Đến Đại hội IX của Đảng (4/2001), đường lối đối ngoại được bổ sung và phát triển lên một bậc mới, theo tinh thần “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Nhiệm vụ đối ngoại trong giai đoạn hiện nay là tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
Cần khẳng định rằng, “trong thời kỳ mở cửa, làn gió bên ngoài tràn vào nước ta không chỉ đem theo những tinh hoa tốt đẹp, những kinh nghiệm mới và hay của thế giới, và cả những tư tưởng độc hại, những biểu hiện không phù hợp với truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán của dân tộc, ảnh hưởng không tốt đẹp đến đạo đức, an ninh chính trị, trật tự xã hội của chúng ta”(Đỗ Xuân Hà. Báo chí với thông tin quốc tế.Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997, tr 118). Hơn nữa còn có những ảnh hưởng nhất định đối với suy nghĩ của nhân dân ASEAN, làm phương hại đến các lĩnh vực hợp tác của chúng ta với các nước ASEAN, trong đó có kinh tế. Do đó, vai trò của thông tin quốc tế trên báo chí, trong việc phản ánh quan hệ kinh tế Việt Nam - ASEAN không chỉ cung cấp thông tin giúp công chúng có cái nhìn toàn cảnh bên ngoài, mà còn có ý nghĩa bồi dưỡng giáo dục ý chí quyết tâm giữ vững ổn định chính trị và độc lập, tự chủ của đất nước, duy trì và phát triển mối quan hệ kinh tế khăng khít và mang lại lợi ích chung giữa Việt Nam và ASEAN.
Thời đại bùng nổ thông tin hiện nay càng đòi hỏi báo chí phải có cách thu nhận thông tin có định hướng chọn lọc không gây bất lợi cho tình hình chính trị ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế của đất nước. Điều này đòi hỏi các nhà báo viết về quốc tế phải có bản lĩnh chính trị, kiến thức sâu rộng và tinh thần trách nhiệm cao.
55 trang |
Chia sẻ: DUng Lona | Lượt xem: 2351 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bên cạnh đó tiềm năng và lợi thế từ AFTA, thị trường ASEAN được xem là điểm hấp dẫn của các doanh nghiệp Việt Nam, nổi bật và tiêu biểu là thị trường Campuchia (chỉ trong 6 tháng đầu năm 2003 kim ngạch suất khẩu của Việt Nam sang Campuchia tăng 64,4% so với cùng thời kì ). Ngay trong quý một năm 2003 Việt Nam đã đẩy nhanh quá trình thực hiện hội nhập kinh tế khu vực ASEAN của Việt Nam là thu hỳt đầu tư ngoài nước, đăng ký bản quyền tờn thương mại hàng húa, tỡm kiếm và tiếp cận cụng nghệ hiện đại, mở rộng thị trường, đào tạo đội ngũ cỏn bộ, đẩy mạnh cụng tỏc quảng cỏo, tiếp thị, tăng cường ứng dụng khoa học cụng nghệ, cụng nghệ thụng tin tranh thủ sự trợ giỳp trong chương trỡnh hợp tỏc song phương để tạo dựng thế cạnh tranh trong ASEAN, đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp theo hướng cổ phần húa nhằm nõng cao khả năng cạnh tranh. Tiếp tục khuyến khớch và tạo điều kiện để cỏc doanh nghiệp thành lập và đẩy mạnh hoạt động của cỏc văn phũng đại diện tại cỏc nước ASEAN kốm theo phũng giới thiệu sản phẩm, đồng thời, vận động, tổ chức bà con Việt kiều tham gia vào mạng lưới phõn phối, tiờu thụ và quảng bỏ cho hàng cụng nghiệp Việt Nam. Xõy dựng mối quan hệ giữa cỏc hiệp hội, hội chuyờn ngành Việt Nam với cỏc đối tỏc tương ứng của ASEAN để quảng bỏ, giao lưu cỏc sản phẩm, dịch vụ chuyờn ngành (Trích báo Bộ ngoại giao ngày 23/5/2003).
Việt Nam đang tích cực lộ trình giảm thuế xây dựng hệ thống chính sách nhằm tạo thuận lợi cho thương mại. Kể từ 1/7/2003 Việt Nam thực hiện giảm thuế theo cam kết AFTA. Bộ Tài chính đưa ra 1.416 mặt hàng trong danh mục loại trừ tạm thời vào diện cắt giảm ngay với mức thuế suất trung bình từ 30% - 50% xuống còn 20% trong đó có những mặt hàng cắt giảm thuế rất cao từ 40 - 80 xuống còn 20%.(Từ ngày 01/07/2003 giảm thuế theo cam kết AFTA. QT số 25, 19/6/2003. Tr 5) với lợi thế về thuế quan này hứa hẹn sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vào năm 2004 dự đoán sẽ tăng đến 8%.
2.2.1. Hợp tác giao thông vận tải ASEAN:
Trong chiến lược phát triển kinh tế - chính trị, vai trò của giao thông chiếm một vị trí quan trọng, đây là mấu chốt cũng như là cầu nối giữa các nền kinh tế - chính trị giữa các nước trong hiệp hội được dịp cọ sát nhau nhiều hơn, rút ngắn thời gian và chi phí trong mọi hoạt động ngoại giao. Là một quốc gia có một vị trí địa lý hết sức thuận lợi và quan trọng trong khu vực (phía đông Đông Nam á với 1/2 đường biên giới tiếp xúc với biển, nơi tiếp nhận các nền kinh tế bên ngoài đi vào Đông Nam á qua con đường hàng hải của Việt Nam), Việt Nam đã không ngừng nghiên cứu và phát triển những lợi thế mà mình vốn có này.
Bên cạnh đó việc mở rộng những đường xuyên quốc gia nhằm rút ngắn khoảng cách và thời gian cũng như là sự thuận lợi phát triển kinh tế - chính trị được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Với dự án tuyến đường bộ nối liền 4 quốc gia là Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan dưới sự hỗ trợ của ngân hàng phát triển Châu á (ADB) và chính phủ Nhật đang được tiến hành xây dựng, trong đó dự án xa lộ xuyên á đoạn TP Hồ Chí Minh - PhnômPênh đang trên đường hoàn tất. Dự án hành lang Đông - Tây từ Mukdahan ở Đông Bắc Thái Lan qua Savanakhet (Lào) và kết thúc ở cảng Tiên xa (Đà Nẵng - nơi được chính phủ Nhật và ngân hàng phát triển Châu á tài trợ 140 triệu USD để nâng cấp cảng biển Tiên xa) tạo nên tuyến đường bộ khu vực Sông MêKông đi qua quốc lộ 1A Việt Nam.
Về đường sắt, ASEAN đang nỗ lực triển khai xây dựng tuyến đường sắt xuyên á từ Sinhgapore đến Côn Minh-Trung Quốc (ASEAN 2001 - dấu ấn Việt Nam. QT số 52, ngày 27/12/01, tr1).
- Về vận tải hàng không:
Việt Nam tiếp tục thực hiện chính sách “Bầu trời mở” như đã ký kết với Lào, Mianma, Campuchia tại Thành phố Hồ Chí Minh (TTXVN ngày 25/2/2002) bằng cách không ngừng cải thiện chuyến bay và mở ra nhiều điểm đến như: Huế, Đà nẵng, Đà Lạt, Điện Biên Phủ vv... Trên cơ sở đó, mỗi nước đang tự triển khai để đẩy mạnh hợp tác hàng không. Đây là một biên pháp thúc đẩy nhanh việc tự do hoá vận tải hàng không trong khu vực.
2.2.2.Hợp tác về công nghiệp và năng lượng.
Bước vào một giai đoạn mới trong một thế kỷ mới cùng với xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất công nghiệp trên thế giới cũng đang đặt chúng ta trước một nhu cầu phải nhanh chóng điều chỉnh, chuyển đổi lại cơ cấu sản xuất, đầu tư để nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả ba cấp độ: Quốc gia, doanh nghiệp và ngành hàng. Cơ cấu sản xuất, đầu tư của nền kinh tế nước ta phải đặt ra được những ngành mũi nhọn có hiệu quả cao và có đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế và khu vực đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi mà Việt Nam bắt tay hội nhập kinh tế khu vực trong một bối cảnh mới. Nhiệm vụ trước mắt đặt ra là Việt Nam phải thực hiện xây dựng và triển khai thực hiện một chiến lược dài hạn về chuyển đổi cơ cấu sản xuất, đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế và cho từng ngành sản xuất. Các doanh nghiệp cũng cần thiết xây dựng chiến lược điều chỉnh, chiến lược sản xuất kinh doanh của mình để đảm bảo thích nghi một cách hiệu quả trong tình hình mới sao cho phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế khu vực, và bước đầu đang đem lại hiệu quả đáng khích lệ trên lĩnh vực xuất nhập khẩu:
Tại thị trường Indonesia, Việt Nam Xuất khẩu một lượng gạo lớn sang nước này(khoảng 25% đến 60% tổng sản lượng gạo Indonesia nhập khẩu từ các nước), ngoài ra còn lạc nhân, cao su, dầu thô, hạt tiêu,...
