Trong 2 ca báo cáo của chúng tôi, triệu chứng
khởi phát là đau bụng kèm chướng bụng. 1 ca
đau bụng kéo dài 5 ngày và được điều trị giảm
đau, đến ngày 6 khi có dấu viêm phúc mạc và
chụp CT ghi nhận tụ dịch ổ bụng và bn được
chuyển mổ cấp cứu với kết quả viêm tụy hoại tử
xuất huyết. 1 ca đau bụng kèm tụt HA và tiến
triển tới sốc nhanh chóng sau mổ khoảng 8 giờ.
Thiểu niệu, tăng nitơ máu, giảm Clo máu và
nhiễm toan máu thường rõ trong tiến triển của
bệnh. Chỉ ½ số ca VTCSM báo cáo trong y văn có
xét nghiệm amylase máu. Giá trị amylase máu
rất thay đổi, dao động từ 64-2000 U/L(1,2,3,6,7). Vì
vậy, không nên bỏ qua chẩn đoán dù kết quả
amylase máu bình thường. Vì amylase máu
thường trở về bình thường trong vòng 48 giờ sau
khởi phát viêm tụy(4).
Trong báo cáo này, chỉ 1 ca được xét nghiệm
với amylase máu là 2909 U/L và amylase dịch
dẫn lưu dưới gan là 2424 U/L. Các biểu hiện như
thiểu niệu, tăng BUN, giảm Clo, nhiễm toan máu
xảy ra rõ trong tiến triển của ca này với biểu hiện
sốc không giải thích được lý do dù đã được bồi
hoàn đủ dịch. Cả hai ca đều tử vong trong bệnh
cảnh sốc, vô niệu và suy đa cơ quan.
Hơn 85 thuốc đã báo cáo là nguyên nhân gây
VTC đa dạng từ đơn trị đến kết hợp(3). Cơ chế
khác nhau của viêm tụy do thuốc đã được đưa
ra. Người ta cho rằng hoặc do tụy quá nhạy cảm
hoặc do sự tích lũy chất độc chuyển hóa(3).
Hai bn trong báo cáo của chúng tôi, sử dụng
đồng thời thuốc có thể gây viêm tụy mặc dù
không phải là nhóm thuốc thường gặp gây viêm
tụy (1bn dùng esomeprazol và amlordipine, 1 bn
dùng rabeprazol)(3). Tuy nhiên, 2 bn này đã dùng
thuốc đều đặn trước đó (1 bn dùng 6 ngày và 1
bn dùng 12 ngày). Vì vậy, có vẻ như việc dùng
thuốc không phải là nguyên nhân gây ra VTCSM
ở 2 bn này.
Một khi viêm tụy nghi ngờ, việc kiểm soát bao
gồm hút dạ dày liên tục, cân bằng dịch và điện
giải, kháng sinh phổ rộng, thuốc giảm tiết dịch dạ
dày, tránh dùng morphine và dẫn xuất. Cho an
thần khi có triệu chứng nhiễm độc thần kinh.
Trong trường hợp VTCSM cắt dạ dày Billroth II
do tắc quai tới có thể phòng tránh nhờ cẩn trọng
trong quá trình mổ và phẫu thuật giải áp.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 196 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Viêm tụy cấp sau mổ cắt dạ dày: Báo cáo 2 ca lâm sàng và xem lại y văn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 166
VIÊM TỤY CẤP SAU MỔ CẮT DẠ DÀY:
BÁO CÁO 2 CA LÂM SÀNG VÀ XEM LẠI Y VĂN
Nguyễn Ngọc Anh*, Lê Hoàng Quân*
TÓM TẮT
Viêm tụy cấp sau mổ là biến chứng hiếm gặp nhưng nghiêm trọng và thường gây tử vong trong thời gian
hậu phẫu, chủ yếu xảy ra sau phẫu thuật gần tụy như phẫu thuật dạ dày và đường mật. Cơ chế bệnh sinh vẫn
chưa hoàn toàn sáng rõ nhưng có thể nói là hậu quả của nhiều yếu tố: chấn thương tụy trong mổ, tổn thương nhu
mô tụy do đốt điện hoặc do kéo, tổn thương ống tụy trong quá trình cắt dạ dày và di động tá tràng quá mức được
cho là nguyên nhân chính. Biểu hiện lâm sàng không rõ ràng và thường bị bỏ sót dẫn đến chậm trễ trong chẩn
đoán và điều trị. Chúng tôi báo cáo 2 ca lâm sàng tử vong do biến chứng viêm tụy cấp sau mổ cắt bán phần dạ
dày kèm nạo hạch rộng, và xem lại y văn để tìm hiểu thêm về thể bệnh này.
