Việc thể hiện được chính kiến của tập
thể HĐDT hoặc Ủy ban trong báo cáo thẩm
tra là rất quan trọng và cần thiết; tuy nhiên,
không phải bao giờ nó cũng được thực hiện
một cách đầy đủ. Sở dĩ có tình trạng này là
do cách thức tổ chức thẩm tra dự án luật,
pháp lệnh của HĐDT, các Ủy ban như đã
nêu trên không bảo đảm được đông đủ
thành viên tham dự (có khi không đủ quá
bán thành viên tham dự). Đây là một trong
những nguyên nhân dẫn đến nhiều trường
hợp báo cáo thẩm tra của HĐDT hoặc các
Ủy ban chỉ nêu được các loại ý kiến khác
nhau chứ không nêu được ý kiến của đa số,
thiểu số HĐDT hoặc Ủy ban. Đồng thời, đối
với những dự án được trình UBTVQH nhiều
lần và mỗi lần cơ quan trình dự án lại chỉnh
lý dự thảo, hoàn thiện tờ trình mới thì HĐDT,
Ủy ban khó có điều kiện để tổ chức họp toàn
thể để thẩm tra nhiều lần. Tình trạng này làm
cho báo cáo thẩm tra chưa phản ánh được ý
kiến của toàn thể HĐDT, Ủy ban.
Ngoài ra, báo cáo thẩm tra của HĐDT,
các Ủy ban của Quốc hội cũng cần thể hiện
được ý kiến chỉ đạo của các cấp lãnh đạo
Đảng và Nhà nước về những vấn đề lớn của
dự án luật, pháp lệnh; trong một số trường
hợp còn phải thể hiện quan điểm của HĐDT,
các Ủy ban của Quốc hội đối với các ý kiến
chỉ đạo đó. Những ý kiến này vừa là cơ sở
cho việc thảo luận, thông qua, vừa là phương
thức để thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo
trong công tác xây dựng pháp luật, nhất
là công tác lập pháp của Quốc hội. Trong
trường hợp dự án được lấy ý kiến các ngành,
các cơ quan hữu quan, ý kiến nhân dân, báo
cáo cũng cần thể hiện được ý kiến và quan
điểm của các cơ quan thẩm tra về nội dung
các ý kiến đó. Đây cũng là một trong những
cơ sở thực tiễn quan trọng để Quốc hội,
UBTVQH xem xét, quyết định thông qua
dự án luật, pháp lệnh.
Việc trình bày báo cáo thẩm tra, nếu so
sánh về mặt hình thức, có nhiều điểm giống
việc thẩm định một dự án kinh tế, một luận
chứng kinh tế - kỹ thuật và việc thẩm định
này phải được tuân thủ theo thủ tục, nội dung
do pháp luật quy định. Chính vì vậy, một báo
cáo thẩm tra cần được quy định cụ thể về
hình thức thể hiện, những nội dung cơ bản
và đặc biệt cần nêu rõ những quan điểm của
cơ quan thẩm tra đối với những vấn đề được
đặt ra, giải quyết trong báo cáo thẩm tra.
Kinh nghiệm cho thấy, với những báo cáo
thẩm tra có chất lượng tốt, quan điểm, lập
luận có tính thuyết phục, rõ ràng, sẽ là một
trong những căn cứ hết sức quan trọng, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thảo luận, xem
xét thông qua dự án luật, pháp lệnh; giúp
cho ĐBQH, UBTVQH, Quốc hội căn cứ để
tỏ thái độ của mình về những vấn đề còn có
ý kiến khác nhau và bảo đảm tiết kiệm được
thời gian, vật chất trong việc xem xét, quyết
định thông qua dự án luật, pháp lệnh.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 267 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Việc tổ chức thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh của hội đồng dân tộc, các ủy ban của quốc hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Trong điều kiện nay, khi phần lớn các đại biểu Quốc hội nước ta
đang làm việc theo chế độ không chuyên trách, hầu hết các dự án
luật được giao cho các bộ, ngành soạn thảo, thì việc nâng cao hiệu
quả hoạt động thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng các văn bản luật do Quốc hội thông qua.