Tại thị trường Myanma. Kim ngạch thương mại hai chiều năm 2002 đạt 13 triệu USD, trong đó xuất khẩu của Việt Nam đạt 9,3 triệu USD. Trong 3 năm trở lại đây, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã đạt tỷ lệ tăng trưởng bình quân 30%/năm. Xuất khẩu của Việt Nam sang Myanma chủ yếu là: vải và phụ liệu may mặc, dược phẩm và thiết bị y tế, phân bón và thuốc trừ sâu, máy và phụ tùng xay xát gạo, máy nông nghiệp, thép ống, thiết bị đường dây và trạm điện,...
Tại thị trường Thái lan, kim ngạch suất khẩu sang thị trường này đạt 240 triệu USD(năm 2002). Mặt xuất khẩu sang thị trường này chủ yếu là các sản nông sản, hàng may mặc và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ,...
Tại thị trường Singapore, Việt nam đang có nhiều lợi thế. Một thị trường xuất nhập khẩu hoàn toàn tự do, 96% hàng hoá xuất nhập khẩu không có thuế(thuế suất bằng 0), chính vì vậy mà Việt Nam đã tận dụng được 3 kênh tiêu thụ quan trọng ở đây là: Kênh tiêu thụ nội địa, kênh trung chuyển và kênh tái xuất khẩu đi các thị trường lân cận.
Đối với nhu cầu năng lượng của khu vực Đông Nam á tăng lên trong khi nguồn nhiên liệu cung cấp lại cạn kiệt. Các chương trình dự án hợp tác công nghiệp của ASEAN lần lượt được triển khai và thực hiện.
Tại Hội Nghị lần thứ 13 bộ trưởng năng lượng hiệp hội các nước Đông Nam á tổ chức ở Malaixia đã ra tuyên bố chung cam kết tăng cường nỗ lực để đa dạng hoá các nguồn năng lượng. (TTXVN 3/7/2003)
Điện năng là lĩnh vực được quan tâm hàng đầu trong lĩnh vực hợp tác năng lượng của các nước thành viên ASEAN trong mấy năm lại đây. Do điều kiện sản xuất và phân bổ, sử dụng điện năng ở mỗi nước thành viên có sự khác nhau, ý tưởng thiết lập mạng lưới điện chung của ASEAN ra đời. Hợp tác về sản xuất và tiêu thụ điện năng là trung tâm của dự án năng lượng ASEAN (APG). Hiện tại mạng lưới điện ASEAN là một trong 4 mạng lưới điện lớn nhất Châu á, bên cạnh Trung Quốc, ấn Độ, Nhật Bản với công suất 72 MGW. Việc ghép nối hệ thống điện năng sẽ giúp cho nền kinh tế của các nước ASEAN có mối quan hệ gần nhau hơn.
Cũng trong thời điểm hiện nay, các nước ASEAN đang tiến hành nghiên cứu và triển khai ở nhiều mức độ khác nhau 13 dự án liên kết lưới điện giữa các vùng lãnh thổ trong một nước hoặc giữa các nước với nhau. Khi các dự án này được thực hiện, hoàn thành thì lưới điện của tất cả 10 nước ASEAN sẽ được liên kết thành một lưới điện thống nhất.
2.2.3. Hợp tác về nông nghiệp.
Chương trình hợp tác tài chính cho giai đoạn 1999 - 2004 bao gồm hợp tác trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp và lương thực, tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng hoá nông sản ASEAN.v.v....
Việt Nam là nước có ưu thế về sản xuất nông nghiệp, nông sản đa dạng và có giá trị kinh tế cao các mặt hàng nông sản chủ lực có kim ngạch xuất khẩu sang các nước trong khu vực và thế giới gồm: gạo, chè, cà phê, điều, hạt tiêu, rau quả, trong đó sản xuất gạo vẫn chiếm tỷ trọng lớn và là ưu thế mạnh của Việt Nam. (Nông nghiệp Việt Nam trên lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế - Báo Nông nghiệp số 11 năm 2003)
2.2. 4. Hợp tác về khoa học công nghệ.
Từ 24 đến 27 tháng 9 năm 2002 tại Hà Nội, trung tâm công nghiệp môi trường á - Â u phối hợp phối hợp với cục môi trường. Bộ tài nguyên và môi trường Việt Nam tổ chức hội nghị về lĩnh vực công nghệ sinh học xử lý ô nhiễm. Mục tiêu của hội nghị này nhằm mục đích cung cấp thông tin gúp cho các nước ASEAN nhận thức sâu sắc hơn về khả năng phong phú của công nghệ sinh học xử lý ô nhiễm môi trường. Các báo cáo ứng dụng của công nghệ sinh học tại các bãi chôn lấp chất thải, ứng dụng công nghệ sinh học xử lý chất thải trong các khu công nghiệp, xử lý chất thải sinh hoạt đô thị, khôi phục môi trường đất bị ô nhiễm bằng thực vật, xử lý bùn tích tụ tại các sông hồ và bảo vệ nguồn nước. Đây là vấn đề Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu và phát triển những kết quả bước đầu cho thấy phát triển công nghệ sinh học là phù hợp với quy mô và trình độ sản xuất điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội Việt Nam . (Hội nghị ASEM về công nghệ sinh học và xử lý ô nhiễm- TBKT số 115, 25/2/2002). Hội nghị sẽ đem lại cho Việt Nam bài học kinh nghiệm quốc tế về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cũng như kinh nghiệm xây dựng cơ chế chính sách và hợp tác trợ giúp kỹ thuật để phát triển công nghệ này.
Từ ngày 22 đến 27/9 /2003 đã diễn ra hội nghị uỷ ban khoa học lần thứ 46 tại thành phố Hồ Chí Minh. Bộ khoa học và công nghệ Việt Nam đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và cam kết của phía Việt Nam tham gia và đóng góp tích cực các hội nghị Bộ trưởng khoa học công nghệ ASEAN chính thức và không chính thức, các hội nghị của Uỷ ban khoa học công nghệ ASEAN tổ chức ở các thành viên, đảm nhận chức chủ tịch một số ngành khoa học công nghệ của ASEAN, tiếp nhận chức chủ tịch Uỷ ban khoa học công nghệ ASEAN (COST) nhiệm kỳ 2003 - 2005. (Về hội nghị Uỷ ban khoa học công nghệ ASEAN lần thứ 46-ND số 17594, 28/9/2003.Tr5). Hợp tác khoa học công nghệ trong khuôn khổ ASEAN đã có những tác động tích cực với sự phát triển khoa học công nghệ trong thời gian qua, ASEAN đã thực hiện hàng trăm dự án dưới các hình thức như: hợp tác nghiên cứu chuyển giao công nghệ, trao đổi cán bộ khoa học và đào tạo nhân lực, tổ chức triển lãm các thành tựu khoa học công nghệ, trao đổi thông tin và kinh nghiệm quản lý khoa học công nghệ. Hiện nay giữa hai kỳ hội nghị COST 45 và 46, có 39 dự án ASEAN về khoa học công nghệ đang được tiến hành. 25 dự án đang trong quá trình bàn bạc. Việt Nam thông qua 9 tiểu ban khoa học công nghệ ASEAN nói trên và tham gia hầu hết các dự án này.
2.3. Những đánh giá và triển vọng hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN.
2.3.1. Triển vọng trong mối quan hệ Việt Nam - ASEAN
a. Triển vọng về chính trị.
Việt Nam và ASEAN đã không ngừng phấn đấu cho một nền hoà bình của mỗi quốc gia và cả khu vực, sự phát triển của Việt Nam cũng là của ASEAN. Với ý thức trách nhiệm cao, Việt Nam đã có những đóng góp không nhỏ trong các giả pháp tối ưu để nâng cao vai trò chính trị của ASEAN trong khu vực và trên thế giới. Điều đó cho thấy một khả năng phát triển tốt đẹp quan hệ Việt Nam- ASEAN về vấn đề an ninh, chính trị.
