Trên cơ sở của mối quan hệ truyền
thống, chính trị tốt đẹp, sự hợp tác trong
các lĩnh vực khác, như văn hóa, giáo
dục, khoa học - kỹ thuật, du lịch,. giữa
hai nước cũng đã và đang phát triển lên
tầm cao mới. Việc tổ chức những Ngày
văn hóa Việt Nam tại LB Nga và những
Ngày văn hóa LB Nga tại Việt Nam trong
năm 2019 nhân những ngày lễ lớn của
hai nước, như 25 năm ký Hiệp định về
những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ
Việt Nam - LB Nga (1994-2019), 70 năm
thiết lập quan hệ ngoại giao Liên Xô/
Nga - Việt Nam (1950-2020), đã làm cho
nhân dân hai nước hiểu biết lẫn nhau tốt
hơn, tình hữu nghị truyền thống và đối tác
chiến lược toàn diện giữa hai nước được
củng cố và phát triển tốt đẹp hơn. Trong
lĩnh vực giáo dục - đào tạo, số lượng sinh
viên, nghiên cứu sinh Việt Nam và đặc
biệt là số người sinh sống, làm ăn tự do
tại LB Nga đã, đang và có xu hướng ngày
một đông hơn.
Trước thực trạng quan hệ Việt - Nga
có nhiều điều kiện thuận lợi đan xen với
những khó khăn, hai nước đang cùng nhau
suy nghĩ về các biện pháp nhằm đẩy mạnh
và mở rộng hơn nữa sự hợp tác giữa các
ngành, các cấp của Việt Nam và LB Nga.
Chỉ có như vaajy mới phát huy được hiệu
quả hợp tác Việt - Nga, đáp ứng lợi ích
dân tộc lâu dài của nhân dân hai nước./
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 294 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Việt Nam trong chiến lược đối ngoại hướng đông của Liên Bang Nga, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
104
VẤN ĐỀ QUỐC TẾ
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 06/2019
Đại hội lần thứ XII của Đảng ta đã nhận
định: “Tình hình chính trị và an ninh trên
thế giới diễn biến một cách nhanh chóng,
đồng thời những thay đổi này rất phức
tạp và rất khó lường. Tại nhiều khu vực
tiếp tục có sự xâm phạm chủ quyền quốc
gia, diễn ra các vụ tranh chấp lãnh thổ và
tranh chấp tài nguyên khoáng sản, xẩy ra
các cuộc xung đột dân tộc và sắc tộc, can
thiệp và lật đổ, các hành động khủng bố,
chiến tranh lạnh và chiến tranh cục bộ”
[1]. Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước đã
hoạch định và đang thực hiện chính sách
“đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ”
nhằm mục đích tìm cho Việt Nam một vị
trí xứng đáng nhất, đáp ứng tối đa lợi ích
dân tộc trong quan hệ với các nước, trước
hết là các nước láng giềng và các nước
lớn. Trong đó có LB Nga.
1. Chiến lược đối ngoại hướng Đông
của Liên bang Nga
Theo mọi tiêu chí, LB Nga đã và vẫn
là một cường quốc thế giới, vì vậy, phải
có chiến lược đối ngoại (CLĐN) toàn
cầu. “Chiến lược đối ngoại của Liên
bang Nga” được Tổng thống V. Putin
thông qua ngày 30/11/2016 đã chỉ rõ
những nguyên tắc cơ bản và một trong
những ưu tiên là khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương (CA-TBD): “Nước Nga coi
việc củng cố những vị trí của mình ở khu
vực CA-TBD và việc đẩy mạnh quan hệ
với các quốc gia trong khu vực là một
hướng chiến lược quan trọng trong chính
sách đối ngoại (CSĐN) của mình, điều
đó cũng đồng thời xác nhận rằng nước
Nga nằm trong khu vực phát triển năng
động này của thế giới” [2].
VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC ĐỐI NGOẠI
HƯỚNG ĐÔNG CỦA LIÊN BANG NGA
ThS. Lê Thanh Vạn *
Tóm tắt: Việc nghiên cứu LB Nga nói chung và chính sách đối ngoại của nước
này nói riêng có ý nghĩa quan trọng. Qua đó, tác giả bài viết muốn xác định xem nước
Nga muốn gì ở Việt Nam và vị trí của Việt Nam như thế nào trong chính sách của LB
Nga, nhằm kiến nghị với Đảng và Nhà nước các biện pháp tranh thủ tối đa sự ủng hộ
của LB Nga đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của chúng ta.
Từ khoá: Liên bang Nga, chính sách đối ngoại.
Abstract:The study of the Russian Federation in general and the foreign policy of
Russia in particular is important to determine what does Russia want in Vietnam and
Vietnam’s position in its policy, proposes to Party and the Government measures to
maximize support of the Russian Federation for the contruction and defense of Vietnam.
Keywords: The Russian Federation, foreign policy.
* Chủ nhiệm Khoa Nga - Hàn, Trường ĐH KD&CN Hà Nội.
105
VẤN ĐỀ QUỐC TẾ
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 06/2019
Xét về bản chất, CSĐN của LB Nga
ngày nay khác nhiều so với CSĐN của
Liên Xô trước đây. Nếu các nguyên tắc về
ý thức hệ, giai cấp, chủ nghĩa quốc tế vô
sản, cộng đồng xã hội chủ nghĩa, v.v. đã
là nền tảng của CLĐN của Liên Xô trước
kia, thì các tiêu chuẩn, như phi ý thức hệ,
lợi ích quốc gia, tính thực tế (thực dụng),...
lại là cơ sở của CLĐN của LB Nga hiện
nay. Việc điều chỉnh CLĐN của LB Nga
hướng tới các mục tiêu cơ bản sau đây:
- Tạo các điều kiện bên ngoài thuận
lợi để tiến hành thắng lợi công cuộc cải
cách trong nước;
- Đảm bảo cho nước Nga vị trí xứng
đáng trong khu vực và trên trường quốc
tế. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Nhâm:
“Mục tiêu chiến lược của Nga có những
điều chỉnh theo hướng vừa ưu tiên, đa
dạng hóa, vừa linh hoạt, thực dụng, phù
hợp với những thay đổi của tình hình
trong nước, khu vực và cục diện quốc tế;
quan hệ của các nước lớn cũng như vị thế
toàn cầu của Nga” [3].
Có thể có một số nguyên nhân chính
sau đây dẫn tới các điều chỉnh đó:
Một là, Nga chuyển từ chính sách
quá thiên về phương Tây (đầu những
năm 90 thế kỷ XX) sang chính sách cân
bằng Đông - Tây (từ giữa những năm
90 thế kỷ XX tới nay).
Ngay sau khi Liên Xô tan rã (đầu
thập niên 90 thế kỷ XX), những người
hoạch định CSĐN của LB Nga, như Bộ
trưởng Ngoại giao A. Kozưrev,... đã chủ
trương ngả hẳn sang phương Tây, hy
vọng phương Tây sẽ sẵn sàng đón tiếp và
nguồn vốn đầu tư, khoa học - công nghệ
sẽ ào ạt vào Nga. Với nhận định rằng sau
khi Liên Xô tan rã, nước Nga “không
có các địch thủ tiềm tàng”, “không có
mối đe dọa quân sự đối với lợi ích của
Nga” và “không có những cản trở khách
quan trên con đường hòa nhập vào thế
giới văn minh”, A. Kozưrev đề xuất tư
tưởng đưa nước Nga chuyển từ “đối tác
thận trọng” sang các quan hệ hữu nghị và
trong tương lai, nước Nga cần phải thiết
lập “mối quan hệ đồng minh” với thế
giới văn minh (phương Tây) và các cấu
trúc của nó, kể cả khối NATO. Khá nhiều
quan chức Nga chia sẻ ở mức độ khác
nhau quan điểm của A.Kozưrev. Chẳng
hạn, S. Stankeevich, cựu cố vấn chính trị
của Tổng thống B. Yeltsin, đã nói: “Ở đó
(phương Tây) là tín dụng, ở đó là viện
trợ, ở đó là công nghệ, và cuối cùng, ở
đó là phong cách đầy quyến rũ đối với
CSĐN mới của LB Nga” [4].
