Thông qua nghiên cứu quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của thành phố để xây dựng một chiến lược có mục tiêu đón ODA. Lập danh mục dự án cần đầu tư bằng ODA và thứ tự ưu tiên của các dự án này. Xây dựng kế hoạch và các biện pháp cụ thể kể cả việc chuẩn bị vốn đối ứng thực hiện dự án.
- Cần phải có kế hoạch dài hạn cụ thể hơn nhằm thu hút triệt để các nguồn tài trợ của Nhật Bản đặc biệt chú ý khai thác các nguồn vốn mới như MITI, Myiazawa với lượng vốn cam kết lên đến hàng tỷ Yên. Theo thông báo của Chính phủ Nhật Bản, quỹ hợp tác Kinh tế Hải ngoại của Nhật Bản (OECF) sẽ sáp nhập với ngân hàng EXIMBANK Nhật Bản để trở thành Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản vào tháng 10/1999. Ngân hàng này sẽ là một công cụ mới để Nhật Bản thực hiện khoản ODA trị giá 30 tỷ USD do Bộ trưởng Bộ tài chính Nhật Bản - Ông Kiichi Myiazawa đề xuất vào tháng 12/1998. Ngoài ra Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản sẽ tiếp quản vai trò của OECF trong việc giải ngân nguồn vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản và nhiệm vụ của Ngân hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản về thương mại và đầu tư tài chính cho vay bảo lãnh. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng tiềm lực tài chính của tổ chức này sẽ mạnh lên rất nhiều và đây cũng là cơ hội cho Thành phố Hà Nội tranh thủ thêm nguồn vốn ODA tù tổ chức này.
- Thành phố cần phải hình thành một danh mục các dự án kêu gọi ODA (kèm theo với các nghiên cứu cụ thể) trong đó nêu rõ những lĩnh vực cần đầu tư, những ưu tiên, mức độ đóng góp của phía Việt Nam, lượng vốn ODA yêu cầu,. . để các nhà tài trợ có điều kiện tham khảo cũng như tin utưởng rằng dự án đã được Thành phố dành cho những quan tâm và ưu đãi. Hiện tại cần tập trung ODA cho các lĩnh vực ưu tiên như : Giao thông đô thị (hạ tâng giao thông đô thị, giao thông công cộng), nhà ở (nhà và hạ tầng khu tái định cư), môi trường, htoát nước.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Việc thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh doanh. Có cơ sở hạ tầng tốt, các nhà kinh doanh mới yên tâm vào đầu tư.
+ Giải quyết khó khăn, tậo điều kiện để sớm hoàn thành việc xây dựng cơ sở hạ tầng bên trong hàng rào và sớm cho thuê.
Cũng theo kế hoạch, dự kiến đến năm 2020, Thành phố có 122 dự án đầu tư cho lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng (Phụ lục7)
- Về xuất nhập khẩu:
Trong chiến lược xuất nhập khẩu của thành phố, yếu tố con người được xem là một thế mạnh. Hà nội cần đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp như may mặc, dệt, da giầy và phát triển thêm các sản phẩm tiêu thụ nhằm khơi dậy tiềm năng về con người, về khoa học và kinh tế trong đội ngũ cán bộ của thành phố đã được đào tạo trong những năm qua.
Trong nhập khẩu, thành phố coi trọng nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất đồng thời tăng cường nhập khẩu thiết bị nhằm đổi mới công nghệ và hiện đại hoá các cơ sở hiện có để làm ra được các sản phẩm đáp ứng được nhu cầu thị trường. Đầu tư chiều sâu, tăng cường hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá, kêu gọi đầu tư để xuất khẩu, thâm nhập thị trường Mỹ, củng cố thị truờng Tây Bắc Âu, Canada và các thị trường truyền thống là những việc mà thành phố sẽ thực hiện trong những năm tới.
Tóm lại, định hướng phát triển kinh tế của Hà nội trong những năm tới là chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp- thương mại dịch vụ- nông nghiệp. Chính sách mới là tập trung vốn đầu tư vào các ngành trọng điểm, khuyến khích các tầng lớp dân cư, các thành phần kinh tế tham gia phát triển kinh tế xã hội. Kinh tế đối ngoại được coi là mũi nhọn nhằm hỗ trợ và phát triển kinh tế xã hội theo quu hoạch chung, tạo mối giao lưu thông thoáng giữa Hà nội và các vùng trong cả nước và với nước ngoài, xây dựng những cơ sở cần thiết để tạo động lực phát triển về lâu dài.
II. Những yêu cầu và khả năng thu hút ODA của Hà nội.
1. Yêu cầu thu hút ODA của Hà nội.
Trong phần trên đã nêu khá chi tiết về định hướng phát triển kinh tế của Hà nội, có thể thấy để thực hiện được những mục tiêu đã đề ra cần phải có một lượng vốn khổng lồ. Mục tiêu huy động vốn đến năm 2000 ở mức tối thiểu là 1500 triệu USD.
Trong tình hình đó, yêu cầu đặt ra đối với việc thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức là phải góp phần thực hiện các định hướng đã đặt ra. Cần phối hợp hài hoà giữa các nguồn vốn huy động trong nước, vốn ODA, vốn FDI để tạo nên những động lực mới cho phát triển. Bản thận nguồn vốn ODA không lớn nhưng nếu biết lợi dụng những đặc tính vốn có của nó và sử dụng hợp lý để thúc đẩy sản xuất, đầu tư thì kết quả thu được không nhỏ.
Hỗ trợ phát triển chính thức không hoàn lại cần hỗ trợ cho các ngành, lĩnh vực cần thiết mà không có khả năng hoàn vốn như các chương trình y tế, văn hoá, giáo dục, bảo vệ môi trường, nghiên cứu các chương trình dự án phát triển, hỗ trợ nghiên cứu khoa học.
Việc tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật của nước ngoài là vô cùng quan trọng, thông qua các chương trình hỗ trợ kỹ thuật, đội ngũ cán bộ kinh doanh, độ ngũ cán bộ của thành phố sẽ được đào tạo để nắm được những kiến thức mới nhất về thị trường, khoa học, công nghệ. Đội ngũ tri thức này được đào tạo sẽ là lực lượng nòng cốt cho sự phát triển của thủ đô theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các chương trình nghiên cứu phát triển tạo nên một tổng thể đầu tư hợp lý, nâng cao hiệu quả cảu đầu tư.
Hỗ trợ phát triển chính thức dưới hình thức tín dụng ưu đãi sẽ sử dụng trong các dự án cải tạo cơ sở hạ tầng. Đây là những dự án đòi hỏi vốn đầu tư lớn (hàng chục tỷ USD), trong điều kiện vốn trong nước hạn hẹp, chưa kêu gọi đầu tư theo hình thức BOT được thì sử dụng ODA là phương sách hoàn toàn hợp lý. Nguồn vốn ODA trong trường hợp này có vai trò tạo cơ sở cho các hoạt động đầu tư khác, cải tạo môi trường đầu tư của thành phố tăng tính hấp dẫn với các nhà đầu tư.
Nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA cần phải bù đắp cho những hạn chế của nguồn đầu tư trực tiếp FDI và nguồn vốn đầu tư trong nước đồng thời kích thích, thúc đẩy, hỗ trợ và nâng cao hiệu quả của các dự án đầu tư từ nguồn đầu tư trực tiếp trong và ngoài nước.
Hà nội là trung tâm văn hoá, khoa học kỹ thuật của cả nước, là nơi tập trung các trường đại học, cao đẳng, trung cấp kỹ thuật, do đó cần tranh thủ các dự án ODA để hỗ trợ cho giáo dục.
Ngoài ra nguồn vốn tín dụng ưu đãi này cũng được sử dụng để đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của thành phố nhằm taưng cường năng lực sản xuất cho các cơ sở này, đồng thời tăng cường xuất khẩu cho thành phố.
Trong những năm tới, các dự án ODA cần hướng vào các chiến lược phát triển ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của thành phố, cần tập trung vào việc xây dựng và kêu gọi các dự án viện trợ lớn. Ngoài dự án cấp, thoát nước và một số dự án nhỏ làm chuyển tiếp từ những năm trước, thành phố cần tập trung vào các dự án ODA có giá trị giải quyết các vấn đê lớn như: triển khai một bước hệ thống thoát nước, hoàn thành luận chứng dự án cấp nước cho Hà nội mở rộng, nghiên cứu khả thi dự án gi`ao thông đô thị Hà nội... Trah thủ nguồn vốn ODA phục vụ xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu công nghiệp Sài Đồng, triển khai khu chế xuất Sóc Sơn và khu công nghiệp Đông Anh.