Nguyễn Đình Quyền*
Đinh Thanh Hương**
* TS. Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp.
** ThS. Phó Trưởng Ban Quản lý khoa học, Viện Nghiên cứu Lập pháp.
Abstract
Under current condition, most of the National Assembly deputies
do not work as full-time basis and nearly all of the bill of laws are
initially drafted by the relevant ministries. Therefore, improvement
of the performance quality of the Ethnic Council and Committees
under the National Assembly plays a very important role in
increasing the quality of legal documents approved by the National
Assembly.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: thẩm tra dự án luật, pháp
lệnh; cơ quan chủ trì thẩm tra; cơ quan
soạn thảo
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 31/08/2018
Biên tập : 12/09/2018
Duyệt bài : 15/09/2018
Article Infomation:
Keywords: Verification of bills of
law and draft ordinances; the agency
in charge of the verification; drafting
agency.
Article History:
Received : 31 Aug. 2018
Edited : 12 Sep. 2018
Approved : 15 Sep. 2018
VIỆC TỔ CHỨC THẨM TRA DỰ ÁN LUẬT, DỰ ÁN PHÁP LỆNH
CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC, CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI1
1 Nghiên cứu này là kết quả thuộc phạm vi Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Hoạt động của Đại biểu Quốc hội kiêm
nhiệm - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện Nghiên cứu lập pháp do TS. Nguyễn Đình Quyền làm chủ nhiệm.
Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, công tác thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của Hội đồng Dân tộc
(HĐDT) và các Ủy ban của Quốc hội ngày
càng đi vào chiều sâu: một mặt, xem xét tính
hợp hiến, tính thống nhất, tính đồng bộ cả về
nội dung và hình thức thể hiện của các dự
án luật, pháp lệnh trong tổng thể hệ thống
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 21(373) T11/2018
các văn bản đã, đang trù liệu ban hành; mặt
khác, xem xét tính khoa học, tính phù hợp
với thực tiễn, phù hợp với nguyện vọng, ý
chí của nhân dân. Việc cân nhắc, xem xét
một cách thận trọng tất cả các ý kiến khác
nhau trong quá trình xây dựng luật, pháp
lệnh đã và đang làm cho công tác thẩm tra
dự án luật, pháp lệnh ngày càng phong phú,
khoa học và toàn diện hơn. Tuy nhiên, trong
điều kiện hiện nay, khi phần lớn các đại biểu
Quốc hội (ĐBQH) làm việc theo chế độ
không chuyên trách, hầu hết các dự án luật
được giao cho các bộ, ngành soạn thảo, thì
việc nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm tra
của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội đóng
vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng các văn bản luật do Quốc hội
thông qua.
1. Tổ chức thẩm tra Chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh
Theo quy định của Điều 47 Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
(VBQPPL) năm 2015, Ủy ban Pháp luật tập
hợp và chủ trì thẩm tra đề nghị về chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan,
tổ chức, ĐBQH và kiến nghị về luật, pháp
lệnh của ĐBQH.
Có thể khẳng định rằng, Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh (CTXDLPL) là
một định hướng quan trọng trong công tác
lập pháp của Nhà nước ta, đồng thời cũng
đặt ra mục tiêu để Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội phấn đấu thực hiện. Việc xây
dựng và ban hành CTXDLPL đã bước đầu
được gắn với chương trình phát triển kinh
tế - xã hội 05 năm và hàng năm, gắn với việc
từng bước đổi mới quy trình xây dựng pháp
luật, trên cơ sở những yêu cầu bức xúc của
cuộc sống. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc
xây dựng, thẩm tra, cho ý kiến và xem xét
thông qua dự kiến Chương trình còn thiếu
những cơ sở khoa học và căn cứ thực tiễn;
còn mang tính chất sự vụ tác chiến, chưa có
một chiến lược toàn diện.