Mặc dù Nga đã cố gắng truyền tín
hiệu cho phương Tây biết ý định của
mình, nhưng phương Tây đã không muốn
nhận bất cứ trách nhiệm và nghĩa vụ nào
đối với Nga. Họ chẳng vội viện trợ khẩn
cấp cho nền kinh tế Nga đang xuống
dốc không phanh. Phương Tây, nhất là
Hoa Kỳ, thấy không cần thiết phải thừa
nhận những lợi ích đặc biệt của Nga, tỏ
ra không hài lòng với khuynh hướng liên
kết ở khu vực Liên Xô cũ (tổ chức SNG),
ngại rằng điều này có thể đưa đến sự tái
thiết lập “đế chế” Nga trong không gian
hậu Xô-viết.
Do thái độ của phương Tây và do sự
chống đối của nhiều lực lượng chính trị ở
trong nước, trước hết là Đảng Cộng sản
Nga (KPRF), chính sách đối ngoại “quá
thiên về phương Tây” bị phá sản. Tổng
thống B. Yeltsin buộc phải cách chức A.
Kozưrev và bổ nhiệm nhà hoạt động xã
hội, nhà khoa học nổi tiếng về quan hệ
quốc tế, chuyên gia về Trung Đông E.
Primakov làm Bộ trưởng Ngoại giao Nga
(từ 1/1/1996). E. Primakov đã tiến hành
CLĐN mới có tên là chính sách “Cân
bằng Đông - Tây”, vừa vẫn coi trọng
106
VẤN ĐỀ QUỐC TẾ
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 06/2019
quan hệ với các nước phương Tây, vừa
đồng thời tăng cường quan hệ nhiều mặt
với các nước phương Đông (Châu Á).
Hai là, Nga tái thiết lập và đẩy mạnh
quan hệ với các nước bạn bè, đồng
minh cũ
Sau khi “vỡ mộng” về sự viện trợ ồ
ạt của phương Tây, Nga nhận thấy các
nước bạn bè, đồng minh cũ, trong đó có
Việt Nam, tuy tiềm năng có hạn, nhưng
lại là những đối tác đáng tin cậy, không
thể thay thế, có thể mang lại nhiều lợi ích
cả về chính trị lẫn kinh tế. Tuy nhiên, tính
chất quan hệ của Nga với các nước này
đã được thay đổi: chẳng hạn, về chính
trị, yếu tố quan hệ hữu nghị truyền thống
đóng vai trò chủ đạo thay cho yếu tố hệ tư
tưởng làm thống soái trước kia; về kinh
tế, xác lập nguyên tắc hai bên cùng có lợi,
chứ không phải “xin-cho” như dưới thời
Xô-viết,...
Ba là, phục vụ kinh tế trở thành
một trong những nhiệm vụ trọng tâm
của chiến lược đối ngoại của LB Nga
Lãnh đạo Nga ngày càng thấy rõ
tầm quan trọng của yếu tố kinh tế trong
đời sống chính trị - xã hội của đất nước.
Nếu kinh tế khó khăn, thì tình hình chính
trị - xã hội cũng bất ổn, và an ninh của
đất nước cũng sẽ bị đe dọa. Cuộc khủng
hoảng tài chính - tiền tệ năm 1998 ở Nga
là một ví dụ điển hình. Do đó, ngoại giao
Nga phải phục vụ phát triển kinh tế, góp
phần đưa nước Nga nhanh chóng hội
nhập quốc tế. Nga đã trở thành thành viên
APEC vào tháng 11/2000 và có tiếng nói
quan trọng ở nhiều diễn đàn quốc tế khác,
nhất là ở LHQ.