Tóm lại, yêu cầu đặt ra là:
+ ODA phải hỗ trợ để nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật của thành phố bao gồm đường trong thành phố, cải tạo sân bay quốc tế Nội Bài, hệ thống cấp thoát nước, xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu công nghiệp, khu chế suất và Hà nội mở rộng.
+ ODA phải thực hiện vai trò thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài đồng thời hỗ trợ cá dự án đầu tư trong nức thông qua các dự án quy hoạch phát triển tổng thể, các dự án xây dựng thể chế, các dự an xây dựng cơ sở hạ tầng.
+ ODA góp phần ổn định và tăng cường khả năng sản xuất của các doanh nghiệp thông qua các dự an cho vay vốn hỗ trợ sản xuất.
+ ODA giải quyết một phần các vấn đề xã hội, giáo dục, y tế thông qua hỗ trợ phát triển không hoàn lại của các nước, các tổ chức kinh tế và các tổ chức phi Chính phủ.
Cụ thể trong 5 năm tới (1996-2000) thành phố sẽ tập trung vào các dự án sau:
Cấp thoát nước cho các huyện ngoại thành và mở rộng mạng lưới cấp nước cho 4 quận nội thành (khoảng 500 USD)
Các dự án giao thông bao gồm xây dựng quy hoạch toàn mạng giao thông, xây dựng đường vành đai và đường xuyên thành phố. Dự kiến là 1,5 tỷ USD.
Các dự án cải tạo môi trường, sử lý chất thải và các dự án về y tế, giáo dục. Dự kiến hơm 2 tỷ USD.
Để thực hiện dự án này, thành phố cần phải chuẩn bị ngân sách hỗ trợ khoảng 8000 tỷ đồng khoảng 15 năm. Như vậy, trung bình mỗi năm ngân sách cần hỗ trợ 5000 tỷ đồng. Cần có sự chuẩn bị vì huy động lượng vốn lớn như vậy rất khó mà không có vốn đối ứng việc thực hiện dự án viện trợ sẽ gặp khó khăn và số vốn viện trợ cũng không được sử dụng có hiệu quả.
Hiện nay Hà nội đã chuẩn bị danh sách các dự án để xin duyệt sử dụng ODA trong những năm tới. Yêu cầu thu hút ODA của Hà nội là rất lớn, tuy nhiên có thu hút được hay không ? Điều đó còn phụ thuộc vào khả năng và sự nỗ lực của Hà nội. Dưới đây sẽ đề cập tới khả năng thu hút và hấp thụ ODA của Hà nội.
2. Khả năng huy động ODA.
2.1 ODA đa phương
Xu hướng trong những năm tới nguồn hỗ trợ của cá tổ chức liên hợp quốc sẽ giảm cho những khó khăn về tài chính của tổ chức này. Gần đây ODA từ các tổ chức LHQ như UNDP, UNIDO vào Hà Nội ngày càng ít đi.
Sau khi đã khai thông mối quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế, Việt nam nhận được ODA của các tổ chức này ngày càng nhiều do đó Hà nội cũng có nhiều cơ hội nhận được tài trợ của tổ chức này. Vốn ODA của WB có quy mô lớn, tập trung cho các công trình kết cấu hạ tầng then chốt có khả năng thu hồi vốn, điều này rất thuận lợi cho Việt nam. WB đặt trọng tâm vào các dự án phục hồi và cải tạo vì vậy, Hà nội có thể tranh thủ vốn ODA của WB cho việc cải tạo đường giao thông, hệ thống cấp thoát nước. WB đã cung cấp 37 triệu USD tín dụng ưu đãi cho dự án “Cấp nước Hà nội” (sau Phần Lan). Hiện nay, dự án này đang trong giai đoạn xây dựng. WB đang chuẩn bị thẩm định dự án.
Ngân hàng phát triển châu á có những điều kiện tín dụng ưu đãi cho các nước như nước ta, đặc biệt có nguồn hỗ trợ không hoàn lại khoảng 10 triệu USD/năm giúp chuẩn bị các dự án vay vốn hoặc dự án hỗ trợ kỹ thuật.
ODA của ADB phù hợp với các dự án phục hồi và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Trong những năm tới, Hà nội có thể đề nghị Nhà nước cho phép sử dụng ODA của tổ chức này.
2.2. ODA song phương
Hiện có 10 nước đang hỗ trợ song phương cho Hà nội, đứng đầu là Nhật, tiếp đó là Phần Lan, Pháp... Đó là những có nhiều dự án đầu tư trên địa bàn Hà nội, có quan hệ hữu nghị với Hà nội từ trước hoặc chuẩn bị đầu tư vào Hà nội. Hỗ trợ của các nước này cho Việt nam nói chung và Hà nội nói riêng đang tăng và xu hướng này có thể duy trì trong những năm tới.
Viện trợ, đầu tư và thương mại thường đi liền với nhau, với phương hướng phát triển của Hà nội hiện nay, quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế ngày càng được củng cố và mở rộng. Hà nội sẽ có khả năng được nhận tài trợ của nhiều nước khác. Vấn đề là phải hiểu và đặt ra mối quan hệ nay, tạo điều kiện cho mối quan hệ này phát triển, có như vậy mới khai thác được nguồn ODA tiềm năng.
Hà nội cũng là trọng điểm ưu tiên của cả nước nên khả năng nhận được nhiều tài trợ trong thời gian tơí là hiện thực. Tuy nhiên tận dụng được lại là vấn đề khó khăn hơn nhiều. Ngân sách của thành phố quá hạn hẹp vì vậy không đáp ứng được nổi phần đối ứng. Hy vọng tình hình sẽ được cait thiện khi các dự án đầu tư đã đi vào hoạt động, các khu công nghiệp, khu chế xuất xây dựng xong và bắt đầu cho thuê... Ngoài ra có thể hy vọng vào sự cải tổ trong chính sách huy động vốn, sự ra đời của thị trường vốn để tháo gỡ những khó khăn hiện nay.
III. Một số biện pháp nhằm thúc đẩy việc thu hút và sử dụng ODA của nhật bản trên địa bàn Hà nội.
Những hạn chế trong thu hút sử dụng ODA nói chung và ODA của Nhật Bản nói riêng trong những năm qua là do cả yếu tố khách quan và chủ quan, có những thiếu sót là do địa phương chủ quản Hà nội chưa làm tốt công tác quản lý, nhưng cũng có những thiếu sót không chỉ riêng của địa phương nào.
Để nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản trên địa bàn Hà nội cần thực hiện một loạt các biện pháp đồng bộ từ trung ương đến địa phương. Chính vì vậy các biên pháp đưa ra phải được quán triệt thực hiện cả ở Hà nội và các cơ quan chuyên môn phụ trách về mảng ODA của Chính phủ. Ngoài ra Chính phủ cần sửa đổi các chính sách vĩ mô có liên quan. Trong phần này tôi sẽ đưa ra những kiến nghị theo hướng một phần là những kiến nghị đối với cơ quan quản lý của Chính phủ Việt Nam bao gồm các cơ quan cấp Chính phủ và UBND Thành phố Hà Nội, một phần là về phía các nhà tài trợ
1.Kiến nghị với cơ quan quản lý của Chính phủ .
1.1.Đối với cơ quan trung ương
Cơ quan trung ương ở đây cụ thể là Chính phủ. Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nhà nước ban hành các chính sách kinh tế nói chung và chính sách về đầu tư noi riêng trong đó có ODA, tạo cơ chế và hành lang pháp lí cho hoạt động đầu tư cũng như việc tạo nguồn cho viện trợ ODA. Do vậy các kiến nghị với cơ quan này là :
1.1.1.Đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô :
ODA không thể có hiệu quả trong một môi trường có lạm phát cao, khủng hoảng tài chính và kém tăng trưởng. Về điểm này, Việt Nam cần tiếp tục thực hiện các chính sách cải cách kinh tế, tự do hóa thương mại đang được thực hiện thành công nhằm tạo dựng một môi trường lành mạnh cho đầu tư và tăng trưởng (đặc biệt là khuyến khích đầu tư tư nhân - một động lực chính cho tăng trưởng kinh tế).