Qua các nhiệm kỳ của Quốc hội, việc
thực hiện CTXDLPL hàng năm thường
không đạt được 100% vì các lý do sau: một
là, các cơ quan quản lý nhà nước đều có nhu
cầu ban hành văn bản pháp luật, pháp lệnh
trong lĩnh vực mà bộ ngành mình quản lý;
hai là, việc thẩm tra thường thiếu những căn
cứ thực tiễn để xác định tính cần thiết, thứ tự
ưu tiên của việc đưa một dự án vào Chương
trình, cũng như quá trình chuẩn bị, khả năng
nghiên cứu, soạn thảo dự án đó; ba là, nhiều
dự án được đưa vào Chương trình mới chỉ
dừng lại ở tên gọi, chưa xác định rõ phạm
vi, đối tượng điều chỉnh cũng như những nội
dung cơ bản của dự án; bốn là, việc tổ chức
thẩm tra dự kiến Chương trình thường thiếu
khâu khảo sát thực tiễn, chưa làm việc cụ thể
với các cơ quan có liên quan về đề nghị đưa
các dự án vào dự kiến Chương trình; không
nắm được tiến độ, khả năng và chất lượng
soạn thảo.
Khi Quốc hội xem xét để quyết định
đưa một dự án vào CTXDLPL hàng năm,
Quốc hội đã phải xem xét toàn diện các mặt
của tính cần thiết ban hành văn bản được
đưa vào Chương trình. Tuy nhiên, trong quá
trình xây dựng và trình các dự án luật, pháp
lệnh, cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra
lại đi xem xét, chứng minh việc cần thiết
hoặc không cần thiết ban hành văn bản.
Chúng tôi cho rằng, việc xem xét sự cần
thiết ban hành văn bản luật, pháp lệnh và
thứ tự ưu tiên phải được làm rõ ngay từ khi
lập Chương trình, có như vậy mới đáp ứng
yêu cầu của công tác xây dựng pháp luật,
bảo đảm tính khoa học, tính có căn cứ và
khả thi của CTXDLPL đã được Quốc hội
quyết định.
2. Phân công thẩm tra dự án luật, pháp
lệnh sau khi Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh đã được Quốc hội thông qua
Việc sớm phân công cơ quan soạn
thảo, cơ quan thẩm tra đối với các dự án
luật, pháp lệnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho các cơ quan hữu quan có kế hoạch phối
hợp chặt chẽ trong việc triển khai thực hiện
CTXDLPL của Quốc hội. Kinh nghiệm
cho thấy, việc phân công hợp lý, đúng chức
năng, chuyên môn của cơ quan soạn thảo,
cơ quan thẩm tra là một trong những yếu
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 21(373) T11/2018
tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng,
thẩm tra và bảo đảm chất lượng các dự án.
Theo quy định của Hiến pháp năm
2013, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2015,
thẩm quyền thẩm tra của HĐDT, các Ủy
ban của Quốc hội được quy định cụ thể hơn.
Đây là cơ sở pháp lý để Ủy ban Thường vụ
Quốc hội (UBTVQH) phân công thẩm tra
dự án luật, pháp lệnh cho HĐDT, từng Ủy
ban của Quốc hội. Tuy nhiên, việc triển khai
những quy định này thực tế không đơn giản
và không phải trong mọi trường hợp, việc
phân công cho HĐDT, Ủy ban của Quốc hội
thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh đều đã
khoa học, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
của mỗi cơ quan.
Điều đáng lưu ý là trong nhiều luật,
pháp lệnh thường chứa đựng những nội dung
rất quan trọng về hoạt động quản lý nhà nước
đối với từng lĩnh vực mà luật, pháp lệnh quy
định và nội dung này có quan hệ mật thiết,
không thể tách rời với pháp luật về tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt
là về phạm vi thẩm quyền quản lý nhà nước
của từng cơ quan ở trung ương hoặc từng
cấp chính quyền địa phương. Trong trường
hợp này, Ủy ban Pháp luật cho dù chỉ với tư
cách là Ủy ban tham gia thẩm tra, song vẫn
có một trách nhiệm lớn và không thể thiếu
trong việc cho ý kiến về những dự án luật,
pháp lệnh do HĐDT, các Ủy ban khác của
Quốc hội thẩm tra.