Bốn là, tham gia đấu tranh chống
chủ nghĩa khủng bố là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của chiến lược đối ngoại của Nga.
Ngay từ đầu những năm 2000, Nga
đã chuyển mạnh CLĐN từ chỗ quan hệ có
phần căng thẳng với Mỹ và phương Tây
trên nhiều vấn đề quan trọng, như giải trừ
vũ khí hạt nhân, mở rộng NATO sang phía
Đông, “vi phạm nhân quyền” (theo cách
nói của phương Tây) ở Chechnya, v.v. sang
đồng tình và ủng hộ ở mức tương đối cao
và kịp thời trong chiến dịch chống khủng
bố do Mỹ phát động. Việc Nga dành cho
không quân Mỹ sử dụng không phận của
Nga, chia sẻ tin tức tình báo, không phản
đối việc một số nước cộng hòa thuộc Liên
Xô cũ ở Trung Á dành cho Mỹ sử dụng
một số căn cứ không quân để mở chiến
dịch chống Bin Laden và lực lượng AL
Quaeda ở Afganistan,... là chưa từng có
trong lịch sử quan hệ Nga - Mỹ. Điều
này phản ánh ý nghĩa của mối quan hệ
Nga - Mỹ, một hướng ưu tiên chiến lược
hàng đầu trong CSĐN của Nga. Nó còn
cho thấy mục tiêu của cuộc chiến chống
khủng bố ở Afganistan phù hợp với lợi
ích an ninh quốc gia của Nga. Tuy nhiên,
sự đáp lại của Mỹ và phương Tây rất hạn
chế, chưa như Nga mong muốn.
Mặt khác, tuy Nga và Mỹ tuyên bố
cùng chống chủ nghĩa khủng bố “Nhà
nước Hồi giáo tự xưng” IS ở Syria, Irac,
nhưng cách tiếp cận vấn đề lại rất khác
nhau. Mỹ muốn lật đổ chính quyền Asad,
cho đó là chính quyền độc tài, còn Nga lại
ủng hộ, xem Tổng thống Asad là đại diện
chính quyền hợp pháp ở Syria và cùng
phối hợp để tiêu diệt IS. Cách tiếp cận
của Nga đã giành được thắng lợi ở Syria,
khẳng định vị trí và ảnh hưởng của Nga ở
Trung Đông và trên thế giới.
Tình hình quan hệ Nga - Mỹ, Nga -
phương Tây đặc biệt đã nhanh chóng xấu
đi sau khi Nga sáp nhập Cr]m (3/2014).
Mỹ và phương Tây đã áp đặt nhiều biện
pháp trừng phạt về kinh tế và cô lập về
chính trị, gây sức ép với Nga.
107
VẤN ĐỀ QUỐC TẾ
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 06/2019
Năm là, tính chất thực dụng xuyên
suốt chiến lược đối ngoại của LB Nga
hơn một thập kỷ qua ngày càng biểu
hiện rõ rệt hơn trong thời gian gần đây
Từ khi cuộc chiến chống khủng bố ở
Afganistan và chống IS ở Syria kết thúc,
Nga đã có những điều chỉnh trong CLĐN
một cách linh hoạt, vừa thể hiện bản chất
của một nước lớn ngang tầm với Mỹ trên
các vấn đề quốc tế quan trọng, vừa không
gây phương hại tới mục tiêu chiến lược
của Nga là tranh thủ Mỹ. Trong quan hệ
với NATO, một mặt, Nga duy trì đối thoại,
sẵn sàng tham gia hợp tác trong Hội đồng
Nga - NATO theo công thức 20, song vẫn
khẳng định không gia nhập NATO để
tránh bị “lép vế” trong bối cảnh Mỹ vẫn
đang đóng vai trò “chủ đạo” trong tổ chức
này. Nga tỏ ra lo ngại việc Mỹ duy trì sự
có mặt về quân sự tại các nước Trung Á
và đặc biệt mở rộng tại khu vực ngoại
Kapkaz. Nhưng để xoa dịu dư luận Nga và
không làm căng thẳng thêm quan hệ Nga
- Mỹ, Tổng thống Putin đã tuyên bố rằng
việc có mặt về quân sự của Mỹ ở Grudia
“không đe dọa lợi ích an ninh của Nga”.