1.1.2. Cải thiện công tác quản lý ODA - Một hệ thống quản lý tập trung :
Yếu tố quyết định quan trọng nhất cho hiệu quả thực hiện ODA là cơ quan tiếp nhận có đủ năng lực để quản lý ODA và hợp nhất nguồn vốn này vào quy trình thống nhất quản lý phát triển. Sự thành công của các dự án ODA có thể được đảm bảo khi chính phủ nhận biết và điều chỉnh những ưu tiên và các chương trình, có khả năng thực hiện, giám sát và đánh giá các dự án trong phạm vi hệ thống lập kế hoạch và ngân sách. Để điều này có thể thực hiện được, cần phải có một cơ cấu có khả năng vận hành một cách có hiệu quả, những cơ quan có khả năng lập các ưu tiên về chính sách, thương thảo với các nhờ tài trợ và quyết định thông qua hoặc loại bỏ các đề xuất. Những cơ quan như vậy cần phải có một đội ngũ cán bộ có năng lực, kỹ năng, kinh nghiệm cũng như động lực làm việc.
1.1.3. Hình thành một chiến lược ODA toàn diện.
Các ngành, địa phương cần phải có một chiến lược thu hút và sử dụng ODA trong khuôn khổ chiến lược phát triển của ngành hoặc địa phương mình trong khuôn khổ chiến lược phát triển của địa phương và của quốc gia. Chiến lược này cần tập trung vào việc sử dụng ODA với những mục tiêu phát triển rõ ràng, các ưu tiên, chiến lược cho các lĩnh vực, chiến lược thu hút tài trợ, mức độ đóng góp trong nước (vốn đối ứng, nhân lực,. ..), những khó khăn vướng mắc v.v... Việc huy động nguồn vốn trong nước cũng cần phải tính tới để có thể tạo điều kiện hỗ trợ hoặc bổ sung. Trong chiến lược phát triển, cần phải hình thành danh mục các dự án, các ưu tiên phát triển, các dự án khẩn cấp trong từng lĩnh vực cụ thể của ngành và địa phương nhằm giới thiệu với nhà tài trợ và để họ có thể tin tưởng rằng những dự án hay chương trình này đã chính thức được coi là ưu tiên và nằm trong chiến lược phát triển chung.
1.1.4. Tăng cường tập trung quản lý và lập kế hoạch ODA.
Sự quản lý tập trung hiện nay cần được tăng cường và phân định rõ ràng để đảm bảo một sự điều phối hữu hiệu hơn. Một cơ cấu tập trung quản lý cần phải bao gồm : Sự quản lý Nhà nước hiệu quả, sở hữu Nhà nước và sự tham gia của các cơ quan quản lý Nhà nước, các đơn vị thực hiện và các tổ chức, cá nhân khác trong suốt chu trình thực hiện dự án từ khi hình thành, thiết kế dự án đến khi hình thành, thiết kế dự án đến khi hoàn thành và đi vào vận hành.
1.1.4.1. Quản lý Nhà nước hiệu quả : Để tạo điều kiện cho việc thực hiện thuận lợi và tránh những sự cố có thể làm chậm quá trình thực hiện các dự dự án ODA, thì các thủ tục quản lý, các qui định hành chính cần phải được đơn giản hóa, hệ thống hóa và phải rõ ràng, đặc biệt là những qui định có liên quan tới vấn đề di dân, đền bù giải phóng mặt bằng, thẩm định xây dựng, đấu thầu, v.v... Ngoài ra cũng cần phải có một cơ chế pháp lý lành mạnh, có trách nhiệm, không có tham nhũng trong quá trình quản lý dự án.
Những yếu kém trong quản lý và điều phối ODA không được khắc phục sớm sẽ làm nản chí các nhà tài trợ, gây bất lợi trong quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế. Sử dụng ODA không hiệu quả cũng gây tâm lý nghi ngờ đối với người tài trợ về khả năng của nước sử dụng. Vì vậy yêu cầu bức bách là phải cải tiến cung cách quản lý điều phối và sử dụng ODA nói chung và ODA của Nhật Bản nói riêng bắt đầu bằng các chính sách của Chính phủ.
* Điều chỉnh và bổ sung các văn bản pháp quy có liên quan:
- Nghị định 87/CP: Hiện nay đây là văn bản pháp lý cao nhất liên quan trực tiếp đến quản lý, điều phối và sử dụng ODA, những quy định trong nghị định còn chưa cụ thể, rõ ràng. Cần phân định rõ chức năng, nhiêm vụ của Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính, Bộ ngoại giao, Ngân hàng Nhà nước, Văn phòng Chính phủ trong việc giúp thủ tướng Chính phủ quản lý ODA ở cấp vĩ mô. Các cơ quan cấp trên của các chủ dự án và chương trình ODA chịu trách nhiêm trước Chính phủ về việc quản lý và sử dụng ODA nhưng phải quy định rõ quyền hạn, nghĩa vụ từng cơ quan, nên giao trách nhiệm quản lý cho các Sở kế hoạch và đầu tư trong quá trình quản lý. Nên phân cấp quản lý ODA. Chính phủ thống nhấ quản lý ODA song không nhất thiế dự án nào cũng do thủ tướng quyết định. Với các dự án nhỏ (dưới 1triệu USD) có thể cho Bộ kế hoạch và đầu tư phối hợp với các cơ quan tổng có liên quan để quyết định.
- Nghị định 42/CP về điều lệ quản lý, đầu tư và xây dựng: đây là văn bản đưa ra các quy định về thẩm định đấu thầu cho tất cả cá dự án đầu tư, xây dựng bao gồm các dự án ODA. Những quy định trong văn bản luật này còn nhiều điểm chưa phù hợp với đặc trưng riêng của các dự án ODA và thông lệ quốc tế, các quy định về thẩm định còn rườm rà kéo dài thời gian thẩm định, vì vậy Chính phủ cần sửa đổi kịp thời:
+ Cho phép lập báo cáo tiền khả thi trong giai đoạn nghiên cứu dự án để rút ngắn thời gian thẩm định
+ Không nhất thiết dự án nào cũng qua 2 bước thẩm định. Dự án tiền khả thi và dự án khả thi, những dự án nhỏ có thể bỏ qua 2 bước dự án tiền khả thi.
+ Thủ tục đấu thầu và một số quy định khác phải tạo điều kiện cho các cơ sở thực hiện một cách linh hoạt phù hợp với quy định của từng nước tài trợ.
* Cải tiến cơ chế tài chính trong nước
- Bộ tài chính cần công bố quy trình rút vốn các loại dự án ODA để chủ dự án và các nhà tài trợ nước ngoài nắm vững quá trình trực hiện các chương trình dự án ODA. Quy trình rút vốn cần đơn giản hoá các thủ tục hành chính đồng thời bảo đảm quản lý được mọi nguồn ODA.
- Xây dựng khung lãi xuất và thời gian cho vay cũng như cơ chế tài chính trong các nước nói chung đối với các loại chương trình dự án ODA của Nhật Bản.
+ Chính phủ nên miễn thuế cho các dự án ODA đặc biệt là các dự án thuộc hạ tầng cơ sở đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách cấp phát để thuận lợi cho chủ dự án trong việc lập dự án, thuận lợi cho nhà thầu khi duyệt gia thầu chống tăng chi phí trong xây dựng cơ bản, giảm chi tiêu không cần thiết cho ngân sách nhà nước.
Tạo điều kiện pháp lý để các địa phương có kinh phí chuẩn bị dự án, xúc tiến kêu gọi tài trợ ODA. Cho phép thực hiện phương châm “ lấy viện trợ nuôi viện trợ “ để giảm chi tiêu ngân sách.