3. Chuẩn bị cuộc họp thẩm tra
Khoản 4 Điều 63 Luật Ban hành
VBQPPL năm 2015 quy định, cơ quan
thẩm tra có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức,
ĐBQH trình dự án, dự thảo báo cáo, giải
trình, cung cấp thông tin, tài liệu về những
vấn đề liên quan đến nội dung của dự án, dự
thảo; tự mình hoặc cùng cơ quan, tổ chức
chủ trì soạn thảo tổ chức hội thảo, khảo
sát về những vấn đề thuộc nội dung của dự
án, dự thảo. Quá trình thực hiện quy định
này cho thấy, trong một số trường hợp, dự
án luật, pháp lệnh đã được trình Quốc hội,
UBTVQH và đưa vào chương trình kỳ họp
Quốc hội, phiên họp của UBTVQH, nhưng
lại thiếu các thông tin, tư liệu cần thiết và
trong nhiều trường hợp, các thông tin này lại
mang ý nghĩa quyết định cho việc thẩm tra
của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội. Chẳng
hạn như, khi soạn thảo dự án luật, pháp lệnh,
cơ quan soạn thảo chưa tiến hành tổng kết
thực tiễn thi hành, chưa lấy ý kiến các cơ
quan, tổ chức hữu quan, chưa có ý kiến chính
thức của từng thành viên Ban soạn thảo về
dự án mà chủ yếu là ý kiến của cơ quan chủ
trì soạn thảo đối với các nội dung của dự án
hoặc chưa được thảo luận tập thể tại cơ quan
có thẩm quyền trình Thực tế cho thấy, khi
chưa có đủ thông tin, tư liệu cần thiết, nhất
là ý kiến của các cơ quan có liên quan tới
nội dung quy định của dự án luật, pháp lệnh
mà theo yêu cầu vẫn phải tiến hành thẩm tra,
thì việc xử lý các hậu quả sau đó gặp không
ít khó khăn, tốn nhiều thời gian và như vậy
thường là phải thẩm tra lại. Chúng tôi cho
rằng, trong các trường hợp này, Thường trực
HĐDT hoặc các Ủy ban của Quốc hội cần
báo cáo và đề nghị UBTVQH chưa đưa dự án
đó vào chương trình kỳ họp Quốc hội hoặc
phiên họp của UBTVQH; đồng thời yêu cầu
cơ quan soạn thảo phải hoàn thiện các bước
theo quy định của pháp luật và bảo đảm cung
cấp đầy đủ các thông tin cần thiết trước khi
tiến hành cuộc họp thẩm tra để trình Quốc
hội, UBTVQH xem xét, quyết định.
4. Các phương thức tổ chức cuộc họp
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh
Theo quy định của khoản 1 Điều 66
Luật Ban hành VBQPPL năm 2015, việc
thẩm tra bao gồm các giai đoạn thẩm tra sơ
bộ và thẩm tra chính thức. Tuy nhiên, trên
thực tế, việc tổ chức cuộc họp thẩm tra được
tiến hành bằng các phương thức linh hoạt
hơn, theo các hình thức sau:
- Họp toàn thể HĐDT hoặc các Ủy
ban chủ trì thẩm tra với sự tham gia của đại
diện Thường trực Ủy ban hữu quan tại một
địa điểm hoặc phân chia làm hai bộ phận tổ
chức họp thẩm tra ở phía Bắc và phía Nam.
- Họp chung giữa Thường trực Ủy ban
chủ trì thẩm tra với đại diện Thường trực Ủy
ban tham gia thẩm tra.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 21(373) T11/2018
- Họp Thường trực HĐDT hoặc Ủy
ban chủ trì thẩm tra mở rộng bao gồm các
thành viên trong Thường trực và một số
thành viên khác không nằm trong Thường
trực Ủy ban.