Thái độ đối với những mâu thuẫn
trong quan hệ Mỹ - Irắc, Mỹ - Bắc Triều
Tiên cho thấy tính chất thực dụng trong
CSĐN của Nga: một mặt, Nga không
đứng hẳn về phía các nước bạn của mình
chống lại Mỹ (vì làm như thế, cũng không
thể ngăn được hành động quân sự có thể
có của Mỹ, như đã từng diễn ra với Nam
Tư); mặt khác, cũng không đứng về phía
Mỹ chống lại các nước bạn của mình, vì sẽ
tổn hại trực tiếp đến lợi ích của Nga trong
quan hệ với các nước bạn (Gorbachov đã
từng ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến chống
Irắc lần thứ nhất).
Chiến lược cân bằng Đông - Tây của
Nga ngày càng được khẳng định rõ nét hơn
sau khi Tổng thống V. Putin lên nắm quyền
vào đầu năm 2000. Đặc biệt từ giữa thập kỷ
thứ hai của thế kỷ XXI, LB Nga nhận thức
việc triển khai mạnh mẽ chiến lược hướng
Đông (CLHĐ) không những chỉ là cần
thiết, mà còn mang tính cấp bách, vì Mỹ
và Tây Âu ra sức trừng phạt Nga về kinh tế
và cô lập Nga về chính trị. Nga buộc phải
“xoay trục” nhanh hơn sang châu Á, trong
đó có sự ưu tiên quan hệ với Trung Quốc,
Ấn Độ, Việt Nam và các nước ASEAN,
đồng thời nhằm thúc đẩy phát triển kinh
tế vùng Viễn Đông, cũng như duy trì ảnh
hưởng của Nga ở khu vực CA-TBD.
2. Việt Nam trong chiến lược ngoại
giao hướng Đông của Nga
Việt Nam chiếm một vị trí quan trọng
trong chính sách đối ngoại của Nga nói
chung và trong CLHĐ của Nga nói riêng.
Khi còn Liên Xô, mức độ phối hợp hành
động trên trường quốc tế giữa Việt Nam
và Liên Xô là rất cao. Hai nước ủng hộ
lẫn nhau hầu như tuyệt đối trong các vấn
đề quốc tế lớn. Sau khi Liên Xô tan rã,
chế độ chính trị - xã hội ở Nga thay đổi,
Đảng Công sản Nga mất vị trí cầm quyền,
thì cơ sở quan hệ Việt - Nga không còn là
hệ tư tưởng, mà là tình hữu nghị truyền
thống, sự tin cậy và các lợi ích song trùng
trong nhiều vấn đề quốc tế. Trong một số
vấn đề “nhạy cảm” chỉ liên quan đến lợi
ích riêng của từng nước, như vấn đề Biển
Đông, vấn đề Crưm, thì hai nước giữ lập
trường trung lập, không thể ủng hộ nhau
vô điều kiện như xưa. Đây chính là sự
khác biệt trong quan hệ Việt - Nga hiện
nay so với quan hệ Việt - Xô trước kia.