Thực tiễn lịch sử cũng như tỡnh hỡnh hiện nay cho thấy sự đe dọa hũa bỡnh, ổn định, đe dọa nền an ninh của Việt Nam là do những yếu tố bờn ngoài, xuất phỏt từ õm mưu gõy chiến, sự tiến hành cỏc cuộc chiến tranh xõm lược của cỏc nước đế quốc, sự xung đột bięn giới lănh thổ từ cỏc nước lỏng giềng do lịch sử để lại, sự cạnh tranh lợi ớch của Biển Đụng do tham vọng của một số nước lỏng giềng mới phỏt sinh, sự can thiệp của cỏc thế lực thự địch từ bờn ngoài ủng hộ bọn phản động bờn trong nước gõy nội chiến, bạo loạn, thực hiện "diễn biến hoà bỡnh" lật đổ chế độ xă hội chủ nghĩa để thiết lập sự thống trị của chỳng.
Vì vậy, Việt Nam hội nhập ASEAN, cựng với cỏc thành viờn khỏc phấn đấu cho mục tiờu tăng cường cơ sở cho một cộng đồng cỏc quốc gia Đụng Nam Á hoà bỡnh và thịnh vượng là cơ sở vững chắc bảo đảm hoà bỡnh, ổn định, an ninh và là nhõn tố thỳc đẩy sự phỏt triển kinh tế, sự thịnh vượng chung của khu vực. Thực tế cho thấy hội nhập kinh tế Việt Nam - ASEAN thực sự là nhõn tố quan trọng giỳp Việt Nam và cỏc nước lỏng giềng hiểu biết nhau, xớch lại gần nhau hơn, khộp lại quỏ khứ, hợp tỏc để nhõn lờn điểm tương đồng, đấu tranh để hạn chế bất đồng theo xu thế hội nhập, ổn định và cựng nhau phỏt triển. Hơn thế, Việt Nam đă cú tiếng núi chung với ASEAN trong việc chống sức ộp từ bên ngoài về cỏc vấn đề tụn giỏo, dõn chủ, nhân quyền. Đồng thời, nhờ việc hội nhập ASEAN, trở thành thành viờn của ASEAN, Việt Nam cú điều kiện để đẩy mạnh hợp tỏc kinh tế với cỏc nước lớn là đối tỏc của ASEAN như: Mỹ, Nhật, cộng đồng chõu Âu (EU). Điều đú phần nào đã tạo sự chế ước lẫn nhau giữa cỏc nước, cỏc tổ chức khu vực, tạo sự đan cài lợi ớch để duy trì cục diện hoà bỡnh, ổn định. Như vậy, việc hội nhập kinh tế Việt Nam - ASEAN đứng trên quan điểm quốc phòng an ninh đú chớnh là sự tạo thành một mặt trận, một hướng chiến lược từ bờn ngoài nhằm tạo mụi trường thuận lợi bảo đảm cho nền quốc phòng an ninh của ta thêm vững chắc.
b. Triển vọng về kinh tế
Tham gia vào ASEAN, Việt Nam có nhiều điều kiện thúc đẩy phát triển hơn nữa sự hợp tác và hội nhập giữa các nước trong khu vực, giúp Việt Nam tiếp cận nhiều hơn với thị trường vốn, công nghệ, đội ngũ chuyên gia của ASEAN cũng như tham gia vào phân công lao động quốc tế. Vì vậy, việc phân bố các nguồn lực sẽ được cải thiện nhờ chuyên môn hoá theo lợi thế cạnh tranh.
Hợp tác giữa các nước ASEAN sẽ tạo điều kiện cho việc sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực của khu vực, thúc đẩy phát triển có hiệu quả nền kinh tế của Việt Nam nói riêng và của cả ASEAN nói chung, bước đầu đã đạt được hiệu quả nhất định. Quan hệ mậu dịch hai bên đã được tăng cường, tạo ra thị trường buôn bán sản phẩm mới. Chính sách đầu tư nước ngoài của Việt Nam dễ thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư các nước ASEAN tham gia trong nhiều dự án. Môi trường chính trị ổn định và chính sách ngoại giao chuyển từ “đối đầu” sang “đối thoại ” của khu vực cũng sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam và ASEAN củng cố hơn nữa các quan hệ kinh tế.
Việc tham gia các chương trình hợp tác và liên kết kinh tế của ASEAN như: khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), khu vực đầu tư ASEAN (AIA), chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO)... giúp Việt Nam có thể tiếp cận được những phương pháp quản lý trong một số lĩnh vực vốn là thế mạnh của một số nước ASEAN và mở đường cho ta tham gia vào các cơ chế hợp tác và các tổ chức khác như: WTO, APEC,... Từ đó, Việt Nam cũng sẽ có điều kiện tham gia vào nhiều lĩnh vực hợp tác: thương mại, đầu tư, nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp, khai khoáng, giao thông vận tải, bưu điện... đồng thời Việt Nam có điều kiện tham gia vào các dự án phát triển của ASEAN, mở rộng hình thức liên doanh liên kết với các nước trong khu vực. Hơn nữa ASEAN là tổ chức có quan hệ rộng rãi và chặt chẽ với các cường quốc và tổ chức quốc tế như: Mỹ, Nhật Bản, úc, EU... gia nhập ASEAN cũng có nghĩa là Việt Nam sẽ có vị thế cao hơn trên trường quốc tế. Từ đó, chúng ta mở rộng trao đổi hàng hoá, thu hút vốn đầu tư từ họ, góp phần chuẩn bị, giúp tích lũy kinh nghiệm và tạo thuận lợi cho ta tham gia hội nhập kinh tế quốc tế sau này.
2.3.2. Những thách thức trong mối quan hệ chính trị Việt Nam - ASEAN
a. Về chính trị
Trờn con đường hội nhập và phỏt triển, Việt Nam đang gặp nhiều khú khăn phải vượt qua. Đú là những vấn đề về biên giới, lănh thổ, hải đảo, việc truyền bỏ cỏc luồng văn hoỏ ngoại lai, cỏc tệ nạn xă hội, tỡnh hỡnh tội phạm xuyờn quốc gia, như chống chớnh quyền nhõn dõn, phỏ hoại kinh tế, buụn lậu, lụi kộo người vượt biờn trỏi phộp... đang ảnh hưởng nghiờm trọng tới an ninh quốc gia, trật tự an ninh xó hội, tới sự phỏt triển KT-XH của Việt Nam trong thời mở cửa.
b. Thách thức về kinh tế
Trước hết là khoảng cách về trình độ kinh tế giữa Việt Nam và các nước ASEAN. Kinh tế của các nước ASEAN, đạt tốc độ tăng trưởng gấp 4 lần so với mức thu nhập bình quân của Việt Nam. Nếu lấy năm 1993 làm ví dụ thì nước có thu nhập đầu người thấp nhất trong khối ASEAN là Philippin cũng đạt 805 USD/người và gấp 4 lần thu nhập theo đầu người của Việt Nam là 230 USD/ người. Về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các nước ASEAN hơn hẳn Việt Nam. Trình độ phát triển kinh tế của nước ta chỉ ở mức những năm 1960, 1970 của các nước ASEAN.
- Về cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ngoại thương của Việt Nam và ASEAN có nhiều điểm tương đồng. Thêm vào đó, lợi thế cạnh tranh quốc tế hiện nay đã thay đổi, chuyển từ lợi thế nguyên liệu sẵn có, sức lao động rẽ sang lợi thế nâng cao năng suất lao động, kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Trong khi đó các nước ASEAN đang lúng túng trong việc tiêu thụ sản phẩm tương tự như các sản phẩm mà Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu như: gạo, cà phê, cao su,... như vậy, hàng hóa của Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với hàng hoá của các nước ASEAN ngay trên thị trường Việt Nam trong khi hàng hoá nước ta ở vào thế yếu hơn ở nhiều mặt.
Các nước Châu á vừa thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực. ASEAN hiện nay đang bộc lộ sự giảm sút về khả năng cạnh tranh so với các nước Châu á láng giềng như: Trung Quốc, ấn Độ,... Trong bối cảnh đó, Việt Nam cũng phải đối mặt với các thách thức trong quá trình hợp tác kinh tế với các nước thành viên của ASEAN, Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ trong những rủi ro và thách thức mà ASEAN gặp phải.