- Họp Thường trực HĐDT hoặc Ủy
ban chủ trì thẩm tra kết hợp gửi lấy ý kiến tất
cả các thành viên của cơ quan chủ trì thẩm
tra. Bộ phận Thường trực tổng hợp ý kiến để
xây dựng thành ý kiến thẩm tra của HĐDT
hoặc Ủy ban.
- Cá biệt, tổ chức họp toàn thể cơ quan
chủ trì thẩm tra với toàn thể Ủy ban tham gia
thẩm tra.
Như vậy, trên thực tế, việc tổ chức
phiên họp thẩm tra của HĐDT, các Ủy ban
của Quốc hội vượt ra ngoài các phương thức
được quy định tại Điều 66 Luật Ban hành
VBQPPL năm 2015. Sở dĩ có tình trạng trên
là do hầu hết các thành viên của HĐDT, các
Ủy ban của Quốc hội làm việc theo chế độ
không chuyên trách, lại cư trú, công tác tại
nhiều địa phương; chức năng chính của họ
không phải duy nhất làm nhiệm vụ ĐBQH,
càng không phải là thường xuyên, chuyên
nghiệp nghiên cứu, xem xét để thẩm tra các
dự án luật, pháp lệnh mà là đảm nhiệm công
việc ở các cơ quan, ngành, địa phương, nơi
họ công tác; nhiều người còn là cán bộ chủ
chốt ở các cơ quan, địa phương đó. Vì vậy,
việc tổ chức họp toàn thể HĐDT hoặc Ủy
ban thường xuyên để thẩm tra các dự án luật,
pháp lệnh gặp rất nhiều khó khăn. Thực tiễn
cho thấy, không phải tất cả các dự án luật,
pháp lệnh đều được toàn thể HĐDT hoặc
các Ủy ban tổ chức họp thẩm tra, nhất là đối
với các dự án luật, pháp lệnh phải trình và
thẩm tra nhiều lần. Đối chiếu với nguyên tắc
làm việc theo chế độ tập thể và quyết định
theo đa số (khoản 1 Điều 66 Luật Tổ chức
Quốc hội năm 2015) thì đây là một trong
những tồn tại cần được sớm xem xét và có
phương án khắc phục trong hoạt động của
HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội.
Thực tiễn cho thấy, việc tổ chức họp
toàn thể HĐDT, các Ủy ban hoặc phối hợp
toàn thể giữa cơ quan chủ trì và cơ quan
tham gia thì chất lượng thẩm tra được bảo
đảm một cách toàn diện hơn, đồng thời thể
hiện rõ được chính kiến, quan điểm của toàn
thể Ủy ban đối với từng vấn đề của dự án
thông qua nguyên tắc làm việc tập thể và
quyết định theo đa số. Do ý kiến của các
thành viên được xuất phát từ tính chất đặc
thù của từng địa phương, từng ngành, từng
lĩnh vực hoạt động của họ nên nội dung các
vấn đề của dự án sẽ được phát hiện và làm rõ
hơn để đi đến biểu quyết nhất trí hoặc không
nhất trí. Các hình thức tổ chức thẩm tra khác
đều có những mặt hạn chế nhất định. Ví dụ,
trường hợp họp Thường trực để thẩm tra,
đồng thời gửi dự án kèm theo Tờ trình để lấy
ý kiến bằng văn bản của từng thành viên Ủy
ban, sau đó tập hợp lại thành báo cáo thẩm
tra là một cách làm có nhiều hạn chế, vì các
thành viên do không được trực tiếp thảo luận
về các vấn đề thuộc nội dung của dự án,
thiếu thông tin của các thành viên Ủy ban
ở các địa phương, ngành, lĩnh vực khác; do
đó, ý kiến nêu ra khó có thể có sự cân nhắc
toàn diện. Trường hợp phiên họp thẩm tra
thiếu quá nhiều các thành viên nên không có
điều kiện biểu quyết; trong trường hợp này,
báo cáo thẩm tra thường đề cập những loại ý
kiến của thành viên HĐDT hoặc Ủy ban về
một số vấn đề, nhưng thiếu quan điểm của
đa số thành viên theo nguyên tắc biểu quyết
tập thể, quyết định theo đa số về các vấn
đề của dự án. Như vậy sẽ làm hạn chế chất
lượng tham mưu cho Quốc hội, UBTVQH
trong việc thảo luận, xem xét và quyết định
thông qua.