1.1.4.2. Sự sở hữu Nhà nước : Sở hữu Nhà nước đã trở nên một khái niệm quen thuộc trong các tài liệu về ODA. Khái niệm này chủ yếu đề cập đến mức độ kiểm soát của nước tiếp nhận trong việc thực hiện chính sách cũng như đối với các dự án của ODA thực hiện trên lãnh thổ. Các tiêu chí của sự sở hữu bao gồm việc chuẩn bị vốn đối ứng, bố trí nguồn nhân lực, các nguyên tắc tổ chức, trách nhiệm và khả năng điều phối giữa các cơ quan trung ương và địa phương. Thiếu sự điều phối liên Bộ có thể dẫn đến những kế hoạch, chương trình khác nhau đặc biệt trong khâu hình thành dự án và lập các ưu tiên. Điều này sẽ dẫn đến việc bố trí không thích hợp nguồn vốn ODA và thiếu tính bền vững của dự án. Tính hiệu quả về kinh tế và tài chính là một trong những điều kiện tiên quyết đối với tính khả thi và tính bền vững của dự án ODA, đặc biệt là các dự án vay. Những yếu tố này cần phải được xem xét thận trọng trong giai đoạn hình thành và thẩm định dự án. Cần phải nhìn rõ một thực tế là : "Cho vay không phải là cho không", sự sử dụng sia, lãng phí ODA và đặc biệt tư tưởng vay nợ đã có Nhà nước đứng ra chịu trách nhiệm cần phải loại bỏ. Thời gian Việt Nam phải thanh toán những khoản nợ đầu tiên không còn dài, do vậy việc lưu ý tới vấn đề này sẽ tránh cho đất nước không phải chịu những gánh nặng của các món nợ tài chính.
1.1.4.3. Sự tham gia : Một điều chắc chắn rằng sự tham gia có thể đóng góp một cách hữu hiệu cho việc có được một dự án được thiết kế hoàn thiện, được thực hiện tốt, được vận hành có hiệu quả. Toàn bộ hệ thống tiếp nhận (từ trung ương đến địa phương) phải phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau về các kỹ năng tương ứng và các nguồn lực khác. Trong nguyên tắc sử dụng ODA, sự phối hợp chặt chẽ, trao đổi thông tin, báo cáo và hướng dẫn đầy đủ cần phải được các cơ quan trung ương, các cấp chính quyền địa phương, các ban quản lý và cộng đồng thực hiện nghiêm túc trong từng giai đoạn thực hiện dự án nhằm đảm bảo có các giải pháp kịp thời và thích hợp đối với các khó khăn vướng mắc nảy sinh trong khi triển khia dự án ODA. Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng là sự tham gia của cộng đồng là điều kiện để đảm bảo sự thành công của dự án về giác độ tài chính cũng như chính trị. Do vậy, công bố rộng rãi các chỉ tiêu chính sách của Nhà nước và địa phương, tham khảo ý kiến của nhân dân, tuyên truyền phổ biến nhận thức và có phản hồi hợp lý sẽ không chỉ làm giảm những trở ngại trong quá trình triển khai dự án, mà còn làm tăng hiệu quả tài chính của dự án một khi cộng đồng và những người sử dụng dịch vụ chấp nhận thanh toán cho các dịch vụ được cung cấp.
1.1.5. Xây dựng và tăng cường năng lực.
Các nguồn lực tổ chức cần phải được tăng cường. Điều này có nghĩa là càn phải chú ý nhiều hơn tới việc đào tạo chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý và thực hiện ODA, tham khảo và công bố các kinh nghiệm trong nước và quốc tế, thiết lập hệ thống thông tin quản lý ODA. Đặc biệt là càn xây dựng một đội ngũ cán bộ nòng cốt trong toàn bộ hệ thống quản lý ODA. Những người có đủ năng lực nhận biết những vướng mắc, hình thành và thiết kế dự án và đảm bảo thực hiện công tác một cách có hiệu quả.
* Tăng cường năng lực cho các đơn vị đầu mối ODA từ trung ương đến địa phương thông qua đào tọi cơ bản và nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác ODA.
1.1.6. Quản lý rủi ro.
* Cần phải có một chiến lược để quản lí những rủi ro về tỷ giá hối đoái. Điều cần thiết là Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước quản lý tốt chính sách vay vốn, đảm bảo việc áp dụng các chuyên môn, các biện pháp kỹ thuật và cách thức quản lý nợ nước ngoài một cách thích hợp và đúng đắn. Trong khuôn khổ này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính nên hình thành một chiến luợơc quản ký nợ và Ngân hàng nhà nước thực hiện cụ thể các chính sách quản lý rủi ro. Sự bố trí này nhằm thể hiện một chính sách quản lý vay rõ ràng và có trách nhiệm của Chính phủ.
* Lựa chọn tỷ giá hối đoái nhằm ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, ổn định ngân sách nhà nước.
Mặc dù tín dụng ODA điều kiện rất ưu đãi, lãi suất thấp song tiền vay thường tính bằng ngoại tệ mạnh, mức trượt giá thấp. Trong những năm qua Việt nam đã kiềm chế được nạn lạm phát nhưng so với một số ngoại tệ mạnh mức trượt gía của đồng nội tệ còn cao. Sự mất giá của đồng nội tệ so với ngoại tệ mạnh làm lãi suất thực tế của các khoản tín dụng ưu đãi tăng lên. Chính vì vậy, khi quyết định vay phải cân nhắc kỹ những biến động có thể xảy ra để thoả thuận về điều kiện vay.
Tuy nhiên thời hạn thời hạn vay của các khoản tín dụng ODA thường dài, việc trù tính trước những biến động là rất khó, chính phủ cần có các biện pháp để hạn chế những biến động bất lợi lớn đồng thời chủ động đối phó với những biến động đó. Một trong những biện pháp chủ đạo là lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái.
Lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái không bao giờ đơn giản vì nó chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Mức tỷ giá thấp có thể thuận lợi cho việc thu hút vốn đàu tư nước ngoài (ODA và FDI), cho hoạt động xuất khẩu nhưng lại làm cho các khoản nợ tăng lên.
Xuất phát từ xu thế phát triển của thời đại mở cửa và điều kiện của nước ta, tôi cho rằng chính phủ nên lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý. Tỷ giá này cho phép chúng ta thực hiện một chính sách tiền tệ độc lập, chính sách giá ổn định vì chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý vừa theo quy luật cung cầu của thị trưoừng vừa phát huy vai trò của nhà nước, kết hợp sự điều tiết kinh tế bằng cả bàn tay ”vô hình” và ” hưu hình”. Chính sách đó sẽ giúp phản ánh đúng sức mua của đồng tiền Việt nam, đồng thời bảo đảm tính linh hoạt của tỷ giá trong tình hình đang chuyển biến nhanh.
Điều chỉnh tỷ giá hối đoái tỷ giá hối đoái đồng Việt nam với ngoại tệ mạnh cho phù hợp với tốc độ trượt giá của đồng Việt nam là có lợi nhất cho xuất khẩu và thu hút vốn nước ngoài vào đầu tư và chủ động trong tính toán thu chi ngân sách, đặc biệt là thu chi ngoại tệ.
Phải chủ động điều chỉnh dần dần, không tăng với cấp số nhân tỷ giá hối đoái. Trong vài năm vừa qua đồng Việt nam đã được đánh giá cao lên nhiều so với USD do vậy làm tăng nhạap siêu và tích tụ những điều kiện cho cơn sốt ngoại tệ có thể xảy ra trong những năm tới.
Theo ông Vũ Quang Việt, một chuyên gia của liên hợp quốc: hối suất thấp như hiện nay sẽ là nguy cơ cho nền kinh tế trong thời gian tới. Bài học của Mê-hi-cô, giữ hối suất thấp trong nhiều năm tạo ra tình hình ổn định giả tạo, cuối cùng lạm phát tăng vọt, đồng tiền giảm giá nghiêm trọng, mất khả năng trả nợ,. .. Việt nam nên rút kinh nghiệm.
Trong điều kiện lạm phát còn cao, tỷ giá hối đoái cần được điều chỉnh thường xuyên, duy trì tỷ giá hối đoái thực tế. Hiện nay tỷ giá hối đoái vẫn được điều chỉnh nhưng người ta chưa rõ phương pháp luận điều chỉnh tỷ giá hối đoái, do vậy khó dự kiến về những thay đổi của tỷ giá hối đoái trong tương lai, hạn chế phần nào việc tính toán hiệu quả.
Có nhiều nhân tố cần tính tới khi điều chỉnh tỷ giá hối đoái như mức lạm phát, thay đổi trong tương quan cung cầu tiền tệ, mức độ nhập siêu, lựa chọn chiến lược hướng ngoại hay hướng nội, mức độ cần thiết phải điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Với điều kiện cụ thể của Việt nam nhân tố lạm phát là nhân tố chủ yếu cần tính tới trước tiên để điều chỉnh tỷ giá hối đoái tức là duy trì tỷ giá hối đoái thực tế.