Việc Việt Nam gia nhập AFTA cũng là thách thức lớn đối với Việt Nam. Bởi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp. Cơ cấu kinh tế Việt Nam chậm chuyển đổi, đặc biệt là cơ cấu ngành nên đã hạn chế khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Thêm vào đó, quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp và các hình thức đa dạng hoá còn chậm. Do sự kết hợp thiếu đồng bộ giữa các cơ quan chức năng và doanh nghiệp vì những bỡ ngỡ ban đầu trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới nên những khó khăn, lúng túng trong việc thực hiện yêu cầu của AFTA là không tránh khỏi.
Tóm lại, tham gia ASEAN là bước đi tất yếu đầu tiên của Việt Nam trên con đường hội nhập với khu vực và thế giới. ASEAN mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội mới cũng như nhiều thách và phát triển đất nước. Cơ hội và thách thức luôn đan xen lẫn nhau do đó đòi hỏi sự nỗ lực chung của toàn Đảng, toàn Dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Chương ba
Hình thức chuyển tải thông tin về hoạt động kinh tế - chính trị của Việt Nam với tư cách là thành viên ASEAN từ năm 2001 đến 2003 trên các báo “Nhân dân”, “Quốc tế” và “Thời báo kinh tế Việt Nam”.
3.1. Các thể loạI báo chí được sử dụng.
3.1.1. Thể loại và phong cách ngôn ngữ.
Báo chí là một ngành lao động sáng tạo tồn tại trong đời sống xã hội, có chức năng thông tin thời sự, chuyển tải những vấn đề, sự kiện đang diễn ra trong đời sống xã hội. Mội tác phẩm báo chí hoàn chỉnh đến với công chúng bao giờ cũng được kiến tạo nên từ hai yếu tố: nội dung và hình thức, hai yếu tố này gắn bó chặt chẽ với nhau, chi phối lẫn nhau tạo nên một tác phẩm báo chí mang lại hiệu quả của thông tin tốt nhất cho người đọc.
Để hoạt động báo chí có hiệu quả, ngoài nội dung mang tính chất thời sự, cấp thiết, cập nhật, nhà báo phải biết lực chọn những hình thức thể loại phù hợp để đem lại hiệu quả cao nhất cho độc giả. Việc lựa chọn thể loại cũng là hình thức, phong cách thể hiện sao cho phù hợp với nội dung mục đích chính trị, tư tưởng phù hợp với tiêu chí hoạt động của tờ báo.
Trong nhiều trường hợp cùng một nội dung nhưng các tờ báo lại sử dụng các hình thức, thể loại khác nhau để biểu đạt, chính vì thế ta cần phải nghiên cứu xem trong hoàn cảnh nào, nội dung nào mà lựa chọn các thể loại sao cho phù hợp. Điều này giúp cho việc nâng cao chất lượng của bài báo nói riêng và của tờ báo nói chung, giúp cho độc giả tiếp nhận thông tin nhanh chóng, hiểu rõ bản chất của vấn đề một cách khách quan nhất, sâu sắc nhất. Mặc dù vậy, khi thể hiện một nội dung nào đó, các nhà báo thường không trình bày theo một mô típ hình thức cứng nhắc mà vận dụng một cách sáng tạo các yếu tố hình thức của mỗi thể loại để tạo cho các tác phẩm của mình một phong cách phù hợp.
Trong những bài viết về hoạt động kinh tế - chính trị của Việt Nam với tư cách là thành viên ASEAN đăng trên báo các tác giả đã sử dùng nhiều yếu tố các thể loại tạo nên sinh động, có góc độ cho mỗi bài viết, bởi vậy việc phân loại các bài báo trong luận văn cũng không thể đạt độ chính xác tuyệt đối. Các bài báo phản ánh hoạt động kinh tế - chính trị của Việt Nam với tư cách là thành viên ASEAN từ 2001 đến 2003 chủ yếu tập trung ở thể loại tin, bài phản ánh và phỏng vấn.
Thể loại
Báo
Tin
Phỏng vấn
Bài phản ánh
Tổng cộng
“Báo nhân dân”
88
9
20
117
“Báo quốc tế”
6 3
11
35
109
“Thời báo kinh tế”
70
4
9
92
Cộng số tin bài ở 3 tờ báo
221
24
64
318
3.1.2. Tin
Tin là thể loại quan trọng bậc nhất của nhóm thể loại thông tấn, chức năng của nó là thông báo các sự kiện, hiên tượng một cách chính xác, ngắn gọn, kịp thời đang xảy ra trong cuộc sống có ý nghĩa chính trị xã hội nhất định. Nó phát huy được lợi thế là nhanh chính xác, ngắn gọn trong việc phản ánh những sự kiện trong nước và quốc tế đang diễn ra thu hút sự quan tâm đông đảo công chúng với ngôn ngữ sắc sảo, cô đọng dễ hiểu.
Báo “Nhân dân”, cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Việt Nam là tờ báo có nhiều đối tượng phục vụ, thông tin kinh tế, chính trị xã hội của báo có vai trò quan trọng và đặc biệt nhất của nước ta hiện nay. Khi cần cập nhật thông tin bạn đọc thường chú ý đến các mục như: “Tin giờ chót”, “Tin vắn”, “Thời sự quốc tế” với nhiều thông tin đa dạng lại rất kịp thời chính xác đây chính là ưu điểm, là mặt mạnh của báo “Nhân dân”.
Tin vắn hay còn gọi là tin giờ chót, tin mới nhận, là loại tin có dung lượng rất ngắn, một hai hoặc ba câu, thường không có đề, mà đầu đề được in đậm dòng đầu ví dụ: ND số 17474 ngày 30/5/2003 trên trang 8 có tin “Cam-pu-chia chuẩn bị hội nghị AMM chính quyền thành phố phnôm Phênh đã đề ra kế hoạch bảo vệ an ninh cho Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM) sắp diễn ra tại tành phố này trong thời gian tới. Chính quyền thành phố chỉ thị tất cả các đơn vị thực hiện tốt những nhiệm vụ được giao như bảo vệ an ninh, an toàn tuyệt đối và công tác vệ sinh môi trường”. Tin vắn này không có đầu đề mà dòng đầu đã được in đậm làm nổi bật vấn đề quan trọng cần đưa tin.
Tin vắn có dung lượng rất ngắn, cho nên dễ nhớ và dễ bố trí xắp xếp trong các bản tin, các chương trình phát thanh truyền hình. Tin vắn là thể loại rất khó viết vì sự kiện trong tin vắn phải được phản ánh một cách cô đọng nhất, xúc tích nhất.
Khác với tin vắn, tin ngắn là thông điệp quan trọng về quy mô, tính chất nguyên nhân, ý nghĩa của sự kiện, thời sự, ngoài chức năng thông báo nó còn gúp cho công chúng hiểu khá sâu về sự kiện. Đặc điểm của tin ngắn còn thể hiện ở tính đơn giản, ngôn ngữ ngắn gọn, dễ hiểu, điều quan trọng được đưa lên hàng đầu, với cấu trúc tin thường theo kiểu tam giác ngược kết cấu về nội dung tin bằng cách trả lời những câu hỏi cơ bản của tác phẩm báo chí (5 W+H)
- chuyện gì? (What)
- Khi nào? (When)
- ở đâu? (Where)
- Ai? (Who)
- Tại sao?( Why)
- Như thế nào? (How)
Tin tức gúp cho người đọc dễ dàng nắm bắt thông tin một cách có hiệu quả như tin ngày 18/4 thủ tướng chính phủ đã ra chỉ thị về việc tăng cường công tác chuẩn bị tổ chức đại hội thể thao Đông Nam á lần thứ 22 và đại hội thể thao người khuyết tật Đông Nam á lần thứ hai (ASEAN – Paragames 2), (trích thủ tướng chỉ thị về việc tổ chức SEA Games 22, ASEAN - Paragames 2- thông tấn xã Việt Nam ngày 18/4/2003). Hay tin: “Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Dy Niên dự cuộc họp Bộ truởng ngoại giao ASEAN (ND, số 17019/ 23/ 2/ 2003 .tr8)
“Bế mạc hội nghị bộ trưởng ngoại giao ASEAN lần thứ 36 (AMM 36). Theo phóng viên TTXVN tại Phnômpênh, ngày 17/6/2003. Sau hai ngày làm việc tại Phnômpênh, thủ đô vương quốc Campuchia kết thúc với việc thông qua thông cáo chung của hội nghị ” các bài viết trên báo “Nhân dân” thường khai thác từ nguồn thông tin của TTXVN và được đăng tải ngay trong ngày hoặc một ngày sau khi diễn ra sự kiện.