Sau khi Nga điều chỉnh sang CSĐN
cân bằng Đông - Tây, Việt Nam được
coi là nước đối tác chiến lược của LB
Nga. Trong chuyến thăm Nga vào tháng
8/1998 của Chủ tịch nước Trần Đức
Lương, Tổng thống B. Yeltsin đã tuyên
bố Việt Nam là “đối tác chiến lược” của
108
VẤN ĐỀ QUỐC TẾ
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 06/2019
Nga ở Đông Nam Á. Sự kiện mang tính
bước ngoặt trong CSĐN của Nga đối
với Việt Nam là chuyến thăm chính thức
Việt Nam của Tổng thống Nga V. Putin
(28/2 - 2/3/2001). Trong lịch sử quan hệ
Liên Xô/Nga - Việt Nam, đây là lần đầu
tiên một nhà lãnh đạo cao nhất nước Nga
tới Việt Nam. Tổng thống Putin khẳng
định: “Phát triển quan hệ nhiều mặt với
Việt Nam là một trong những hướng ưu
tiên trong CSĐN của Nga ở Châu Á”
[5]. Tính đến nay, Tổng thống Putin đã
thăm chính thức Việt Nam ba lần (2001,
2006 và 2013), còn Tổng thống và Thủ
tướng D. Mevedev cũng đã thăm chính
thức Việt Nam hai lần. Chỉ riêng những
sự kiện này cũng đã cho thấy LB Nga coi
trọng vị trí của Việt Nam như thế nào.
Tuy nhiên, một bộ phận dư luận xã hội
Việt Nam đôi khi cho rằng thực tế không
như lãnh đạo hai bên từng tuyên bố. Bằng
chứng là thái độ “hững hờ”, không nhiệt
tình ủng hộ Việt Nam của Nga trong vấn
đề Biển Đông,
Ở đây cần làm rõ một điều. Vào đầu
những năm 60 - giữa những năm 80 của
thế kỷ XX, Liên Xô và Trung Quốc có
nhiều bất đồng nghiêm trọng, thậm chí
năm 1968 đã xẩy ra xung đột vũ trang tại
đảo Damanski trên sông Amur thuộc vùng
biên giới hai nước. Thời kỳ này, quan hệ
Việt - Trung cũng rất căng thẳng (vụ “nạn
kiều” năm 1978, chiến tranh biên giới Việt
- Trung năm 1979-1989). Như vậy, Trung
Quốc lúc đó là đối thủ chung của cả Liên
Xô và Việt Nam. Khi Trung Quốc tấn
công biên giới Việt Nam (2/1979), Chính
phủ Liên Xô đã ra Tuyên bố đanh thép ủng
hộ Việt Nam và cảnh báo Trung Quốc:
“Không được đụng đến Việt Nam!” [6].
Liên Xô đã tập trung một lực lượng quân
đội lớn ở biên giới Nga - Trung để sẵn sàng
“chia lửa” với Việt Nam.
Tuy nhiên, ở các giai đoạn sau, quan
hệ Xô -Trung đã có những chuyển biến:
Nga muốn thấy Trung Quốc là một đồng
minh, hay chí ít là một nước Trung Hoa
hữu nghị, trong cuộc cạnh tranh toàn cầu
với Mỹ. Việt Nam đã không còn là sự quan
tâm lớn của Nga, nên Nga đã không ủng
hộ Việt Nam như Việt Nam mong muốn.
Khi sự hiện diện ngày càng rõ nét về quân
sự của Mỹ ở Thái Bình Dương, trong đó
có Biển Đông, Nga đã chọn Trung Quốc
là bạn đồng hành. Ngoài ra, trao đổi hàng
hóa Nga - Trung lên tới 80 tỷ USD/năm
so với Nga - Việt 4-5 tỷ USD/năm, thì
khách quan mà nói, rõ ràng Trung Quốc
là đối tác kinh tế hàng đầu của Nga. Do
vậy, khi xung đột biển đảo Trung - Việt
diễn ra, Nga tỏ thái độ trung lập, cũng là
điều có thể hiểu được.
Nhưng nếu chỉ dựa vào những sự
kiện này mà kết luận rằng Nga coi vị trí
của Trung Quốc hơn hẳn Việt Nam là
chưa hoàn toàn chính xác. Trong quan hệ
Việt - Nga có sự tin cậy lớn được đảm bảo
bởi mối quan hệ hữu nghị truyền thống
lâu đời. Liên Xô và Nga đã giúp đỡ Việt
Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập
dân tộc trước đây, cũng như trong công
cuộc xây dựng hòa bình ở Việt Nam hiện
nay. Việt Nam cũng là nước ngoài duy
nhất được Nga cho phép tham gia khai
thác các mỏ dầu trên lãnh thổ của Nga
ở Khu tự trị Nhenesk và tỉnh Orenburg.
