổ chức
Quốc hội.
Thứ hai, về giới hạn lại các nội dung
được biểu quyết lại: Như đã phân tích, cần
hạn chế việc biểu quyết lại. Tuy nhiên, Nội
quy Kỳ họp Quốc hội hiện hành không giới
hạn phạm vi các vấn đề có thể biểu quyết lại.
Từ kinh nghiệm của một số nước và để đảm
bảo sự cẩn trọng trong quá trình đưa ra các
quyết định tại kỳ họp Quốc hội, chỉ nên quy
định việc biểu quyết lại đối với luật và nghị
quyết bầu một số chức danh.
Thứ ba, cần quy định cụ thể về trách
nhiệm của tập thể Quốc hội và trách nhiệm
của cá nhân đại biểu Quốc hội đã biểu
quyết cho những nội dung sai sót phải biểu
quyết lại. Theo quy định hiện nay, trừ
trường hợp biểu quyết lại đối với việc bầu
các chức danh trong bộ máy nhà nước,
những trường hợp khác đều là biểu quyết
lại do phát hiện ra những sai sót, bất cập của
nội dung được biểu quyết trước đó. Về
nguyên tắc, khi việc biểu quyết lại rơi vào
trường hợp này, Quốc hội đã thừa nhận lỗi
của mình. Với tư cách là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, tập thể Quốc hội rất
cần phải có một hành động cụ thể bày tỏ
nhận thức về trách nhiệm của mình trước
nhân dân trong việc để xảy ra sai sót dẫn
đến phải biểu quyết lại. Vấn đề này cũng
cần có quy định cụ thể trong luật.
Ngoài ra, cũng cần có chế độ xem xét
trách nhiệm của từng cá nhân đại biểu Quốc
hội đã ủng hộ cho những nội dung sai sót
phải biểu quyết lại. Trước hết, cần phải quy
định chế độ công khai thông tin biểu quyết
của các đại biểu về một vấn đề được xem xét
tại kỳ họp Quốc hội. Những thông tin biểu
quyết của các đại biểu về một vấn đề được
xem xét tại kỳ họp Quốc hội cần được sử
dụng là một trong những tiêu chí đánh giá
năng lực và mức độ hoàn thành nhiệm vụ
của từng đại biểu Quốc hội n
7
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ve_viec_bieu_quyet_lai_cua_quoc_hoi.pdf