Từ khóa: Viêm tụy cấp sau mổ, cắt dạ dày bán phần
SUMMARY
POST-GASTRECTOMY ACUTE PANCREATITIS: 2 CASES REPORT AND LITERATURE REVIEW
Nguyen Ngoc Anh, Le Hoang Quan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 4- 2014: 166 - 171
Postoperative acute pancreatitis is a rare complication but serious and often fatal postoperative complication.
It has been described principally after operations on or adjacent to the pancreas such as biliary tract and gastric
surgery. The pathogenesis of this condition is less clear but it may be a result of several factors: pancreatic
parenchymal injury by electrocauterization or traction, or direct injury to the pancreatic duct might occur during
gastrectomy and excess mobilization of the duodenum which have been suggested to induce postoperative
pancreatitis. The clinical manifestations of postoperative pancreatitis are less specific and might lead to
misdiagnose. We describe 2 fatal acute pancreatitis cases following partial gastrectomy plus widen lymph node
dissection and review current literature.
Key words: postoperative acute pancreatitis, partial gastrectomy
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mặc dù hiếm gặp nhưng viêm tụy cấp sau
mổ (VTCSM) đã được y văn ghi nhận(1,2,6). Chủ
yếu xảy ra sau phẫu thuật gần tụy như phẫu
thuật dạ dày và đường mật nhưng cũng có thể
sau một phẫu thuật xa tụy. VTCSM là biến
chứng nặng và thường gây tử vong trong thời
gian hậu phẫu. Tỉ lệ tử vong của VTCSM từ 17
đến 50%(2,7). Những biến chứng nặng khác
thường gặp ở 2/3 bệnh nhân (bn) bao gồm sốc,
nhiễm trùng huyết quanh tụy, nang giả tụy,
dò tụy, hoại tử ruột và xuất huyết nặng(7).
Nhiều nghiên cứu đã ghi nhận đặc tính gây
chết người cao của thể bệnh này. Tuy nhiên,
nhiều trường hợp biểu hiện lâm sàng không rõ
ràng và thường bị bỏ sót gây chậm trễ trong việc
chẩn đoán và điều trị. Chúng tôi báo cáo 2
trường hợp VTCSM cắt dạ dày và xem lại y văn
nhằm tìm kiếm những đặc điểm nổi bật của thể
bệnh này nhằm giúp nhận ra sớm hơn trong
thực hành lâm sàng.
BÁO CÁO CA LÂM SÀNG
Ca lâm sàng 1
Bn nữ 58 tuổi có tiền sử tăng huyết áp đang
* Khoa Gây Mê Hồi Sức BV Nhân Dân 115
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Ngọc Anh ĐT: 0913673757 Email: dranh957@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 167
điều trị và loét dạ dày tá tràng, nhập viện vì đau
thượng vị với kết quả nội soi dạ dày: loét khổng
lồ nhiễm cứng góc bờ cong nhỏ lan sang hang vị.
Các xét nghiệm tiền phẫu trong giới hạn bình
thường. Bn được điều trị trước mổ 6 ngày với
nexium 40mg/ngày, amlor 5mg/ngày, diazepam
5mg/ngày và được mổ chương trình cắt bán
phần dạ dày và nạo hạch rộng với gây mê cân
bằng qua nội khí quản. Thuốc gây mê sử dụng
gồm propofol 100mg, sevofluran 30ml,
sufentanyl 20mcg và esmeron 45mg.