Còn báo “Quốc tế” do lượng thông tin ít nên khi có tin thì thường là do phóng viên của báo trực tiếp tham gia sự kiện rồi viết lại.
“Thời báo kinh tế Việt Nam” mặc dù tin cũng tương đối nhiều nhưng cũng không thể cập nhập được như báo “Nhân dân” và các tin cũng chủ yếu do phóng viên của báo viết lại. Những tin này thường nằm trên trang 8 của báo “Nhân dân” đặc biệt là ở chuyên mục “Thời sự quốc tế”, đôi khi nằm ở phía giữa góc phải trang nhất, báo “Quốc tế” là ở phía trên của trang 2 và trang 9, “Thời báo kinh tế Việt Nam” là phía trên ở giữa trang 1 và cả trang 15.
Các tin thường có tít riêng và tít thường rút ra từ nội dung chính của tin. Ví dụ: tin vắn tin về “diễn đàn khu vực ASEAN về an ninh”(ARS ). Theo chủ tịch ARS - 8 và bộ trưởng bộ ngoại giao Nguyên Dy Niên cho biết: “hoà bình và phát triển vẫn là vấn đề quan trọng và nan giải nhất của từng nước thành viên ASEAN, cũng như của toàn khu vực (TBKTVN ra ngày 25/7/2001 tr14)
Tin ngắn trên báo “Nhân dân”, “Quốc tế”, “Thời báo kinh tế” Việt Nam được trình bày theo cả 3 kiểu tam giác thường, tam giác ngược, hay chữ nhật tuỳ thuộc vào tính chất của sự kiện và ý đồ của người đưa tin. Tuy nhiên đa số vẫn cấu trúc theo hình tam giác ngược.
Như tin “Hội nghị ủy ban khoa học và công nghệ ASEAN lần thứ 46 (ND số 17591 ngày 25/9/2003). “Sáng 29/4 tại thành phố Hồ Chí Minh đã khai mạc hội nghị ủy ban khoa học và công nghệ ASEAN lần thứ 46. Hội nghị lần này tập trung xem xét đánh giá việc thực hiện kế hoạch 2001- 2004 được thể hiện cụ thể bằng 8 chủ đề với 40 hành động, trên cơ sở chuẩn bị cho kế hoạch 2005- 2009. Những chủ đề được các đại biểu quan tâm là: thương mại hóa công nghệ, hệ thống chỉ tiêu để lựa chọn và đánh giá kết quả thực hiện các dự án cơ chế thu hút khu vực kinh tế tư nhân”.
Từ một đến hai câu đầu của tin là phần hạt nhân của tin. Các chi tiết sau là phần ít quan trọng hơn và mang tính chất bổ xung làm rõ phần chính. Nhìn chung tùy thuộc vào tính chất sự kiện mà các báo có sự lựa chọn tin cho phù hợp nhu cầu của đông đảo độc giả. Qua khảo sát ba tờ báo “Nhân dân”, “quốc tế”, “Thời báo kinh tế Việt Nam” chúng tôi thấy ba tờ báo này đã phát huy được thế mạnh của tin, đặc biệt là tin ngắn và tin bình về các sự kiện kinh tế, chính trị nổi bật trong nước và quốc tế có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống kinh tế chính trị nước ta luôn chiếm một vị trí nhất định ở trang nhất của các báo này và mang tính định hướng cao.
3.1.3. Bài phản ánh:
Bài phản ánh là một loại tác phẩm báo chí được sử dụng khá phổ biến và chiếm một diện tích tương đối lớn trên các trang báo. Có thể nói rằng không một tờ báo nào có thể vắng mặt loại bài này. Nếu như tin ngắn chỉ thông báo một sự kiện, hiện tượng thì bài phản ánh không chỉ thông báo mà còn khái quát chúng.
Bài phản ánh có thể được chia làm ba nhóm lớn: bài phản ánh thông tin, bài phản ánh phân tích và bài phản ánh nêu vấn đề. Đội khi khó xác định thể loại bài phản ánh. Bài phản ánh trên báo “Nhân dân”, “Quốc tế”, “Thời báo kinh tế Việt Nam ” phần lớn là bài phản ánh thông tin. Chính vì vậy trong những năm qua số lượng bài phản ánh trên báo “Quốc tế” quá nhiều nhằm bổ trợ cho tin. Còn thể loại chủ lực của báo “Nhân dân” về cung cấp thông tin là tin ngắn nên bài phản ánh rất ít mà chủ yếu tập trung vào quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và ASEAN.
Thông thường bài phản ánh thông tin trên báo “Nhân dân” và “Quốc tế” đều tập trung vào ba mảng chính: một là các cuộc thăm viếng lẫn nhau của các nhà lãnh đạo Việt Nam và các Quốc gia ASEAN, hai là nội dung các cuộc họp nội các khối ASEAN, ba là nhưng thành tựu Việt Nam đạt được trong tiến trình gia nhập ASEAN . Dưới đây là kết cấu của bài phản ánh thông tin về một hội nghị mang tiêu đề: “Hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN” (TBKTVN số 111, 16/ 9/2002)
Nội dung chính của hội nghị là: “Hội nghị hàng năm Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 34 họp tại thủ đô Bandar Seri Begawan của Brunei từ ngày 12- 14/9, gồm Bộ trưởng kinh tế các nước thành viên ASEAN và các đai diện các bên đối thoại Trung Quốc, Nhật Bản, New Zealand, Australia, đã thảo luận các biện pháp nhằm đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế thương mại và đầu tư gữa các nước thành viên ASEAN và gưa ASEAN với các nước đối tác trong khu vực.”
Trong phần giải quyết vấn đề:
- Phát biểu khai mạc hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN, quốc vương Brunei Hassanal nêu rõ các nền kinh tế trong khu vực phục hồi sau cuộc khủng hoảng tài chính châu á 1997 – 1998 ASEAN vẫn đang phải đối phó nhiều thách thức trong tiến trình phát triển để trở thành một đối tác quan trọng trên thị trường thế giới .
- Các Bộ trưởng kinh tế tham dự hội nghị cảnh báo sự suy giảm của nền kinh tế Mỹ, nước chiếm 40% tổng sản lượng kinh tế toàn cầu sẽ ảnh hưởng tới tốc độ phục hồi kinh tế toàn cầu.
- Tại hội nghị các Bộ trưởng đã thông qua một số sáng kiến đầu tư trong hai năm nhằm khuyến khích các hoạt động chung trong các nước thành viên ASEAN để thu hút FDI vào khu vực này.
- Trong phần kết luận tác giả đã trích lời phát biểu của Bộ trưởng công nghiệp và tài nguyên Brunei Abdul Rahman Taib cho biết các Bộ trưởng ASEAN tin tưởng rằng tình hình hiện nay là rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, ông cho rằng những số liệu về FDI này vẫn là thấp so với trước khi sảy ra cuộc khủng hoảng tài chính châu á.
Bài phản ánh viết khá dài, khoản trên 1000 từ, nội dung chính của bài được trình bày thông qua nội dung của các bài phát biểu của các quan khách tham dự.