Việc tổ chức phối hợp thẩm tra của
HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội cũng đặt
ra những vấn đề cần nghiên cứu làm rõ, rút
kinh nghiệm. Trên thực tế, việc tham gia
thẩm tra của HĐDT hoặc các Ủy ban hữu
quan thường chỉ do đại diện của bộ phận
Thường trực tham gia và phát biểu ý kiến,
thậm chí trong một số trường hợp chỉ ý kiến
cá nhân của các thành viên trong Thường
trực hoặc chỉ là sự tham gia của chuyên viên
nghiên cứu của các cơ quan này. Theo quy
định của pháp luật, trong quá trình thẩm tra,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 21(373) T11/2018
HĐDT, Ủy ban tham gia thẩm tra có thể gửi
ý kiến của mình cho Ủy ban chủ trì thẩm
tra. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, HĐDT và
các Ủy ban của Quốc hội làm việc này cũng
chưa nhiều; một số ít trường hợp có gửi ý
kiến bằng văn bản đến cơ quan chủ trì thẩm
tra những cũng chỉ là ý kiến của Thường
trực hoặc đại diện Thường trực. Như vậy, rõ
ràng là giữa quy định của pháp luật và thực
tiễn vẫn còn có khoảng cách, hay tính khả
thi của các quy định hiện hành còn hạn chế.
Đây cũng là một vấn đề cần được khắc phục
trong công tác tổ chức cũng như xem xét lại
tính khả thi các quy định của pháp luật.
5. Tiến hành thảo luận tại phiên họp thẩm tra
Khoản 3 Điều 63 Luật Ban hành
VBQPPL năm 2015 quy định, cơ quan chủ
trì thẩm tra có thể mời đại diện cơ quan, tổ
chức có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa
học và đại diện các đối tượng chịu sự tác
động trực tiếp của văn bản tham dự cuộc
họp do mình tổ chức để phát biểu ý kiến về
những vấn đề liên quan đến nội dung của dự
án, dự thảo.
Sau khi nghe Chủ tọa phiên họp
(thường là Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch
HĐDT; Chủ nhiệm hoặc Phó Chủ nhiệm
các Ủy ban của Quốc hội) nêu ra yêu cầu
của phiên họp thẩm tra; đại diện lãnh đạo cơ
quan soạn thảo được thừa ủy quyền của cơ
quan có quyền trình dự án luật, pháp lệnh
đọc Tờ trình về nội dung của dự án trong đó
đề cập cả những vấn đề có ý kiến khác nhau
trong quá trình soạn thảo; đồng thời trả lời,
giải thích những vấn đề mà thành viên của
cơ quan thẩm tra quan tâm. Sau đó, người
chủ trì cuộc họp có thể mời các cơ quan, tổ
chức, cá nhân hữu quan và các chuyên gia
phát biểu những vấn đề có liên quan, kể cả ý
kiến phát biểu tham mưu của bộ phận giúp
việc. Các thành viên HĐDT, Ủy ban thảo
luận về các quan điểm, nguyên tắc, nội dung
và cách thể hiện của dự án. Kết thúc phiên
họp, chủ tọa kết luận, tóm lược ý kiến chung
của cuộc họp thẩm tra, đồng thời đề nghị cơ
quan soạn thảo phát biểu ý kiến nghiên cứu
tiếp thu chỉnh lý, hoàn thiện dự án.