Việt Nam cũng đã và đang dành cho Nga
quyền ưu tiên khai thác dầu khí ở Biển
Đông và Nga đánh giá Công ty liên
doanh Vietsovpetro là một trong những
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả nhất của
Nga ở nước ngoài. Trong lĩnh vực hợp tác
quân sự, Nga cũng đáp ứng hầu hết các
yêu cầu của Việt Nam đủ bảo đảm vững
chắc nền an ninh của Việt Nam. Rõ ràng,
vị trí của Việt Nam trong chính sách của
109
VẤN ĐỀ QUỐC TẾ
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 06/2019
Nga là quan trọng với đặc thù riêng, chứ
không phải hoàn toàn đứng sau quan hệ
Nga - Trung.
Chủ trương của lãnh đạo Việt Nam
trong quan hệ với LB Nga luôn rất rõ ràng.
Ngay sau khi Liên Xô tan rã, Chủ tịch
HĐBT Võ Văn Kiệt đã chỉ thị cho các bộ,
ngành và địa phương thiết lập quan hệ đầy
đủ với các nước cộng hòa thuộc Liên Xô
cũ, đặc biệt là với LB Nga, coi việc duy
trì và phát triển thị trường xuất nhập khẩu,
cũng như tiến hành các biện pháp giữ thị
trường ở các nước thuộc Liên Xô cũ và
Đông Âu có ý nghĩa chiến lược đối với
nước ta. Trong những năm vừa qua, hầu
như tất cả các nhà lãnh đạo cấp cao nhất
của Việt Nam đã thăm LB Nga và không
phải chỉ một lần. Trong chuyến thăm Nga
của Thủ tướng Võ Văn Kiệt (6/1994), hai
bên đã ký Hiệp ước về những nguyên tắc
cơ bản của quan hệ giữa Việt Nam và LB
Nga thay cho Hiệp ước hữu nghị và hợp
tác giữa Việt Nam và Liên Xô ký năm
1978. Trong chuyến thăm chính thức LB
Nga của Thủ tướng Phan Văn Khải (tháng
9/2000), hai bên đã đạt được thỏa thuận về
giải quyết vấn đề nợ của Việt Nam đối với
LB Nga (Nga đã xóa hơn 85% số nợ của
Việt Nam. Số còn lại khoảng 1,5 tỷ USD
sẽ được trả dần trong 23 năm với lãi suất
5%/năm, trong đó Nga trích ra 0,25% để
giúp Việt Nam đào tạo cán bộ khoa học tại
các trường đại học của Nga). Các chuyến
thăm và gặp gỡ tiếp theo của lãnh đạo hai
nước, cũng như các tuyên bố về việc thiết
lập quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt
Nam và LB Nga (2001), nâng quan hệ này
lên thành quan hệ đối tác chiến lược toàn
diện (2013) đã khẳng định rõ vị trí quan
trọng của hai nước trong CSĐN của nhau.
Quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai
nước thời gian qua đã tiến triển từ khoảng
200-250 triệu USD đầu những năm 90 lên
khoảng 5 tỷ USD hiện nay và dự kiến lên
10 tỷ vào năm 2020, cho dù điều này vẫn
chưa tương xứng với mức độ phát triển về
chính trị và tiềm năng của hai nước. Trong
chuyến thăm chính thức LB Nga năm
2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã
dự lễ khởi công xây dựng tổ hợp chăn nuôi
bò sữa tại ngoại ô Maxkva do Công ty “TH
true milk” của Việt Nam đầu tư với tổng
số vốn 2,7 tỷ USD. Cùng với những dự án
sản xuất mỳ ăn liền của tư nhân người Việt
(Ronton), khai thác dầu khí trên lãnh thổ
LB Nga của nhà nước Việt Nam trước đó,
dự án tổ hợp chăn nuôi bò sữa có ý nghĩa
quan trọng, mở ra một giai đoạn mới,
phương thức hợp tác kinh tế mới về chất,
không chỉ đầu tư một chiều của Liên Xô/
Nga vào Việt Nam như trước kia.