Đối với những bài có tính chất thông báo về mối quan hệ song phương, thường được mở đầu bằng việc giới thiệu chuyến viếng thăm, tiếp đó là nội dung các cuộc gặp gỡ và điểm lại quan hệ lịch sử gữa hai nước và đánh giá lĩnh vực hợp tác và cuối cùng bao giờ cũng khẳng định mối quan hệ tốt đẹp song phương gữa hai nước. Những bài tiêu biểu là: “Kinh tế khu vực ASEAN hồi phục mạnh” (ND số 17062, 7/4/2002, tr8), “Việt Nam - Thái Lan đàm phán thương mại”, “mô hình hợp tác mới Việt Nam - Singgapore” (Tạp chí Châu á Thái Dình Dương số 4 ngày 25/3/2003)
Trên báo “Quốc tế” số 46/11/2002 có bài “Việt Nam trong tốp dẫn đầu tăng trưởng kinh tế”. Đây là bài phản ánh phân tích có kết cấu theo cơ cấu hình thức. Kiểu kết cấu này cho phép tác giả mở đầu tác phẩm bằng cách nêu sự kiện, hiện tượng sẽ giữ vai trò củ yếu trong nội dung tác phẩm. Trong báo cáo đạt được tiến bộ trong thời gian bất ổn định công bố ngày 16/11 về tình hình Đông á và Thái Bình Dương, ngân hàng thế giới (WB ) đã đánh giá cao tốc độ tăng trưởng của Việt Nam. Dẫn đầu trong bảng tổng kết về mức độ tăng trưởng kinh tế trong năm nay là Trung Quốc và Việt Nam từ 6% đến 8%. Trong khi các nước khác trong khu vực kể cả những nền kinh tế mới công nghiệp hoá như Singgapore, đài Loan, Hồng Kông, chỉ đạt trên 4%. Những nước trong khu vực như Thái Lan, Inđônêxia, philippin, malaysia, đều tăng trưởng ở mức thấp , từ 3-4%”
Phần giải quyết vấn đề tác giả đã nêu lên bức tranh toàn cảnh kinh tế Đông Nam á trong thời gian qua và sắp tới chưa mấy tươi sáng “chỉ nhích từ mức đáng buồn 3,5 % năm 2001 đến 5,5 % năm 2002 tốc độ tăng trưởng dù cao hơn các vùng khác trên thế giới nhưng lại vẫn tụt hậu so với chính tiềm năng của khu vực”.
Tiếp theo tác giả viết về việt Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong bối cảnh môi trường quốc tế không thuận lợi, “nhờ những nỗ lực trong việc triển khai một loạt các cải cách kinh tế . Đặc biệt Việt Nam đã nâng cao được niềm tin của giới doanh nghiệp tư nhân thông qua các chính sách tích cực của chính phủ”.
Phần cuối cùng tác giả đã đưa ra kết luận về sự chênh lệch giữa những người hội nhập thành công vào nền kinh tế thế giới và những người không theo kịp sự “tăng tốc” của thời đại chắc chấn sẽ ngày càng rộng ra, để khắc phục khoảng cách đó cần có những chính sách xã hội mạnh mẽ trong các lĩnh vực y tế và các lĩnh vực phúc lợi xã hội khác.
Bài phản ánh với ngôn ngữ chính xác, mềm mại, giàu cảm xúc đã giúp độc giả đi dần đến chỗ hiểu sâu, hiểu toàn diện, hiểu rõ về vấn đề quốc tế mà độc giả ít được biết, do đó đòi hỏi nhà báo cần có kiến thức chuyên sâu để diễn đạt bằng ngôn ngữ dễ hiểu nhất.
Với nhiệm vụ tuyên truyền và chức năng của mình báo chí nói chung đã giúp người đọc nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của mối quan hệ Việt Nam - ASEAN và những hoạt động kinh tế - chính trị của Việt Nam với tư cách là thành viên ASEAN. Mặc dù thể loại này không thể gọi là hạt nhân bài báo, nhưng ta không thể phủ nhận vai trò của thể loại này trong việc nêu bật những hoạt động kinh tế - chính trị của Việt Nam với tư cách là thành viên ASEAN và định hướng dư luận đay cũng là một tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác tuyên truyền của ba tờ báo “Nhân dân”, “Quốc tế”, “Thời báo kinh tế Việt Nam”.
3.1.4. Phỏng vấn.
Phỏng vấn thuộc nhóm thể loại thông tấn, mang đặc điểm thông tin nhanh nhạy, chính xác. phỏng vấn bao giờ cũng gắn liền với một sự kiện, vấn đề có ý nghĩa chính trị xã hội đã, đang và sẽ thu hút đông đảo sự quan tâm của công chúng.
“ Điểm khác biệt nổi bất của phỏng vấn so với loại báo chí khác trước hết là ở hình thức hỏi - đáp”( Đức Dũng. Viết báo như thế nào? tr 36
)
Phân loại phỏng vấn căn cứ vào mục đích, hình thức, nội dung, có thể chia thành các loại: phỏng vấn đối thoại, phỏng vấn độc thoại, phỏng vấn đàm thoại, phỏng vấn điều tra, phỏng vấn thông báo phỏng vấn ý kiến họp báo. Khi phản ánh về hoạt động kinh tế - chính trị của Việt Nam với tư cách là thành viên ASEAN chủ yếu là dạng bài phỏng vấn đối thoại.
Các bài phỏng vấn của báo “Nhân dân”, “Quốc tế” và “Thời báo kinh tế Việt Nam” đều được thực hiện nhân có một sự kiện đặc biệt như có các vị lãnh đạo của các nước ASEAN sang thăm Việt Nam, nhân có hội nghị, họp ký kết hay sự kiện đánh dấu một mốc quan trọng nào đó trong tiến trình hội nhập kinh tế, quan hệ chính trị Việt Nam cũng như hiệp hội ASEAN. Các bài phỏng vấn này hầu hết là phỏng vấn nhanh, được thực hiện khi sự kiện chuẩn bị diễn ra hoặc ngay khi sự kiện xảy ra nếu là các nước ASEAN đến thăm nước ta hay ngay sau khi đoàn Việt Nam từ nước ngoài trở về, nên các bài thường rất ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề. Chẳng hạn trên báo “Quốc tế” có bài “Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên trả lời phỏng vấn về hội nghị AMM 36 và các hội nghị liên quan” (QT số 25, 19/6 /2003 tr5). Đây là bài phỏng vấn đối thoại giữa tác giả và Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên. Cách đặt câu hỏi phỏng vấn ngắn gọn dễ hiểu và câu trả lời của người được phỏng vấn cũng đI thẳ vào nội dung câu hỏi mà không vòng vo.
Khi phóng viên hỏi: “Xin Bộ trưởng cho biết những vấn đề nổi lên tạI hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN lần thứ 36 và các hội nghị liên quan tiI Phnom phenh lần này? Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên trả lời: “các Bộ trưởng ngoại giao ASEAN đã tập trung thảo luận các biện pháp để đối phó hiệu quả những thách thức to lớn đang dặt ra cho hiệp hội, đưa ASEAN phát triển”.
Câu hỏi tiếp theo mà phóng viên đưa ra là: “Xin Bộ trưởng đánh giá về kết quả các hội nghị lần này?. Bộ trưởng trả lời: “truớc những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, trước những thách thức đã đặt ra cho toàn hiệp hội và những nước thành viên, với những kết quả đã đạt được tại hội nghị tôi cho rằng hội nghị AMM36 đã thành công tốt đẹp”.
Kết thúc bài phỏng vấn là câu hỏi về phía Việt Nam “xin Bộ trưởng cho biết những đóng góp của Việt Nam vào thành công của hội nghị lần này.Bộ trưởng trả lời: “trước những diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và quốc tế chúng ta đã đóng góp tích cực vào việc tăng cường đoàn kết, thống nhất trong ASEAN, góp phần xây dựng tiếng nói chung lập trường chung của ASEAN trước những vấn đề thiết yếu của hiệp hội”.
Phóng viên Minh Nguyệt của báo quốc tế có bài “Ngày 1/7 hiệu lực AFTA bắt đầu” (số 27 ngày 3/7/2003. Tr 4), bài phỏng vấn này là cuộc trao đổi giữa tác giả và người được phỏng vấn là Bộ trưởng tàI chính. Một loạt câu hỏi được đưa ra theo thư tự trước sau đều rất logic. Câu hỏi đầu tiên được phóng viên hỏi Bộ trưởng tài chính: “Thưa ông, dưới góc độ thị trường, việc cắt giảm ngay 1.416 mặt hàng liệu đã gây ra sự biến độngnào về giá cả chưa”?
Sau phần nhận xét của người được phỏng vấn, tiếp theo phóng viên đặt câu hỏi về “sự chuẩn bị của các doanh nghiệp Việt Nam trước sự kiện giảm thuế này”?
Phần tiếp theo phóng viên đưa ra câu hỏi kết thúc bài phỏng vấn: “theo ông, các doanh nghiệp cần phải làm gì để tranh thủ cơ hội này?
“Thời báo kinh tế Việt Nam” có bài “Thái Lan luôn coi Việt Nam là đối tác thương mại và đầu tư quan trọng”, phóng viên TBKTVN đã trao đổi với ông Somakla Sarapanichkul, tham tán thương mại đại sứ quán Thái Lan tại Việt Nam. Bài phỏng vấn rất ngắn gọn, chỉ có hai câu hỏi, cụ thể câu hỏi như sau:
Câu 1: “Mục đích chính của triển lãm sản phẩm Thái Lan là gì thưa ông”?