Quá trình phẫu thuật ghi nhận 1 u to vùng
hang vị và mạc nối nhỏ dạ dày xâm lấn đến
thanh mạc, nhiều hạch nhóm 1-6 khoảng 1cm
(T4N2M0). Tiến hành cắt toàn bộ mạc nối lớn, cắt
2/3 dạ dày, đóng mỏm tá tràng, nối vị tràng 2
lớp, nạo hạch nhóm 1-6.
Ngày 1-5 sau mổ: đau bụng vùng vết mổ,
không sốt, bụng chướng nhẹ, dẫn lưu dưới gan
không ra dịch. Hemoglobin (Hb) là 13,5 g/dl (Hb
trước mổ 12,7 g/dl), bn được bổ sung giảm đau
với perfangan, Mobic và morphine
Ngày 6 sau mổ: đau thượng vị và hạ sườn
trái, đề kháng thành bụng rõ. Bạch cầu 21 K/ul
(Neutro chiếm 84%). Hb 11,6 g/dl, toan chuyển
hóa với pH máu 7,34. PaO2 68 mmHg. PaCO2 23
mmHg và HCO3 12,1 mmol/L. Bn không được
xét nghiệm amylase/lipase máu trong suốt quá
trình nằm viện.
CT scan bụng cản quang ghi nhận dịch tự do
trong ổ bụng, quanh gan trái, mặt trước tụy, dưới
hoành trái, quanh lách, mạc nối lớn. Thâm nhiễm
mỡ mạc nối lớn và đông đặc vùng đáy 2 phổi.
Bn được chuyển mổ cấp cứu với kết quả là
viêm tụy hoại tử xuất huyết, phù nề chảy dịch
màu đen không hôi (khoảng 200ml trong ổ
bụng), nhiều vết vảy nến ở mô mỡ dưới gan trái,
trên mạc nối nhỏ trước tụy và rãi rác các quai
ruột. Kiểm tra miệng nối vị tràng tốt, không có
dò mỏm tá tràng.
Sau mổ bn được điều trị tại khoa Hồi Sức
Ngoại 2 ngày trong bệnh cảnh sốc, vô niệu, suy
đa cơ quan. Sau đó người nhà xin về.
Ca lâm sàng 2
Bn nam 58 tuổi, nhập viện vì nôn ói và gầy
sút khoảng 1 tháng. Không tiền sử bệnh lý đặc
biệt. Nội soi dạ dày ghi nhận phần sát tiền môn
vị có loét nhiễm cứng dễ chảy máu gây hẹp môn
vị. Bn được điều trị trước mổ12 ngày với rabeloc
20mg/ngày. Các xét nghiệm tiền phẫu bình
thường. Bn được mổ chương trình cắt bán phần
dạ dày và nạo hạch rộng với gây mê cân bằng qua
nội khí quản. Thuốc sử dụng trong gây mê gồm
propofol 100mg, sevofluran 30ml, sufentanyl
20mcg và atracurium 50mg.
Quá trình phẫu thuật ghi nhận 1khối u ở tiền
môn vị gây hẹp môn vị. Bn được cắt bỏ toàn bộ
mạc nối lớn, cắt bán phần dạ dày, nạo hạch
nhóm 1-6 và nối vị tràng theo phương pháp
Finsterer.