Duy trì tỷ giá hối đoái thực tế giúp duy trì các cân đối của nền kinh tế, cho phép dự báo những thay đổi về tỷ giá hối đoái làm cho việc sử dụng ngoại tệ được an toàn hơn. Cần điều chỉnh sớm và điều chỉnh thường xuyên để tránh những biến động lớn gây sốc cho nền kinh tế. Việc điều chỉnh sớm cũng dễ dàng hơn cho ngân hàng nhà nước, ngân hàng nhà nước có thể mua bán USD để điều chỉnh tăng tỷ giá hối đoái trong khoảng giao động hẹp.
1.1.7. Khuyến khích và phát triển các nguồn lực tài chính trong nước (phát huy nội lực):
* Bảo đảm nguồn trong nước để hấp thụ vốn đầu tư nước ngoài trong đó có Nhật Bản. Kinh nghiệm cho thấy, muốn hấp thụ vốn đầu tư nước ngoài (cả ODA và FDI) có hiệu quả phải có một lượng vốn đầu tư trong nước thích hợp, vì vậy cần đề cao các biện pháp huy động vốn trong nước vừa đáp ứng nhu cầu dài hạn về vốn, vừa từng bước giải quyết những mất cân đối ngắn hạn.
* Kết hợp chặt chẽ nguồn ODA và FDI, khai thác triệt để thế mạnh của mỗi hình thức để bổ sung cho nhau, thông qua đầu tư bằng nguồn ODA để mở rộng FDI. Sự phối hợp giữa ODA và FDI có thể thực hiện cụ thể ở hệ thống dự án kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài. Khi soạn thảo hệ thống dự án cần xem xét tính chất, vai trò và khả năng sinh lợi của từng dự án. Những dự án FDI được ưu tiên trên một số địa bàn có vốn ngân sách hoặc vốn ODA đầu tư vào kết cấu hạ tầng, thúc đẩy triển khai mạnh mẽ vốn này theo cơ cấu lãnh thổ hợp lý, nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội của ODA và FDI.
* Phát triển thị trường vốn, đa dạng hoá hình thức vay vốn thông qua bán trái phiếu Chính phủ và cổ phần của các công ty ra nước ngoài tạo điều kiện thu hút vốn dưới nhiều hình thức đa dạng.
* Đẩy mạnh hoạt động ngoại thương, đặc biệt là xuất khẩu, thực hiện chiến lược hướng ngoại để phát triển kinh tế và tăng tích luỹ cho đất nước. Tăng nguồn thu ngoại tệ bằng chính nguồn hàng hoá dịch vụ xuất khẩu của mình là tăng khẳ năng trả nợ cho đất nước, ổn định tiền tệ, giá cả, cải thiện tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán.
ã Phát triển hình thức ODA tín dụng ưu đãi dành cho các doanh nghiệp sản xuất nhằm đầu tư chiều sâu để tăng khả năng cạnh trang của các sản phẩm nội địa trên thị trường thế giới.
ã Thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, tăng hàm lượng công nghiệp trong lượng hàng xuất khẩu, giảm mạnh và đi đến chấm dứt xuất khẩu nguyên liệu thô, sơ chế, giá trị thấp, xây dựng các mặt hàng chủ lực của nước ta cho thị trường các nước khác nhau theo hướng tăng cường quan hệ thương mại với các thị trường truyền thống và mở rộng thị trường mới, có tính toán hiệu quả.
ã Phải tìm ra thị trường hàng hoá mà chúng ta có lợi thế về nguyên liệu tại chỗ, giá nhân công thấp để tạo lợi thế cho xuất khẩu mà không phải nhờ vào việc duy trì tỷ giá hối đoái thấp.
Việc nhập khẩu phải gắn liền với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tiết kiệm ngoại tệ để trả nợ.
1.1.8- Xây dựng cơ chế hoàn trả nợ nước ngoài :
Theo tài liệu của ngân hàng thế giới WB sự tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển trong tương lai sẽ bị 3 yếu tố làm tê liệt đó là gánh nặng nơ nước ngoài trầm trọng, những khó khăn trong cán cân thanh toán và tình trạng thiếu vốn đầu tư mới...
Theo sự phân loại của quỹ tiền tệ quốc tế IMF Việt Nam nằm trong nước nợ chính thức, tuy không phải là nước nợ nhiều nhưng lại nằm trong số 45 nứơc có nền kinh tế nhỏ và mức thu nhập thấp, nghĩa là khó trả nợ. Xét về nợ tuyệt đối thì nợ của Việt Nam không cao nắm nhưng xét về tỷ xuất dịch vụ nợ thì là nước có mức cao nhất. Năm 1990 Việt Nam nợ 14,5 tỷ USD chiếm tới 60% tổng giá trị xuất khẩu. Xét theo cánh tính được các chuyên gia kinh tế nhất trí thì tỷ xuất dịch vụ nợ từ 20% trở nên là nghiêm trọng, như vậy chúng ta ở mức độ rất nghiêm trọng.
Hỗ trợ phát triển chính thức cho Việt Nam gần đây chủ yếu dưới hình thức vốn ưu đãi, trong những năm tới hình thức tín dụng hỗn hợp (tín dụng ưu đãi và tín dụng thương mại) sẽ phổ biến hơn vì vậy ODA thực chất là các khoản nợ phải trả. Cần phải có biện pháp giải quyết nợ nước ngoài nói chung và các khoản tín dụng ODA nói riêng sao cho hợp lý và có hiệu quả- đây cũng là một biện pháp quan trọng để tăng cường khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả ODA.
* Giải pháp về cơ chế vay và trả nợ nước ngoài
ã Xây dựng quỹ trả nợ: Để đảm bảo thanh toán các khoản vay cho các nước và các tổ chức quốc tế cần phải thành lập quỹ trả nợ. Nguồn để nhập quỹ này chủ yếu lấy từ phần chi ngân sách hàng năm đã được quốc hội phê duyệt để trả nợ nước ngoài và phần đóng góp theo quy định đối với những dự án sử dụng ODA đã bắt đầu thu hồi vốn. Số dư quá định mức của quỹ ” lấy viện trợ nuôi viện trợ” cũng có thể được chuyển vào quỹ này.
ã Phải có cơ chế xác định giới hạn tối đa được phép vay nợ nước ngoài. Việc phê chuẩn giới hạn vay, trả nợ nước ngoài hàng năm thuộc thẩm quyền quốc hội, nhưng các cơ quan quản lý kinh tế của chính phủ (cụ thể là Ngân hàng nhà nước và Bộ tài chính) phải đảm bảo và chịu trách nhiệm tổng hợp vay nợ để chuẩn bị cho Quốc hội phê duyệt.
ã Thiết lập và sử dụng hệ thống chỉ tiêu thông tin để quản lý và theo dõi. Phải có các thông tin chính xác, cập nhật về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng GDP, thu chi ngân sách, cán xân thanh toán quốc tế, tín dụng nội địa và một số chỉ tiêu chuyên dùng để đánh giá khả năng hấp thụ nợ, khả năng vay thêm và khả năng hoàn trả nợ...
ã Viện trợ không hoàn lại tuy không nhiều nhưng phải được quản lý chặt chẽ. Các khoản viện trợ của nước ngoài cho chính phủ và các cấp chính quyền phải được đưa vào ngân sách nhà nước để cân đối và sử dụng, không hình thành quỹ riêng. Những khoản tài trợ của các tổ chức quốc tế và cá nhân cho các dự án ngoài ngân sách và cho các tổ chức xã hội cũng phải được chuyển vào ngân hàng để quản lý và chỉ được cấp phát bằng tiền Việt nam theo tỷ giá chính thức ở thời điểm sử dụng, không cấp phát bằng ngoài tệ.
Chính phủ cần thành lập một tổ chức trực tiếp nhận và quản lý ODA cũng như các khoản nợ nước ngoaì khác do thứ trưởng hoặc bộ trưởng bộ tài chính đứng đầu. Cơ quan này không những nắm vững các khoản ODA, các khoản nợ của chính phủ, của các cấp chính quyền mà còn phải hiểu được các khoản nợ của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Đó là yêu cầu quản lý vĩ mô của nhà nước trong điều kiện nền kinh tế mở bởi vì chỉ xét riêng trong cán cân vay lãi, cán cân thanh toán quốc tế thì không phải chỉ có nợ của chính phủ mới nằm trong đó mà nợ của các doanh nghiệp tư nhân của cả nước cũng phải đưa vào và khi trả nợ dù là ai trả cũng phải lấy một phần từ GDP.