Trong trường hợp có những vấn đề
lớn liên quan tới chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước và các ý kiến tại cuộc họp
thẩm tra giữa cơ quan soạn thảo dự án luật
với cơ quan chủ trì thẩm tra còn nhiều khác
biệt, chưa thống nhất thì các cơ quan này có
trách nhiệm báo cáo lên cấp có thẩm quyền
để cho ý kiến chỉ đạo trước khi trình báo cáo
thẩm tra trước Quốc hội hoặc UBTVQH .
Thực tế phát sinh vấn đề cần xử lý là
sau khi có phiên họp thẩm tra của HĐDT
hoặc Ủy ban của Quốc hội thì cơ quan soạn
thảo dự án tiếp thu ý kiến của cơ quan thẩm
tra để chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh và làm
lại tờ trình, dự án mới để trình ra trước Quốc
hội, UBTVQH. Trong trường hợp này, cơ
quan thẩm tra thường không có điều kiện về
thời gian để tổ chức họp toàn thể thẩm tra
lại dự án đã được tiếp thu chỉnh lý; do đó,
bộ phận thường trực của cơ quan thẩm tra sẽ
xử lý vấn đề này. Như vậy, báo cáo thẩm tra
có thể không phản ánh hết được toàn diện ý
kiến của tất cả các thành viên Ủy ban. Đây
là vấn đề cần được rút kinh nghiệm ở khâu
tổ chức thực hiện.
6. Trình báo cáo thẩm tra dự án luật,
pháp lệnh
Trình báo cáo thẩm tra dự án luật,
pháp lệnh là một trong những hệ quả quan
trọng của hàng loạt các hoạt động thẩm tra
của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội. Việc
một dự án luật, pháp lệnh được soạn thảo để
trình Quốc hội, UBTVQH có bảo đảm chất
lượng hay không phụ thuộc một phần không
nhỏ vào chất lượng của quá trình thẩm tra.
Do đó, việc nâng cao chất lượng các báo cáo
thẩm tra của HĐDT, các Ủy ban của Quốc
hội là một yêu cầu cấp thiết.
Thông thường, nội dung của báo cáo
thẩm tra nêu ý kiến về: các quan điểm, sự
cần thiết phải ban hành, phạm vi quy định,
đối tượng điều chỉnh, nội dung lớn của dự
án, một số vấn đề cụ thể, tên gọi, bố cục dự
án, kỹ thuật soạn thảo văn bản, kiến nghị một
số biện pháp bảo đảm triển khai thực hiện
văn bản trong cuộc sống Một trong những
yêu cầu của nội dung báo cáo thẩm tra là
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 21(373) T11/2018
phải nêu lên được chính kiến, quan điểm của
HĐDT, Ủy ban về những vấn đề được nhất
trí, không nhất trí hoặc còn có ý kiến khác
nhau để làm cơ sở cho ĐBQH thảo luận và
Quốc hội, UBTVQH xem xét, quyết định.
Trên thực tế, các báo cáo thẩm tra không
chỉ nêu lên chính kiến của HĐDT, Ủy ban
về toàn bộ nội dung của Dự án (ví dụ, đối
với Dự án Bộ luật Dân sự, trong Tờ trình
của Chính phủ trình xin ý kiến Quốc hội đi
sâu vào thảo luận 11 vấn đề; nhưng báo cáo
thẩm tra ngoài việc nêu ra chính kiến của Ủy
ban về các vấn đề mà Chính phủ trình, còn
báo cáo thẩm tra về từng phần, từng chương,
từng điều của Dự án Luật). Những ý kiến
này thường được thể hiện dưới các hình thức
như: ý kiến nhất trí của HĐDT, các Ủy ban;
ý kiến đa số thành viên HĐDT hoặc Ủy ban;
ý kiến bảo lưu của một hoặc một số thành
viên HĐDT hoặc Ủy ban
Việc thể hiện được chính kiến của tập
thể HĐDT hoặc Ủy ban trong báo cáo thẩm
tra là rất quan trọng và cần thiết; tuy nhiên,
không phải bao giờ nó cũng được thực hiện
một cách đầy đủ. Sở dĩ có tình trạng này là
do cách thức tổ chức thẩm tra dự án luật,
pháp lệnh của HĐDT, các Ủy ban như đã
nêu trên không bảo đảm được đông đủ
thành viên tham dự (có khi không đủ quá
bán thành viên tham dự). Đây là một trong
những nguyên nhân dẫn đến nhiều trường
hợp báo cáo thẩm tra của HĐDT hoặc các
Ủy ban chỉ nêu được các loại ý kiến khác
nhau chứ không nêu được ý kiến của đa số,
thiểu số HĐDT hoặc Ủy ban. Đồng thời, đối
với những dự án được trình UBTVQH nhiều
lần và mỗi lần cơ quan trình dự án lại chỉnh
lý dự thảo, hoàn thiện tờ trình mới thì HĐDT,
Ủy ban khó có điều kiện để tổ chức họp toàn
thể để thẩm tra nhiều lần. Tình trạng này làm
cho báo cáo thẩm tra chưa phản ánh được ý
kiến của toàn thể HĐDT, Ủy ban.