Sau mổ 7 giờ: bn than đau bụng quanh vết
mổ, mạch 86 lần/phút và tụt huyết áp (HA) 80/50
mmHg. Bn được truyền dịch nhanh nhưng
không cải thiện, bắt đầu lơ mơ, mạch 97
lần/phút, HA 70/40 mmHg. Bn được chuyển vào
khoa Hồi Sức Ngoại trong tình trạng lơ mơ, thở
không hiệu quả phải đặt nội khí quản, thở máy
và dùng thuốc vận mạch. Hb máu thời điểm này
là 9,9 g/dl (Hb trước mổ 13,4 g/dl). Tiểu cầu giảm
79 K/ul (trước mổ là 219 K/ul). Đường máu:
537mg phẫu thuật viên kinh nghiệm. Trước đây,
phần lớn phẫu thuật cắt dạ dày điều trị loét dạ
dày hoặc tá tràng lành tính. Tỉ lệ VTCSM có thể
cao đến 40,8% và tỉ lệ tử vong nhóm này từ 12,6-
62/dl (trước mổ là 129mg/dl). BUN 37,7mg/dl và
creatinine 1,62mg/dl (trước mổ: BUN 11mg/dl và
creat 0,8mg/dl). Toan chuyển hóa với pH máu
6,8, PaO2 250mmHg, PaCO2 19mmHg và HCO3
2,8mmol/L
Ngày thứ 2 sau mổ: bn hôn mê, thở máy, HA
70/40 mmHg mặc dù duy trì 2 vận mạch liều cao,
vô niệu, bụng chướng. Sonde dạ dày ra khoảng
50ml dịch đỏ sậm, dẫn lưu dưới gan ra khoảng
25ml dịch hồng nhạt. Xét nghiệm amylase máu
là 2909 U/L, amylase dịch dẫn lưu dưới gan là
2424 U/L. Siêu âm bụng tại giường không ghi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 168
nhận bất thường và tình trạng bn nặng nên
không thể đưa đi chụp CT scan bụng.
Ngày thứ 3 sau mổ: bn mê sâu, HA 60/30
mmHg dù duy trì 2 thuốc vận mạch liều rất
cao, bụng chướng căng. Sau đó người nhà xin
về trong tình trạng sốc không hồi phục và suy
đa cơ quan.
BÀN LUẬN
Cắt dạ dày là phẫu thuật phổ biến trong thực
hành lâm sàng để điều trị cả tổn thương lành và
ác tính ở dạ dày. Biến chứng chủ yếu là xì dò
miệng nối, dò gốc tá tràng, chảy máu sau mổ và
chậm thoát lưu dạ dày(6). Những biến chứng này
không thể hoàn toàn tránh được ngay cả
với,5%(6). Gần đây, phẫu thuật cắt dạ dày chủ
yếu điều trị bệnh dạ dày ác tính, tỉ lệ biến chứng
và tử vong giảm nhiều do cải thiện kỹ thuật mổ
và chăm sóc hậu phẫu tốt hơn.
Ngày nay, tỉ lệ mới mắc VTCSM giảm trong
bối cảnh can thiệp phẫu thuật trên biến chứng
loét tiêu hóa giảm dần nhờ kiểm soát bằng thuốc
và nội soi ngày càng cải thiện. Mặc dù, tỉ lệ
VTCSM khó đánh giá chính xác và báo cáo với tỉ
lệ <5%(6). Tuy nhiên, tỉ lệ tử vong có thể cao đến
33,3-50% và cao hơn viêm tụy cấp (VTC) do các
nguyên nhân khác(6). Chen(6) báo cáo tỉ lệ mới
mắc VTCSM của phẫu thuật cắt dạ dày toàn bộ
cao hơn so với các phẫu thuật cắt dạ dày khác
(7,4% so với 0,8%) với tỉ lệ tử vong 33,3%. Một
nghiên cứu khác báo cáo VTCSM cao hơn ở bn
có nạo hạch rộng(6). Phương pháp phẫu thuật cắt
dạ dày qua nội soi mặc dù có nhiều thuận lợi
hơn, nhưng tỉ lệ VTCSM nội soi cũng khoảng
0,7-2,3%(6). Tiên lượng xấu hơn của VTCSM có
thể liên quan đến ức chế miễn dịch sau mổ, tăng
chảy máu có liên quan với viêm tụy do nạo hạch
hoặc cắt bỏ mô rộng hoặc dò miệng nối thứ phát
sau viêm tụy hoại tử và nhiễm trùng huyết từ ổ
bụng.