Câu 2: “Với tư cách là Tham tán thương mại tại Việt Nam, ông có thể cho biết nhận xét của mình về quan hệ thương mại và đầu tư gữa Thái Lan và Việt Nam trong những năm gần đây”
Hầu hết các câu hỏi phỏng vấn đều đi vào những vấn đề chính không có những câu hỏi đóng khiến cho người được hỏi khó trả lời. Các câu hỏi thường được cân nhắc kỹ, nội dung mạch lạc và những câu hỏi này đều đánh trúng vấn đề. Câu hỏi không nhiều nhưng buộc người trả lời phải cung cấp thông tin đầy đủ nhất.
3.2. Chuyên trang, chuyên mục
3.2.1.Chuyên trang
Ngoài các thể loại tin, bài phản ánh, phỏng vấn, ghi chép được 3 báo “Nhân dân”, “Quốc tế”, “Thời báo kinh tế” dùng để thông tin về hoạt động kinh tế – chính trị của Việt Nam với tư cách là thành viên ASEAN, thì các báo này còn sử dụng hình thức “chuyên trang” để phản ánh vấn đề này. Trong những năm của thập kỷ 90 của thế kỷ 20, các phương tiện truyền thông phát triển như vũ bão, sự bùng nổ thông tin đã tri phối sự phát triển của một hệ thống báo trong hùng hậu, cùng với nó sự lớn mạnh của phát thanh va truyền hình đã tạo ra một mặt trận thông tin với những khối lượng thông tin khổng lồ. Điều này khẳng định báo chí vẫn giữ được vị trí quan trọng là trục của truyền thông, là nơi cung cấp một khối lượng lớn thông tin cho công chúng, bạn đọc. Tuy nhiên, mặt bằng dân chí chung của công chúng thì không đồng đều đòi hỏi mỗi tờ báo phải có một hình thức truyền tải nội dung thông tin một cách phong phú, hấp dẫn đơn giản, phù hợp với trình độ của người đọc. Làm được điều này không phải là dễ, ngoài việc sử dụng các loại báo chí để thể hiện, thì nhiều báo đã có những cải tiến trong hình thức trình bày gọn gàng, màu sắc đẹp, nội dung ngắn gọn và đã có những “chuyên trang”, “chuyên mục”. Báo “Nhân dân” có chuyên trang “Quốc tế”, báo ‘Quốc tế” có chuyên trang “Châu á Thái Bình Dương”, “Kinh tế đối ngoại”, “Thời sự”. ‘Thời báo kinh tế Việt Nam” có chuyên trang “Thời sự kinh tế ”, và “Kinh tế thế giới” .
Báo “Nhân dân” khi phản ánh hoạt động kinh tế - chính trị của Việt Nam với tư cách là thành viên ASEAN, thường không có những bài bình luận trên chuyên trang “Quốc tế”, điều này hoàn toàn ngược lại với báo “Quốc tế” luôn có những bài bình luận sắc sảo, bài phản ánh về mối quan hệ song phương giữa Việt Nam và các nước ASEAN hoặc về những sự kiện nổi bật liên quan đế các hoạt động kinh tế, chính trị Việt Nam - ASEAN trên trang “Thời sự quốc tế ”, trang “Châu á Thái Bình Dương”. Như các bài: “Hội nghị về gúp đỡ các thành viên ASEAN”, “nhiệm vụ và thách thức của ASEAN”, “2002: hành lang văn hoá khu vực ASEAN”, “ASEAN thách thức mới về kinh tế”.
Trên trang “thời sự” của báo “Quốc tế” số 46 ,14/11/2002 đăng bài bình luận “Việt Nam trong tốp dẫn đầu tăng trưởng kinh tế” của Đông Nam á chiếm một phần ba diện tích mặt báo trang này, bài báo gúp bạn đọc có được cái nhìn tổng thể tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Cũng trên chuyên trang “Thời sự”, Đỗ Ngọc Sơn có bài “bốn yếu tố phát triển hợp tác Việt Nam - Thái Lan” (QT số 32, 27/2/2001) gúp bạn đọc hiểu sâu sắc hơn về quan hệ hợp tác kinh tế gữa Việt Nam và thành viên của ASEAN.
“Thời báo kinh tế” cũng có những bài bình luận sắc sảo về vấn đề hội nhập kinh tế khu vực với bài “Hướng tới một cộng đồng Đông Nam á phát triển” trên chuyên trang “Kinh tế thế giới” (TBKT số 133, 6/11/2002.tr18) của Anh Hồng thể hiện sự hiểu biết sâu sắc của tác giả về lĩnh vực hợp tác Việt Nam – ASEAN, các thông tin đưa ra chính xác giúp người đọc thấy được vai trò của Việt Nam trong ASEAN.
Như vậy việc duy trì thường xuyên các “chuyên trang” trên báo sẽ gúp cho công chúng tiếp cận thông tin dễ dàng và thuận tiện hơn vì dối với công chúng khi tiếp cận thông tin của một tờ báo, không phải họ đọc tất cả những thông tin tờ báo đăng tải mà chỉ lựa chọn đọc những thông tin quan tâm. Mặt khác, thời gian mọi người dành để đọc một tờ báo, không phải là nhiều, bởi một ngày có rất nhiều tờ báo được xuất bản, người đọc cần dành thời gian phù hợp cho mỗi tờ báo mà mình quan tâm.
Thực tế cho thấy rằng việc Báo ‘Nhân dân” báo “Quốc tế” và “Thời báo kinh tế Việt Nam ” sử dụng hình thức “chuyên trang” trong việc truyền tải thông tin quốc tế có ý nghĩa quang trọng trong đời sống kinh tế, chính trị nước ta, cụ thể là việc phản ánh mối quan hệ kinh tế, chính trị Việt Nam - ASEAN trong thời gian qua đã làm tăng sức hấp dẫn của tờ báo, người đọc cảm thấy tiếp nhận thông tin một cách đễ dàng đơn giản nhanh chóng hơn.
3.2.2. Chuyên mục.
Trong ba tờ báo “Nhân dân”, “Quốc tế” và “Thời báo kinh tế Việt Nam”, chúng tôi khảo sát hình thức chuyển tải thông tin của các báo này thì chỉ có duy nhất báo Nhân dân là sử dụng hình thức “chuyên mục” để phản ánh hoạt động của Việt Nam trên lĩnh vực kinh tế – chính trị với tư cách là thành viên của ASEAN. Chúng tôi xin đi vào nghiên cứ hình thức chuyển tải thông tin bằng “chuyên mục” của báo “Nhân dân” để thấy được hiểu quả của hình thức này. Báo “Nhân dân” có những chuyên mục nói về hoạt động kinh tế - chính trị của Việt Nam với tư cách là thành viên ASEAN và những vấn đề có liên quan. Đó là chuyên mục “Thời sự quốc tế”, “Điểm thời sự”, “Tin giờ chót”, “Tin vắn thế giới”.
“Tin giờ chót” ở báo “Nhân dân” được đóng khung rất nổi bật. Mục này có khối lượng tin không cố định tuỳ thuộc vào diễn biến tình hình thế giới, sự kiện. Nếu số lượng tin quá dài báo Nhân dân thường cắt sang trang số 5 hoặc số 7. Tin trong mục “tin giờ chót” thường ngắn gọn, không có tít. Để phân biệt, trước mỗi tin báo đều trong kềm một hình chữ nhật và trong đậm câu đầu tiên.
Mục “tin vắn thế giới” thường có khoảng 7 tin, các tin đều có tít đậm. “Tin giờ chót” và “Tin vắn thế giới’ là hai mục truyền thống của báo Nhân dân, cung cấp nhanh các thông tin mới nhất đến độc giả.
Như tin về “nhóm các nước ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc họp hai ngày qua tại Philippin nhất chí sẽ không đóng của biên giới bất chấp bệnh SARS nhà nước sẽ thực thi một loạt các biện pháp nghiêm ngặt để phòng bệnh lây lan” (ND số 26 ngày 18/5/2003).
Với những kết quả trên có thể khẳng định được rằng báo “Nhân dân” đã phát huy được lợi thế chuyên mục là ngắn gọn, chính xác, kịp thời” trong việc truyền tải thông tin quốc tế cho công chúng, những sự kiện có liên quan đến đời sống kinh tế, chính trị của Việt Nam như hoạt động kinh tế – chính trị của Việt Nam với tư cách là thành viên ASEAN gúp công chúng tiếp nhận thông tin được nhanh chóng đễ dàng. Mặt khác, tiết kiệm được diện tích mặt báo cho tờ báo, vì những tin bài trong “chuyên mục” hết sức ngắn gọn, cô đọng. Đây cũng là kinh nghiệm tốt để các báo khác học tập khi chuyển tải thông tin quốc tế.