1.2. đối với UBND Thành phố Hà Nội
Ngoài việc áp dụng những kiến nghị nêu tại phần trên trong khuôn khổ chung của Chính phủ và quốc gia, căn cứ vào các điều kiện và tình hình thực tế của Thành phố Hà Nội, UBND Thành phố Hà Nội cần có các biện pháp :
1.2.1 hình thành chiến lược thu hút và sử dụng ODA
- Thông qua nghiên cứu quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của thành phố để xây dựng một chiến lược có mục tiêu đón ODA. Lập danh mục dự án cần đầu tư bằng ODA và thứ tự ưu tiên của các dự án này. Xây dựng kế hoạch và các biện pháp cụ thể kể cả việc chuẩn bị vốn đối ứng thực hiện dự án.
- Cần phải có kế hoạch dài hạn cụ thể hơn nhằm thu hút triệt để các nguồn tài trợ của Nhật Bản đặc biệt chú ý khai thác các nguồn vốn mới như MITI, Myiazawa với lượng vốn cam kết lên đến hàng tỷ Yên. Theo thông báo của Chính phủ Nhật Bản, quỹ hợp tác Kinh tế Hải ngoại của Nhật Bản (OECF) sẽ sáp nhập với ngân hàng EXIMBANK Nhật Bản để trở thành Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản vào tháng 10/1999. Ngân hàng này sẽ là một công cụ mới để Nhật Bản thực hiện khoản ODA trị giá 30 tỷ USD do Bộ trưởng Bộ tài chính Nhật Bản - Ông Kiichi Myiazawa đề xuất vào tháng 12/1998. Ngoài ra Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản sẽ tiếp quản vai trò của OECF trong việc giải ngân nguồn vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản và nhiệm vụ của Ngân hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản về thương mại và đầu tư tài chính cho vay bảo lãnh. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng tiềm lực tài chính của tổ chức này sẽ mạnh lên rất nhiều và đây cũng là cơ hội cho Thành phố Hà Nội tranh thủ thêm nguồn vốn ODA tù tổ chức này.
- Thành phố cần phải hình thành một danh mục các dự án kêu gọi ODA (kèm theo với các nghiên cứu cụ thể) trong đó nêu rõ những lĩnh vực cần đầu tư, những ưu tiên, mức độ đóng góp của phía Việt Nam, lượng vốn ODA yêu cầu,. .. để các nhà tài trợ có điều kiện tham khảo cũng như tin utưởng rằng dự án đã được Thành phố dành cho những quan tâm và ưu đãi. Hiện tại cần tập trung ODA cho các lĩnh vực ưu tiên như : Giao thông đô thị (hạ tâng giao thông đô thị, giao thông công cộng), nhà ở (nhà và hạ tầng khu tái định cư), môi trường, htoát nước.
- Thành phố dành một phần kinh phí thích đáng cho việc nghiên cứu quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, nghiên cứu khả thi chuẩn bị cho các dự án đầu tư có quy mô lớn đòi hỏi có sự tham gia của nhiều ngành và cho việc xúc tiến kêu gọi viện trợ cho thành phố.
1.2.2. Tập trung quản lý điều phối và lập kế hoạch ODA
1.2.2.1- Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về ODA tại Hà Nội :
- Tập trung quản lý ODA vào một đầu mối để đảm bảo nguyên tắc “một cửa”. Trên cơ sở các quy định của Nhà nước và những đặc điểm thực tế của thành phố để xây dựng một cơ chế quản lý phù hợp. Phân định rõ ràng và cụ thể chức năng của từng cơ quan quản lý.
- Ngoài ra cơ chế quản lý trên phải xây dựng trên tinh thần tạo điều kiện cho việc thực hiện thuận lợi các dự án ODA, tránh những hó khăn vưỡng mắc có thể làm chậm quá trình thực hiện dự án. Các qui định hành chính cần phải được đơn giản hoá và hệ thống hoá một cách rõ ràng, đặc biệt là các qui định về di dân, giải phóng mặt bằng, thẩm định xây dựng, đấu thầu,...
- Thiết lập một hệ thống thông tin có hiệu quả từ cơ quan quản lý cấp trung ương đến cơ quan chủ quản ở địa phương và chủ dự án. Cơ quan chủ quản của thành phố Hà nội phải thường xuyên liên hệ với Bộ kế hoạch và đầu tư và các cơ quan tổng hợp khác (Bộ ngoại giao, Bộ tài chính...) để nắm vững thông tin về các nguồn ODA có thể có. Khi đã nắm được các thông tin đó, cơ quan chủ quản của thành phố cần thông báo, hướng dẫn các chủ dự án lập dự án hoặc điều chỉnh dự án cho phù hợp với loại vốn và nước cấp ODA. Các chủ dự án cần liên hệ chặt chẽ với cơ quan chủ quản để thông báo kịp thời tiến trình của dự án, những khó khăn tồn tại trong quá trình thực hiện dự án để cùng giải quyết hay kiến nghị lên trên, tránh tình trạng hiện nay là: chỉ khi nào vướng mắc không thực hiên được mới báo cáo thành phố.
1.2.2.2.Tập trung hơn nữa sở hữu nhà nước đối với các dự án ODA
- UBNN thành phố nên giao cho UB kế hoạch thành phố chủ trì phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở tài chính- vật giá. Cục đầu tư phát triển Hà nội và các Sở chuyên ngành lập kế hoạch định kỳ hàng năm và đột xuất để bố trí ngân sách cho các dự án ODA của Nhật Bản được thực hiện đúng tiến độ.
- Tính hiệu quả về kinh tế và tài chính cần phải được xenm xét, cân nhắc và tính toán cẩn thận trong giai đoạn hình thành dự án. CHủ dự án và tư vấn trong giai đoạn này cần phỉa nâng cao hơn nữa trách nhiệm và năng lực đánh giá, phân tích hiệu quả kinh tế của dự án để có thẻ lập được một dự án có chất lượng và tính khả thi cao, tránh tình trạng phỉa sử đổi, điều chính lại dự án sau này. Công tác thẩm định dự án của sở Kế hoạch và Đầu tư cầng phải được chú trọng hơn nữa để đảm bảo giúp chủ đầu tư thấy rõ những htiếu sót, đảm bảo cho thành công sau nàycủa dự án. Công việc thẩm định phải đưựoc tiến hành một cách khoa học, chọn lọc, tránh sa vào tính hình thức.
- Hiện nay tỉ lệ viện trợ không hoàn lại ngày càng ít, ngược lại các dự án vay tín dụng ngày càng nhiều (đặc biệt các dự án vay tín dụng OECFnb), do vậy các cơ quan quản lý cấp Thành phố, các chủ dự án cần phải có chung một nhận thức về trách nhiệm đối với dự án. Tư tưởng cho rằng mốn nợ sẽ do nhà nước trản, các hình thức tahm những, thiếu trách nhiệm trong công việc cần phải được loại bỏ.
- Sử dụng ODA của Nhật Bản thường phải nhập thiết bị kỹ thuật, vật tư của nước đó, vì vậy trong giai đoạn lập dự án nên để các hãng hay công ty của Nhật tham gia ngay từ đầu. Sự tham gia của các hãng này làm cho dự án phù hợp với quy chế sử dụng ODA Nhật và thúc đẩy Chính phủ Nhật quyết định tài trợ. Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán cần thận trọng để không bị hớ, cần nghiên cứu kĩ lưỡng chất lượng hàng và giá quốc tế để tránh bị các công ty Nhật Bản đưa giá cao hơn thị trường quốc tế dẫn đến làm giảm hiệu quả kinh tế của dự án. Chủ dự án nên phối hợp với các cơ quan hữu quan để nắm được các thông tin trước khi đàm phán. Đặc biệt cần tham khảo giá thiết bị, khi cần có thể gợi ý công ty cung cấp thiết bị ở nơi ta giới thiệu.
- Sau khi dự án đã được phê duyệt, thành phố cần hỗ trợ các điều kiện để đảm bảo thực hiện các cam kết đối với đối tác tài trợ (JICA, OECF) như đã ghi trong dự án. Đối với các dự án lớn cần kiểm điểm thường xuyên trong các cuộc giao ban của UBNN thành phố.
- Hiện nay với các khoản vay ưu đãi của OECF, mức độ rút vốn của ta còn quá thấp, nhiều dự án được phê duyệt nhưng vấn chưa được triển khai. Vì vậy, thời gian tới Thành phố phải đẩy nhanh tiến độ rút vốn để tranh thủ những năm đầu ân hạn không phải hoàn trả gốc.