Schneider và Sebening lần đầu tiên nói
đến bệnh này năm 1928 trong tranh luận
chung về VTC(1). Năm 1949, Millbourn(1) làm
cuộc khảo sát đầu tiên về VTC sau cắt dạ dày
và ghi nhận 90% ca có tăng amylase máu sau
mổ, tăng cao nhất khi di động tá tràng quá
mức và thấp nhất khi không cố gắng cắt bỏ các
ổ loét dính chặt. Ông đi đến kết luận VTCSM
xảy ra phụ thuộc vào những điều kiện sau: (1)
tổn thương cơ học trực tiếp tụy và đặc biệt là
ống tụy, (2) bệnh mạch máu, (3) co thắt cơ
vòng oddi và (4) ứ đọng trong tá tràng.
Ngày nay, mặc dù cơ chế gây VTCSM vẫn
chưa hoàn toàn sáng rõ nhưng có thể nói nó là
hậu quả của nhiều yếu tố:
Chấn thương tụy trong mổ, chấn thương do
nạo hạch, tổn thương nhu mô tụy do đốt điện
hoặc do kéo, tổn thương trực tiếp ống tụy xảy ra
trong quá trình cắt dạ dày(6) và di động tá tràng
quá mức được cho là nguyên nhân chính(1,2).
Nguyên nhân khác gồm tổn thương mạch
máu tụy, thiếu máu cục bộ do sốc giảm thể tích
hoặc do thuyên tắc huyết khối hoặc tắc ống
tụy(1,2). Tăng áp lực trong tá tràng và co thắt nhú
lớn sau mổ cũng đã được giả thuyết(5).
Trong trường hợp phẫu thuật không liên
quan tới tụy, VTCSM được cho là do nguyên
nhân của viêm toàn thân, sốc, giảm oxy máu và
viêm phúc mạc(6).
Biểu hiện giống viêm tụy (amylase máu cao
và đau thượng vị) thấy ở hầu hết bn tắc quai tới
sau phẫu thuật cắt dạ dày, chủ yếu sau phẫu
thuật Billroth II. Wallensten(5) phân tích số lượng
lớn phẫu thuật cắt dạ dày Billroth I và II. Phát
hiện đáng chú ý là có 12 ca tử vong do
VTCSM/1.769 ca cắt dạ dày Billroth II so với 0
ca/605 ca cắt dạ dày Billroth I. Như vậy, ngoài
nguyên nhân di động quá mức tá tràng trong
mổ, VTCSM cắt dạ dày theo Billroth II không chỉ
đơn thuần do chấn thương tụy, ống tụy, hoặc
mạch máu nuôi tụy, Wallensten cho rằng còn do
các nguyên nhân sau: (1) phẫu thuật Billroth II
thay đổi hình dạng tá tràng và đoạn đầu hổng
tràng thành 1 túi cụt gây ứ dịch và có thể nhiễm
trùng, (2) trào ngược dịch ứ đọng trong tá tràng
vào ống tụy hoặc lan rộng nhiễm trùng (trực
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 169
tiếp, theo hạch bạch huyết hoặc dòng máu) có
thể gây ra viêm tụy.
Cần chú ý thể bệnh này vì tiên lượng bệnh,
thời gian can thiệp và lựa chọn điều trị rất khác
nhau giữa VTCSM có và không có quai ruột tới
bị tắc. Nhấn mạnh sự cần thiết của phẫu thuật
nhanh chóng giải quyết tắc nghẽn có thể tránh
VTC xảy ra trong thời gian hậu phẫu, các tác giả
Paulino Netto and Dreiling(5) cũng đồng tình với
quan điểm của này.
Tăng áp lực trong hệ thống ống tụy được
chấp nhận rộng rãi là yếu tố sinh bệnh quan
trọng gây viêm tụy. Sự tăng áp lực này có thể do
nhiều nguyên nhân khác nhau. Ống tụy có thể bị
tắc ngay trong tuyến tụy do sỏi tụy, dị sản biểu
mô hoặc dịch tụy đậm đặc. Theo Berens(4) ống
wirsung có thể bị tắc nghẽn do viêm, phù nề, sỏi
hay co thắt cơ vòng oddi. Menguy(4)() thấy có sự
tăng đáng kể áp lực ống tụy do co thắt cơ vòng
oddi và cơ tá tràng sau dùng morphine,
methadone, dromoran và demerol. Bơm rữa ống
mật chủ sau tắc nhú vater làm trào ngược mật
vào ống tụy ở 75% ca theo Millbourn cũng như
Cameron và Noble(4). Snyder và Lium(4) nhận
thấy bài tiết dịch tụy giảm do atropine, mất nước
và gây mê với ête, những yếu tố đi kèm phẫu
thuật lớn. Tăng độ nhớt của dịch tụy cũng xảy ra
sau thao tác hoặc cầm nắm tuyến tụy. Dunphy(4)
báo cáo 8 ca được hút tá tràng trước phẫu thuật,
thấy độ nhớt dịch tụy tăng ý nghĩa ở 4 ca và đặc
biệt các ca này có đụng chạm trực tiếp lên tụy.