Cần lưu ý tới một trong những đặc
điểm của hợp tác kinh tế giữa hai nước
hiện nay là tính hiệu quả. Hai bên đều
nhất trí sẽ tiếp tục hợp tác trong các lĩnh
vực hai bên có thế mạnh, như khai thác
dầu khí, xây dựng các nhà máy thủy điện,
khai khoáng, v.v. Đối với những công
trình hợp tác không hiệu quả, hoặc có thể
gây hậu quả xấu, thì kiên quyết chấm dứt
(như nhà máy lọc dầu Dung Quất, dự án
điện nguyên tử tại Ninh Thuận,...).
Trên cơ sở của mối quan hệ truyền
thống, chính trị tốt đẹp, sự hợp tác trong
các lĩnh vực khác, như văn hóa, giáo
dục, khoa học - kỹ thuật, du lịch,... giữa
hai nước cũng đã và đang phát triển lên
tầm cao mới. Việc tổ chức những Ngày
văn hóa Việt Nam tại LB Nga và những
Ngày văn hóa LB Nga tại Việt Nam trong
năm 2019 nhân những ngày lễ lớn của
hai nước, như 25 năm ký Hiệp định về
những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ
Việt Nam - LB Nga (1994-2019), 70 năm
thiết lập quan hệ ngoại giao Liên Xô/
Nga - Việt Nam (1950-2020), đã làm cho
110
VẤN ĐỀ QUỐC TẾ
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 06/2019
nhân dân hai nước hiểu biết lẫn nhau tốt
hơn, tình hữu nghị truyền thống và đối tác
chiến lược toàn diện giữa hai nước được
củng cố và phát triển tốt đẹp hơn. Trong
lĩnh vực giáo dục - đào tạo, số lượng sinh
viên, nghiên cứu sinh Việt Nam và đặc
biệt là số người sinh sống, làm ăn tự do
tại LB Nga đã, đang và có xu hướng ngày
một đông hơn.
Trước thực trạng quan hệ Việt - Nga
có nhiều điều kiện thuận lợi đan xen với
những khó khăn, hai nước đang cùng nhau
suy nghĩ về các biện pháp nhằm đẩy mạnh
và mở rộng hơn nữa sự hợp tác giữa các
ngành, các cấp của Việt Nam và LB Nga.
Chỉ có như vaajy mới phát huy được hiệu
quả hợp tác Việt - Nga, đáp ứng lợi ích
dân tộc lâu dài của nhân dân hai nước./.
Tài liệu tham khảo
1. BCH TƯ Đảng Cộng sản Việt Nam (2012). Văn kiện Đại hội lần thứ XII: Báo
cáo chính trị. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Chiến lược đối ngoại của LB Nga . Tổng thống V. Putin thông qua ngày
30/11/2016. M.
3. Nguyễn Nhâm. (2016). Nga điều chỉnh chiến lược: Đẩy mạnh hướng Đông.
Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 7/7/2016.
4. Hội nghị khoa học thực tiễn do Bộ Ngoại giao LB Nga tổ chức (26- 27/2/1992).
Tạp chí “Sinh hoạt quốc tế” số 3-4/1992.
5. Phát biểu của Tổng thống V. Putin. Báo Nhân dân ngày 28/2/2001.
6. Lokshin G. M. Quan hệ Nga - Việt: nhân tố hòa bình và ổn định ở Đông Nam Á.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- viet_nam_trong_chien_luoc_doi_ngoai_huong_dong_cua_lien_bang.pdf