1.2.2.3. Đảm bảo có sự tham gia thích hợp của các bên Việt Nam :
- Cần phải tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa hệ thống tiép nhận quản lý ODA của UBND Thành phố Hà Nội và hệ thống quản lý điều phối của Chính phủ. Sự phối hợp này phải chặt chẽ, bổ sung cho nhau, có trao đổi thông tin. Sở KHĐT phải đảm bảo là cầu nối giữa UBND Thành phố với các cơ quan TW như Bộ KH & ĐT, Văn phòng Chính phủ, Bộ tài chính, Bộ Ngoại giao,...
- UBND Thành phố thông qua Sơ KH&ĐT phải tăng cường công tác chỉ đạo, quản lý đièu hành và giám sát một cáhc thích hợp đối với các cơ quantham gia vào một dự án ODA. Sự hướng dẫn chỉ đạo thích hợp, can thiệp đúng mức của UBND Thành phố cũng như sự chấp hành nghiêm chỉnh, báo cáo chính xác, kịp thời của các chủ dự án, các cấp chính quyền đại phương là điều kiện đảm bảo cho thành công trong việc thực hiện dự án.
- Sự tham gia và ủng hộ của cộng đồng là hết sức quan trọng để triển khai thuận lợi dự án và đảm bảo tính hiệu quả sau này. Việc công bố rộng rãi cac chính sách của nhà nước và của Thành phố, tuyên truyền phổ biến kết hợp giáo dục nhận thức cho người dân, bàn bạc trao đổi để đi đến thống nhất,. ..sẽ giúp loại bỏ những trở ngại trong các bước đền bù giả phóng mặt bằng cũng như trong giai đoạ vận hành dự án.
- Sự tham gia của tư nhân và một dự án là một điều cần phải lưu ý. Trong khi nhà nước, Thành phố có những điểm mạnh về thể chế, chính sách và tiềm lực ngân sách, thì các công ty tư nhân lại có những tiềm năng về kiến hạ tầngức, khả năng thích ứng một cáhc linh hoạt. Sự tham gia này của tư nhân cần được nhìn nhận dưới một góc độ tích cực hơn và Thành phố Hà Nội phải có tiêng nói ủng hộ cũng như khuyến khích khu vực tư nhân này tham dụ vào quá trình thực hiện dự án ODA. Sự tham gia của tư nhân vào việc tư vấn, xây dựng kinh doanh,... chắc chắn sẽ tạo động lực mới để thực hiện nhanh chóng, có chất lượng và thành công cho dự án ODA. Điều này càng có nghĩa quan trọng khi OECF Nhật Bản đang triển khai hình thức tài trợ mới cho Thành phố Hà Nội (mà tập trung vào đầu tư chủ yếu cho khu vực tư nhân) là Tài chính đầu tư khu vực tư nhân - PSIF (Private Sector Investment Finance).
1.2.3-Xây dựng và tăng cường năng lực quản lý, điều phối và thực hiện các dự án ODA của Thành phố Hà Nội :
- Nghiên cứu một số hệ thống tổ chức về kinh tế đối ngoại có chân rết ở các sở, ban, ngành có nhiều dự án như: Sở giao thông công chính, Sở giáo dục đào tạo, Sở y tế, Sở lao động thương binh và xã hội, Sở khoa học công nghệ và môi trường... trong đó có chức danh quản lý chuyên trách các dự án ODA Nhật Bản.
- Các cấp ở cơ sở cần có cán bộ theo dõi kiểm nghiệm. Các chân rết phải chịu sự chỉ đạo chuyên môn từ các cơ quan phụ trách xuống (hiện nay là Sở Kế hoạch và đầu tư).
- Xây dựng lực lượng cán bộ chuyên viên làm công tác quản lý ODA mạnh về chuyên môn. Tổ chức lớp tập huấn bồi dưỡng về nghiệp vụ, nâng cao trình độ cho đội ngũ làm công tác viện trợ cho thành phố. Thành phố cần biên chế thêm cán bộ cho đơn vị này vì hiện nay lực lượng này qua mỏng không đảm nhiệm hết chức năng của mình.Thành phố Hà Nội cần phải hình thành một chiến lược quản lý rủi ro cho các dự án ODA của Thành phố trong khuôn khổ chung với chiến lược quản lí rủi ro của Chính phủ. Ngoài việc chú trọng tới rủi ro về lãi suất và tỷ giá hối đoái (đặc biệt là đối với các dự án vay tín dụng bằng đồng Yên của Nhật Bản, cũng cần tính tới các rủi ro sau :
+ Rủi ro về xây dựng (Dự án không được xây dựng và hoàn thành đúng tiến độ để có thể đi và vận hành và có nguồn thu để hoàn trả vốn vay).
+ Rủi ro hàng hoá (nhu cầu sử dụng sản phẩm của dự án không đủ để phát sinh nguồn thu thành toán vốn vay). Điều này có ý nghĩa khi phần lớn các dự án vay ODA (đặc biệt ODA của Nhật Bản) đang tập trung cho các dự án về hạ tầng cơ sở như giao thông, thoát nước, môi trường, là những dự án mà khả năng sinh lời rất nhỏ.
+ Rủi ro chính trị (là trường hợp có sự can thiệp của nhà nước vào dự án hoặc có những biến cố về nguồn tài chính cho dự án từ nước cung cấp ODA khiến cho dự án không thể tiếp tục triển khai).
2-Đối với mối quan hệ giưa các cơ quan Chính phủ Việt Nam và phía các nhà tài trợ.
2.1 ở tầm Chính phủ :
- Cần phải cải thiện, tăng cường và phát triển hơn nữa các mối quan hệ giữa các cơ quan Chính phủ Việt Nam và các cơ quan tài trợ nước ngoài. Chính sách ngoại giao của Chính phủ cần phải khéo léo, linh hoạt và thực sự thuyết phục được cộng đồng quốc tế, thể hiện thiện chí và quyết tâm đổi mới, cải cáhc kinh tế, khuyến khích đầu tư tư nhân của Chính phủ Việt Nam.
- Các nhà tài trợ cũng cần phải tìm hiểu và có tiếng nói chung với chính phủ trong giải quyết các bất đồng và vướng mắc. Các qui định, điều kiện của các nhà tài trợ cần phải xuất phát từ điều kiện thực tế của Việt Nam và phải được vận dụng một cách linh hoạt trong thực tế.
2.2. ở tầm Thành phố Hà Nội :
- UBND Thành phố Hà Nội cần phải phát triển hơn nữa mối quan hệ hiện có với các cơ quan đại diện tài trợ cho Thành phố. Cần có sự tiếp xúc, gặp gỡ định kì, trao đổi thông tin, bàn bạc tháo gỡ khó khăn trên cơ sở hợp tác cùng có lợi. Đặc biệt công tác đối ngoại cần phải được tăng cường để phục vụ hiệu quả cho mục đích trên. Đối với các cơ quan tài trợ Nhật Bản, 3 cơ quan quan trọng nhất hiện nay là Đại Sứ quán Nhật Bản, Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), quĩ Hợp tác Kinh tế Hải ngoại (OECF).
- Giữa các cơ quan quản lý Thành phố, các chủ dự án và các công ty tư vấn giám sát xây dựng, các nhà thầu xây lắp, cung cấp thiết bị của nước ngoài cần phải có sự hợp tác chặt chẽ trong quá trình thực hiện xây dựng dự án ODA để tránh những bất đồng và những bất lợi cho các bên.
Kết luận
Mặc dù việc sử dụng nguồn hỗ trợ chính thức ODA có thể đưa đến nhiều nguy cơ, lợi ích mà ODA đem lại cho nước cung cấp ODA có thể nhiều hơn nước nhận,... Song trong giai đoạn phát triển hiện naycủa Việt nam cũng như của Thành phố Hà Nội, ODA thực sự là một nguồn vốn quan trọng mà chúng ta cần khai thác để đáp ứng những nhu cầu cần thiết, phục vụ cho sự phát triển lâu dài.