Vài nghiên cứu đề xuất đặt sonde dạ dày
hoặc sonde tá tràng/mở thông tá tràng để giảm
áp và giải phóng tăng áp lực tá tràng. Hsu(6) báo
cáo không có sự khác nhau trong VTCSM bất kể
có đặt sonde dạ
và Sebening(6) thấy 11/91 ca VTCSM dạ dày là
do thắt ống santorini.
Ferris(4) báo cáo 2 bn > dày hay không.
Sự bất thường về giải phẫu ống tụy cũng có
một ý nghĩa đáng kể. Ming Kuo(6) báo cáo 1 bn
ung thư dạ dày và đồng thời có tụy chia đôi bị
VTCSM và chết do suy đa cơ quan. Tụy chia đôi
là bất thường bẩm sinh phổ biến của tụy, với tần
suất 4-10%(6) bn tụy chia đôi có thể dễ bị tổn
thương hơn ngay cả tổn thương nhỏ ở tụy và
mất cân bằng vi tuần hoàn. Ống santorini dẫn
một phần dịch tụy trong khoảng 10% trường
hợp có thể bị tắc nghẽn và cũng dễ bị tổn thương
do thắt hoặc trong quá trình cắt dạ dày.
Schmieden 70 tuổi bị VTCSM cắt đốt tiền liệt
tuyến và cho rằng đặc quánh dịch tụy do thuốc,
gây mê và mất nước có thể là nguyên nhân.
Renner đã ghi nhận phẫu thuật cắt mô tiền liệt
tuyến làm giải phóng các proteolytic enzyme
(hay protease) có thể gây viêm tụy(4). 2 nghiên
cứu của Cope năm 1938 và 1939(1) khi quan sát
cắt tuyến thượng thận kéo theo tăng amylase
máu và cortison máu và giảm đi khi cho desoxy-
corticosteron.
VTCSM được định nghĩa gồm đau bụng và
amylase/lipase máu cao và/hoặc có hình ảnh
VTC trên CT scan. Amylase máu cao được định
nghĩa là >3 lần giới hạn trên bình thường.
VTCSM cũng có thể xác minh bằng phẫu thuật
mở bụng và/hoặc dựa vào kết quả phẫu tích(2).
Horsley và Brunsgaard khẳng định khó để
nhận ra biến chứng VTCSM(1). Trong 52 ca
VTCSM báo cáo bởi Frey và Beal(7), hơn ½ không
thể phát hiện nếu không có mổ bụng hoặc
autopsy. Nghiên cứu của Blom(2) trên 1000 bn mổ
thực quản, tỉ lệ VTCSM chỉ khoảng 0,4% (4 bn)
và chỉ 1 trong 4 bn có tăng amylase máu bên
cạnh dấu viêm phúc mạc. Điều này nhấn mạnh
khả năng không chẩn đoán ra VTC sau phẫu
thuật bụng như phẫu thuật cắt dạ dày và phẫu
thuật đường mật.