Ngoài ra, báo cáo thẩm tra của HĐDT,
các Ủy ban của Quốc hội cũng cần thể hiện
được ý kiến chỉ đạo của các cấp lãnh đạo
Đảng và Nhà nước về những vấn đề lớn của
dự án luật, pháp lệnh; trong một số trường
hợp còn phải thể hiện quan điểm của HĐDT,
các Ủy ban của Quốc hội đối với các ý kiến
chỉ đạo đó. Những ý kiến này vừa là cơ sở
cho việc thảo luận, thông qua, vừa là phương
thức để thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo
trong công tác xây dựng pháp luật, nhất
là công tác lập pháp của Quốc hội. Trong
trường hợp dự án được lấy ý kiến các ngành,
các cơ quan hữu quan, ý kiến nhân dân, báo
cáo cũng cần thể hiện được ý kiến và quan
điểm của các cơ quan thẩm tra về nội dung
các ý kiến đó. Đây cũng là một trong những
cơ sở thực tiễn quan trọng để Quốc hội,
UBTVQH xem xét, quyết định thông qua
dự án luật, pháp lệnh.
Việc trình bày báo cáo thẩm tra, nếu so
sánh về mặt hình thức, có nhiều điểm giống
việc thẩm định một dự án kinh tế, một luận
chứng kinh tế - kỹ thuật và việc thẩm định
này phải được tuân thủ theo thủ tục, nội dung
do pháp luật quy định. Chính vì vậy, một báo
cáo thẩm tra cần được quy định cụ thể về
hình thức thể hiện, những nội dung cơ bản
và đặc biệt cần nêu rõ những quan điểm của
cơ quan thẩm tra đối với những vấn đề được
đặt ra, giải quyết trong báo cáo thẩm tra.
Kinh nghiệm cho thấy, với những báo cáo
thẩm tra có chất lượng tốt, quan điểm, lập
luận có tính thuyết phục, rõ ràng, sẽ là một
trong những căn cứ hết sức quan trọng, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thảo luận, xem
xét thông qua dự án luật, pháp lệnh; giúp
cho ĐBQH, UBTVQH, Quốc hội căn cứ để
tỏ thái độ của mình về những vấn đề còn có
ý kiến khác nhau và bảo đảm tiết kiệm được
thời gian, vật chất trong việc xem xét, quyết
định thông qua dự án luật, pháp lệnh.
Với cách đặt vấn đề trên đây, việc
nghiên cứu để thống nhất phương thức tổ
chức thực hiện, cũng như quy chuẩn hóa
cách thể hiện, nâng cao chất lượng báo cáo
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của HĐDT,
các Ủy ban của Quốc hội đang là yêu cầu
cần được nghiên cứu toàn diện, sâu sắc, phù
hợp với thực tế■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 21(373) T11/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- viec_to_chuc_tham_tra_du_an_luat_du_an_phap_lenh_cua_hoi_don.pdf