Nhật Bản trong những năm qua và trong nhiều năm tiếp theo chắc chắn vẫn là một trong những đối tác cung cấp ODA nhiều nhất cho Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Kinh nghiệm cho thấy, trong số những đối tác cung cấp ODA cho Hà Nội thì Nhật bản là nước có các điều kiện ràng buộc thoáng hơn cả đồng thời lượng viện trợ không hoàn lại trong ODA của Nhật chiếm tỷ lệ cao nhất. Như vậy trong tương lai việc khai thác và sử dụng nguồn vốn ODA của Nhật Bản vẫn còn nhiều việc đán bàn và đáng làm nhằm mang lại hiệu quả kinh tế đích thực từ các dự án sử dụng nguồn vốn này, giúp thủ đô Hà Nội ngày càng phồn thịnh, xứng đáng là niềm tự hào của nứơc.
Trong thời gian thực tập tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, được sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn và sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo, các cán bộ ở Sở, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội. Do chưa có điều kiện đi sâu sát từng dự án cụ thể nên không tránh khỏi những sai sót, tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy giáo, cô giáo và người đọc để có thể nâng đề tài này lên cao hơn.
Mục lục
Trang
Lời mở đầu
Chương I : Khái quát về ODA của Nhật Bản.
1
I. Khái niệm và cấu thành ODA nói chung và ODA Nhật Bản nói riêng
1
1. Nguồn gốc lịch sử và các đối tác cung cấp ODA trên thế giới
1
1.1. Nguồn gốc của ODA
1
1.2. Các đối tác cung cấp ODA trên thế giới
3
1.2.1. Các tổ chức viện trợ đa phương
3
1.2.2. Các nước viện trợ song phương
6
2. Khái niệm ODA của Nhật Bản
7
2.1. ODA của Nhật Bản là gì?
7
2.2. Cơ cấu ODA của Nhật Bản
8
3. Các cơ quan, quỹ viện trợ của Nhật Bản
9
3.1.Cơ quan hợp tác quốc tế của Nhật Bản (JICA)
9
3.2. Quỹ hợp tác kinh tế Hải ngoại (OECF)
10
3.3. Quỹ đầu tư hỗ trợ cho khu vực tư nhân(OECF- PSIF)
11
3.4.Quỹ tín dụng MIYAZAWA
11
3.5. Mối quan hệ giữa JICA và OECF
13
4. Các hình thức viện trợ song phương của Nhật Bản
14
4.1. Viện trợ không hoàn lại
14
4.2. Hợp tác kĩ thuật
16
4.3. Viện trợ dưới hình thức cho vay (cho vay ODA)
19
II. Các thủ tục cần thiết để cấp viện trợ ODA của Nhật Bản cho một đề án
22
1. Mục tiêu viện trợ của Nhật Bản
22
2. Đặc điểm viện trợ của Nhật bản
24
3 Các thủ tục và điều kiện cho vay của Nhật Bản
30
Chương II: Thực trạng việc thu hút và sử dụng ODA cuả Nhật Bản ở Hà Nội trong thời gian qua
33
I. Tình hình kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội trong thời gian gần đây
33
1. Tình hình kinh tế xã hội
33
2. Hiện trạng cơ sở hạ tầng của Hà Nội
37
II. Tình hình thu hút và sử dụng ODA ở Hà Nội
40
1. Tổng kết lượng vốn vào Hà Nội
40
2. Các dự án ODA ở Hà Nội
41
A. Các dự án về hạ tầng cơ sở
42
A.1. Các dự án cấp nước
42
A.2. Các dự án thoát nước
43
A.3. Các dự án giao thông đô thị
44
A.4. Các dự án khu đô thị
45
A.5. Các dự án môi trường đô thị
45
B. Các dự án về cơ sở hạ tầng xã hội
46
B.1.Các dự án nâng cao năng lực quản lý của các cơ quan quản lý và môi trường
46
B.2. Các dự án trong lĩnh vực giáo dục đào tạo
47
III. Đánh giá thực trạng việc thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản tại Hà Nội
48
1. Quá trình triển khai các dự án ODA của Nhật Bản tại Hà Nội
48
1.1.Dự án cấp nước Gia Lâm
48
1.2. Dự án Quy hoạch tổng thể thoát nước và xử lí nước thải Thành phố Hà Nội
51
1.3.Dự án thoát nước Hà Nội giai đoạn I
52
1.4.Dự án Phát triển hạ tầng đô thị Bắc Thăng Long
53
1.5. Dự án Phát triển cơ sở hạ tầng đô thị Nam Thăng Long
54
1.6.Dự án Quy hoạch tổng thể và nghiên cứu khả thi về bảo vệ môi trườngđô thị và công nghiệp Hà Nội
54
1.7. Dự án Hình thành hạng mực các dự án phát triển hạ tầng đô thị Hà Nội (SAPROF)
55
1.8.Dự án Nghiên cứu khả thi xử lí rác thải và than thành năng lượng điện.
55
1.9.Dự án Quy hoạch giao thông đô thị Hà Nội
55
1.10.Dự án Quy hoach tổng thể công nghiệp Hà Nội
55
2. Công tác quản lí và sử dụng nguồn vốn ODA của Hà Nội
56
3. Đánh giá chung
58
3.1. Những thành tựu đạt được
58
3.1.1. Về quy mô
58
3.1.2. ý nghĩa về mặt kinh tế
59
3.1.3. ý nghĩa về mặt xã hội
59
3.1.4.Về kiến quy hoạch và cảnh quan môi trường
59
3.2. Những hạn chế cần giải quyết
60
3.2.1. Về hình thành và lựa chọn dự án
60
3.2.2. Về công tác chuẩn bị dự án
61
3.2.3. Về côngtác thẩm định dự án
61
3.2.4. Về thực hiện dự án
62
3.2.5. Về kiểm, tra đánh giá dự án
62
Chương III: Các giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thu hút và sử dụngnguồn vốn ODA của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới
64
I. Định hướng chung về phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội
64
1. Vị trí chiến lược của Hà Nội trong phát triển kinh tế Việt Nam
64
2. Định hướng phát triển kinh tế-xã hội của Hà Nội (đến năm 2020)
65
II. Những yêu cầu và khả năng thu hút ODA của Hà Nội
70
1. Yêu cầu thu hút ODA của Hà Nội
70
2 Khả năng huy động nguồn vốn ODA nói chung và của Nhật Bản nói riêng
72
2.1. ODA đa phương
72
2.2. ODA song phương
73
III. Một số biện pháp nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng ODA trên địa bàn Hà Nội
73
1. Đối với các cơ quan của Chính phủ
74
1.1. Kiến nghị với cơ quan Trung ương
74
1.2. Đối với UBND Thành phố Hà Nội
84
2. Đối với mối quan hệ với các nhà tài trợ
89
2.1. ở tầm Chính phủ
89
2.2. ở tầm Thành phố Hà Nội
89
Kết luận
90
Phụ lục
Tài liệu tham khảo
ODA của các nước thuộc Uỷ ban Viện trợ phát triển (DAC) năm 1996
TT
Tên nước
Giátrị ODA
(Triệu USD)
Tỷ lệ đến với DAC
Tỷ lệ so với năm trước
Tỷ lệ ODA/GDP(%)
Xếp
Hạng
1
Nhật Bản
13239
22,9
17,6
0,29
14
2
Mỹ
9851
17,1
-2,9
0,15
21
3
Pháp
8447
14,6
6,7
0,64
5
4
Đức
6751
11,7
-2,9
0,33
10
5
Anh
3085
5,3
5,7
0,30
12
6
Hà Lan
2531
4,4
0,2
0,76
4
7
Canada
2230
3,9
-6,0
0,42
6
8
ý
1967
3,4
-35,4
0,20
20
9
Thuỵ Điển
1703
2,9
-3,7
0,90
3
10
Đan Mạch
1450
2,5
8,2
1,03
2
11
TâyBan Nha
1247
2,2
2,8
0,26
17
12
Na uy
1137
2,0
12,1
1,05
1
13
úc
1087
1,9
14,1
0,38
8
14
Thuỵ Sỹ
978
1,7
23,3
0,36
9
15
Bỉ
677
1,2
-16,2
0,30
12
16
áo
561
1,0
3,1
0,29
14
16
Phần Lan
289
0,5
-18,6
0,31
11
17
Bồ Đào Nha
250
0,4
0,8
0,28
16
18
Niu-Di- Lân
111
0,2
13,3
0,24
18
19
Ai- Xơ- Len
105
0,2
29,6
0,24
18
20
Luých-xăm-bua
59
0,1
18,8
0,40
7
Tổng cộng ODA các nứơc DAC
57754
100
2,4
0,29
Nguồn : Bộ Ngoại giao Nhật Bản
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0058.doc