Chẩn đoán VTC chủ yếu phụ thuộc vào biểu
hiện lâm sàng gợi ý và xét nghiệm. Lâm sàng
thường đa dạng và không đặc hiệu trên bn sau
mổ vì đau và những triệu chứng liên quan đến
phẫu thuật. Tăng lipase máu ≥3 lần giới hạn bình
thường xảy ra trong vòng 48 giờ là xét nghiệm
đáng tin cậy nhất(6). Tuy nhiên, nồng độ bình
thường của men tụy cũng không thể loại trừ
hoàn toàn VTC(6). Giá trị tiên lượng dương tính
để chẩn đoán VTC của amylase máu cao là 15-
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 170
72% và lipase máu cao là 90%(2). Theo
McCutcheon(5) định lượng lipase trong dịch phúc
mạc là chỉ dẫn chính xác hơn amylase máu hoặc
lipase máu. CT bụng đặc biệt hữu ích để xác
định chẩn đoán và loại trừ các nguyên nhân
khác như dò miệng nối, áp xe và chảy máu trong
ổ bụng(6). Tuy nhiên, hình ảnh giải phẫu thay đổi
sau mổ thường làm cho CT khó chẩn đoán chính
xác.
Biểu hiện lâm sàng của VTCSM thường xuất
hiện trong vòng vài ngày đầu sau mổ. Trong số
các báo cáo trong y văn, đa số biến chứng xuất
hiện vào ngày thứ 1 (33.3%), chủ yếu xảy ra ở
tuần đầu tiên sau mổ, cá biệt có ca xuất hiện ở
ngày 30. Không có sự khác nhau về giới tính và
tất cả bn đều >40 tuổi (trung bình 65 tuổi, 46-
83)(1,2,3,6,7). Trong báo cáo của chúng tôi, VTCSM
cắt dạ dày bán phần trên 2 bn 58 tuổi. Một ca xảy
ra ngày 1 và 1 ca có lẽ vào ngày thứ 3 sau mổ (ca
này có biểu hiện lâm sàng gợi ý, không có xét
nghiệm có lẽ do không nghĩ đến).
Đau bụng kèm tụt HA từ trung bình đến rõ
rệt là triệu chứng báo trước chủ yếu của biến
chứng này trong đa số các trường hợp. Triệu
chứng khởi đầu khác là đau bụng đơn thuần, sốc
và thiểu niệu. Buồn nôn, nôn ói, sốt và chướng
bụng là những triệu chứng lâm sàng nổi bật. Đặc
trưng của cơn đau là dữ dội, không giảm, có thể
nằm ở thượng vị và giữa bụng hoặc vùng bụng
dưới. Tụt HA thường rõ và không giải thích
được lý do. Hemoglobin và hematocrit bình
thường hoặc tăng. Sốc đáp ứng chậm với
phương pháp điều trị thông thường. Do đó, cần
phải nghĩ đến VTCSM nếu bn hậu phẫu bị sốc
mà không giải thích được.
Trong 2 ca báo cáo của chúng tôi, triệu chứng
khởi phát là đau bụng kèm chướng bụng. 1 ca
đau bụng kéo dài 5 ngày và được điều trị giảm
đau, đến ngày 6 khi có dấu viêm phúc mạc và
chụp CT ghi nhận tụ dịch ổ bụng và bn được
chuyển mổ cấp cứu với kết quả viêm tụy hoại tử
xuất huyết. 1 ca đau bụng kèm tụt HA và tiến
triển tới sốc nhanh chóng sau mổ khoảng 8 giờ.
Thiểu niệu, tăng nitơ máu, giảm Clo máu và
nhiễm toan máu thường rõ trong tiến triển của
bệnh. Chỉ ½ số ca VTCSM báo cáo trong y văn có
xét nghiệm amylase máu. Giá trị amylase máu
rất thay đổi, dao động từ 64-2000 U/L(1,2,3,6,7). Vì
vậy, không nên bỏ qua chẩn đoán dù kết quả
amylase máu bình thường. Vì amylase máu
thường trở về bình thường trong vòng 48 giờ sau
khởi phát viêm tụy(4).
Trong báo cáo này, chỉ 1 ca được xét nghiệm
với amylase máu là 2909 U/L và amylase dịch
dẫn lưu dưới gan là 2424 U/L. Các biểu hiện như
thiểu niệu, tăng BUN, giảm Clo, nhiễm toan máu
xảy ra rõ trong tiến triển của ca này với biểu hiện
sốc không giải thích được lý do dù đã được bồi
hoàn đủ dịch. Cả hai ca đều tử vong trong bệnh
cảnh sốc, vô niệu và suy đa cơ quan.