Kết luận
Việt Nam đang bước vào ngưỡng cửa của thế kỷ 21- một thế kỷ mà xu thế quốc tế hoỏ và toàn cầu hoỏ đang là mối quan tõm và mục tiờu hàng đõu trong cỏc chớnh sỏch đối ngoại của tất cả cỏc nước trờn thế giới núi chung và trong khu vực Đụng Nam Á núi riờng, đặc biệt từ khi ASEAN ra đời cho đến nay đó hơn 35 năm và từ một ASEAN 6 nay đó trở thành ASEAN 10.
Vấn đề Việt Nam gia nhập ASEAN đó ngày càng khẳng định được sự liờn kết khu vực hết sức mạnh mẽ trong tươnglai vỡ một nền hoà bỡnh, ổn định và phồn vinh của khu vực nhằm tiến tới một ASEAN đồng thuận và đoàn kết. Gia nhập ASEAN Việt nam đó khẳng định được vai trũ, vị thế quan trọng của mỡnh trong khu vực, nỗ lực phấn đấu để tiến kịp tốc độ phỏt triển của cỏc nướcvỡ lợi ớch dõn tộc và khu vực.
Thấm nhuần và quỏn triệt đường lối chớnh sỏch đối ngoại của Đảng và nhà nước trong thế kỷ đổi mới, bỏo “Nhân dân”, báo “Quốc tế , “Thời báo kinh tế Việt Nam đó khụng bỏ qua những vấn đề bức xỳc như vấn đề hợp tỏc, liờn kết khu vực hiện nay, với những sự kiện trước và sau khi gia nhập ASEAN của Việt Nam, bỏo chớ đó tỏ ra rất nhạy bộn, thể hiện được tớnh định hướng của bỏo chớ đối với cụng chỳng bằng việc liờn tiếp đăng tải những tin tức, thụng tin, bài quan trọng, cú hệ thống giỳp bạn đọc nắm bắt một cỏch nhanh nhậy khỏc những gỡ cú tớnh chất cơ bản nổi bật về ASEAN. Qua đú, bỏo chớ cú nhiều bài bỡnh luận, phản ánh, phỏng vấn cỏc nhà lónh đạo cấp cao trong ban chấp hành Trung ương Đảng do những phúng viờn, nhà bỏo cú tay nghề, viết về sự nghiệp đổi mới đường lối đối ngoại của Đảng đó hoạch định lờn những chớnh sỏch phương hướng đối ngoại sỏng suốt, đỳng đắn cho mối quan hệ hợp tỏc nhiều mặt và mở rộng, phỏt triển chỳng trong mụi trường thuận lợi.
Đồng thời để phự hợp với thế kỷ mới, Đảng đó chủ trương mở rộng cửa, thực hiện chớnh sỏch đối ngoại đa dạng hoỏ, đa phương hoỏ cho sự hợp tỏc khu vực nhằm xõy dựng và phỏt triển đất nước theo hướng cụng nghiệp hoỏ hiện đại hoỏ, tiến tới mục tiờu dõn giầu nước mạnh xó hội cụng bằng văn minh trờn cơ sở giữ vững bản sắc dõn tộc của mỡnh.
Thời gian qua bỏo chớ đó tập hợp được những cõy bỳt năng động, sỏng tạo giầu kinh nghiệm. Chớnh vỡ vậy mà mảng đề tài hoạt động kinh tế - chính trị của Việt Nam với tư cách thành viên ASEAN trờn bỏo chớ rất phong phú, đa dạng nhưng nhất quỏn trong tư tưởng chỉ đạo. Những bài bình luận đó thể hiện được sự am hiểu sõu sắc cỏc sự kiện trong khu vực cỏc tỏc giả chỳ trọng đến việc đỏnh giỏ, nhận xột một cỏch khỏch quan trờn cơ sở nắm bắt được những thụng tin xỏc thực về hoạt động kinh tế - chính trị của Việt Nam với tư cách thành viên ASEAN
Một số kiến nghị:
Cùng với mong muốn góp một tiếng nói chung vì sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, vì mục tiêu “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới “. Qua khảo sát báo chí tác giả muốn nhìn nhận lại những diễn biến sự kiện đã qua trên các trang viết của báo chí về vần đề thực tế hiện nay, về xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá, để thể hiện thiện chí trong việc củng cố và mở rộng hợp tác và phát triển và bảo vệ đất nước, đồng thời khẳng định sự trường tồn, lâu dài song phương Việt Nam - ASEAN.
Tác giả khoá luận xin đề đạt một số kiến nghị sau :
Qua khảo sát 3 tờ báo “Nhân dân”, “Quốc tế” và “Thời báo kinh tế Việt Nam”. Cả 3 tờ báo đều bám sát chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước về mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, chính trị với ASEAN để hòa thành trong lĩnh vực quan trọng mà Đảng và Nhà nước đã giao phó.
Báo “Nhân dân” luôn khẳng định mình là một tờ báo Đảng với nhiều tin bài phong phú về nội dung được diễn đạt dưới nhiều hình thức.Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định là đã bỏ qua không đề cập đến những vấn đề khá quan trọng là hợp tác công nghiệp không có bài viết chỉ có những tên còn chung chung. Báo “Nhân dân” cũng cần nâng cao hơn nữa về chất lượng bài phỏng vấn.
Báo “Quốc tế”, cần phát huy thế mạnh của tờ báo ngành, bám sát các nhiệm vụ thông tin đối ngoại, các tin cũng cần được cập nhật hơn, lượng thông tin cho hợp tác kinh tế song phương báo cần phản ánh nhiều hơn cho từng nước. Báo cũng nên đa dạng hoá hơn nữa các thể loại báo chí khi truyền tải thông tin như “ghi chép”, “tường thuật” thống nhất phiên âm tiếng nước ngoài làm sao để phù hợp với mặt bằng dân trí nước ta.
Về “Thời báo kinh tế Việt Nam”: cần chú trọng hơn việc khai thác thế mạnh của việc bình luận quá trình nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy ở tờ báo này còn thiếu những bà bình luận có tính tổng hợp và khái quát cao về vấn đề “hoạt động kinh tế - chính trị. Việt Nam với tư cách là thành viên ASEAN”.
Mặc dù những đóng góp trên được rút ra qua một quá trình nghiên cứu và khảo sát nó vẫn mang tính chất cá nhân, thiện ý của chúng tôi là muốn cho các tờ báo, đặc biệt là ba tờ báo “Nhân dân”, “Quốc tế”, “Thời báo kinh tế Việt Nam ” ngày càng ngây được sự tin cậy của các độc giả, có được dự báo đúng, phát hiện và thông tin kịp thời về hoạt động giữa Việt Nam và ASEAN, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước có nền kinh tế vững chắc.
Tài liệu tham khảo
1. Sách :
1.1. Đức Dũng. “Các thể ký báo chí”, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội 1996.
1.2. Đỗ Xuân Hà. “Báo chí với thông tin quốc tế” Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997.
1.3. Đỗ Mười. “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996
1.4. Trần Quang. “Các thể loại chính luận báo chí”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002
1.5. Tài liệu nghiên cứu van kiện Đại hội VI của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001
1.6. Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001
1.7. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật Hà Nội 1991
1.8. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 1991
1.9. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 1996
1.10. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001
2. Báo, Tạp chí :
2.1. Báo “Bộ ngoại giao” 2001 - 2003
2.2. Báo “Nhân dân” 2000 - 2003.
2.3. Báo “Nông nghiệp” tháng 11/2003
2.4. Báo “Quốc tế” 2001- 2003
. 2.5. Báo “Thông tấn xã Việt Nam ” 2000 - 2003.
2.6. Tạp chí “kinh tế Châu á Thái Bình Dương” 2001- 2003
2.7. Tạp chí “kinh tế thế giới” 2000 - 2003
2.8. Tạp chí “Nghiên cứu “Quốc tế”” 2001 - 2003
2.9. Tạp chí “Nghiên cứu Đông Nam á” 2001 - 2003
2.10. “Thời báo kinh tế Việt Nam” 2001 - 2003
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2281.doc