Hơn 85 thuốc đã báo cáo là nguyên nhân gây
VTC đa dạng từ đơn trị đến kết hợp(3). Cơ chế
khác nhau của viêm tụy do thuốc đã được đưa
ra. Người ta cho rằng hoặc do tụy quá nhạy cảm
hoặc do sự tích lũy chất độc chuyển hóa(3).
Hai bn trong báo cáo của chúng tôi, sử dụng
đồng thời thuốc có thể gây viêm tụy mặc dù
không phải là nhóm thuốc thường gặp gây viêm
tụy (1bn dùng esomeprazol và amlordipine, 1 bn
dùng rabeprazol)(3). Tuy nhiên, 2 bn này đã dùng
thuốc đều đặn trước đó (1 bn dùng 6 ngày và 1
bn dùng 12 ngày). Vì vậy, có vẻ như việc dùng
thuốc không phải là nguyên nhân gây ra VTCSM
ở 2 bn này.
Một khi viêm tụy nghi ngờ, việc kiểm soát bao
gồm hút dạ dày liên tục, cân bằng dịch và điện
giải, kháng sinh phổ rộng, thuốc giảm tiết dịch dạ
dày, tránh dùng morphine và dẫn xuất. Cho an
thần khi có triệu chứng nhiễm độc thần kinh.
Trong trường hợp VTCSM cắt dạ dày Billroth II
do tắc quai tới có thể phòng tránh nhờ cẩn trọng
trong quá trình mổ và phẫu thuật giải áp.
Chỉ định octreotide phòng bệnh trong giai
đoạn hậu phẫu đã được đề xuất nhằm cố gắng
tránh phát triển VTCSM(6). Vai trò phòng bệnh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 171
bằng cách nong nhú bé, đặt stent, và cắt cơ vòng
còn đang nghiên cứu.
KẾT LUẬN
VTCSM là biến chứng ít gặp sau phẫu thuật
cắt dạ dày trong thời này. Tuy nhiên, nó là một
biến chứng nặng và khả năng gây tử vong cao
trong thời gian hậu phẫu. Nhận ra và điều trị
nhanh chóng là chìa khóa trong việc giảm tỉ lệ tử
vong từ biến chứng này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Archibald EC. et al. (1956). Post-Operative Pancreatitis.
Postgrad Med J, Vol 32, pp.248-258
2. Blom RL, van Heijl M, Busch OR, van Berge Henegouwen MI
(2009). Acute Pancreatitis in the Postoperative Course after
Esophagectomy: A Major Complication Described in 4
Patients. Case Rep Gastroenterol, Vol 3, pp.382-388
3. Chirag D. et al. (2005). Drug-Induced Pancreatitis. J Clin
Gastroenterol, Vol 39, No 8, pp.709–716
4. Deward OF, Thomas EL, James CC and Archie HB. (1957).
Fatal Postoperative Pancreatitis. Annals of Surgery, Vol 146, No
2, pp.263-273.
5. McCutcheon AD, Race D (1962). Experimental Pancreatitis: A
Possible Etiology of Postoperative Pancreatitis. Annals of
Surgery, Vol 155, No 4, Pp.523-531
6. Kuo IM, Wang F, Liu KH, Jan YY (2009). Post-Gastrectomy
Acute Pancreatitis In A Patient With Gastric Carcinoma And
Pancreas Divisum. World J Gastroenterol, Vol 15, No 36, pp.4596-
4600.
7. Schein M. Saadia R, Decker GAG (1988). Postoperative
pancreatitis - of anastomotic leaks? SAMJ, Vol 73, pp.550-551
Ngày nhận bài báo: 05/02/2014
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 24/04/2014
Ngày bài báo được đăng: 30/06/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- viem_tuy_cap_sau_mo_cat_da_day_bao_cao_2_ca_lam_sang_va_xem.pdf