Thứ hai, bổ sung các quy định về hợp
tác
Về cơ bản, các nội dung về hợp tác đã
được Chi-lê nêu rất cụ thể trong Bản đề xuất
của mình. Do đó, nội dung này cần phải
được bổ sung vào trong bản tổng hợp các đề
xuất. New Zealand cũng có đề xuất về hợp
tác khi hoạch định các cơ chế hợp tác.
Thứ ba, bổ sung các quy định về tri thức
truyền thống và biểu diễn văn hóa truyền
thống
Việt Nam là một quốc gia giàu truyền
thống văn hóa, với nhiều di sản văn hóa vật
thể và phi vật thể đã được UNESCO công
nhận. Do đó, việc bổ sung các quy định về
tri thức truyền thống và biểu diễn văn hóa
truyền thống sẽ là yếu tố quan trọng giúp
Việt Nam có thể bảo vệ được chúng trước
làn sóng thương mại hóa làm ảnh hưởng đến
những giá trị cốt lõi mà tri thức truyền thống
và biểu diễn văn hóa truyền thống mang lại.
Việt Nam có thể kết hợp với New Zealand
bàn thảo và cụ thể hóa hơn nữa đề xuất của
New Zealand về vấn đề này.
Các đề xuất được đưa ra nói trên dựa
trên cơ sở nghiên cứu các đề xuất của Hoa
Kỳ, so sánh với TRIPs, với hệ thống pháp
luật trong nước của Việt Nam. Do đó, có thể
khẳng định nó sẽ góp phần tích cực trong
việc bảo vệ lợi ích của Việt Nam nói chung,
của các doanh nghiệp và cộng đồng nói
riêng. Đồng thời, nhờ đó, việc thực thi các
quy định của chương này tại Việt Nam cũng
sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn trong tương lai
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 184 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Việt Nam với việc đàm phán về quyền sở hữu trí tuệ trong khuôn khổ hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
38 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01(233) T1/2013
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
1. Quyền sở hữu trí tuệ trong Hiệp định đối
tác xuyên Thái Bình Dương
Là một nội dung quan trọng trong Hiệp định
ban đầu được ký kết giữa bốn quốc gia, bao gồm
Brunei, Chile, New Zealand và Singapore (sau
đây gọi tắt là Hiệp định P4), ngoài một số quy
định nằm rải rác ở phần đầu, các quy định về
quyền SHTT được đưa vào trong Chương 101
với cấu trúc tương đối đơn giản2, chỉ có 7 điều
khoản bao gồm các nguyên tắc về SHTT, các quy
định chung, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên quốc
gia và về hợp tác.
Về các nguyên tắc, Hiệp định P4 đưa ra ba
nguyên tắc: nguyên tắc về thúc đẩy sự phát triển
kinh tế, xã hội; nguyên tắc về đạt được sự cân
bằng về quyền và nghĩa vụ của người chủ sở hữu
quyền với lợi ích hợp pháp của người sử dụng và
cộng đồng đối với các tài sản trí tuệ được bảo hộ;
nguyên tắc về tăng cường các quyền SHTT bằng
việc loại bỏ các hoạt động thương mại đối với
hàng hóa xâm phạm quyền SHTT.
LÊ THỊ THU HÀ *
VIỆT NAM VỚI VIỆC ĐÀM PHÁN VỀ
QUYÏÌN SÚÃ HÛÄU TRÑ TUÏÅ
TRONG KHUÖN KHÖÍ HIÏÅP ÀÕNH
ÀÖËI TAÁC XUYÏN THAÁI BÒNH DÛÚNG
VIỆT NAM ĐANG TÍCH CỰC THAM
GIA ĐÀM PHÁN HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC
XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP).
MỘT TRONG NHỮNG VẤN ĐỀ VIỆT
NAM SẼ CÒN GẶP NHIỀU KHÓ
KHĂN TRONG ĐÀM PHÁN CHÍNH
LÀ VẤN ĐỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ (SHTT).
CÁC NỘI DUNG LIÊN QUAN ĐẾN
SHTT MÀ CÁC QUỐC GIA ĐÀM
PHÁN ĐƯA RA TRONG TPP ĐÃ
VƯỢT XA CÁC QUY ĐỊNH BAN ĐẦU
CỦA TPP VÀ CÁC CHUẨN MỰC
QUỐC TẾ HIỆN NAY (HIỆP ĐỊNH
TRIPS). BÀI VIẾT PHÂN TÍCH ĐỀ
XUẤT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐÀM
PHÁN, ĐẶC BIỆT LÀ BẢN ĐỀ XUẤT
CỦA HOA KỲ TRONG MỐI TƯƠNG
QUAN VỚI CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG
MẠI TỰ DO SONG PHƯƠNG VÀ VỚI
HỆ THỐNG PHÁP LUẬT CỦA MỘT
SỐ NƯỚC, ĐƯA RA MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ CHO VIỆT NAM KHI THAM GIA
ĐÀM PHÁN TPP VỀ CÁC VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN SHTT.
* Giảng viên Trường Đại học Ngoại thương
1 Xem Chapter 10, Trans-Paficic Strategic Economic Partnership Agreement, tại:
agreement/transpacific/main-agreement.pdf (truy cập 28/02/2012).
2 Chương 10 gồm 7 điều: Các định nghĩa (10.1), Các nguyên tắc về SHTT (10.2), Các quy định chung (10.3), Nhãn hiệu
(10.4), Chỉ dẫn địa lý (10.5), Tên quốc gia (10.6) và Hợp tác (10.7)
39NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01(233) T1/2013
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
Về đối tượng của quyền SHTT, Hiệp
định P4 đưa ra quy định cụ thể điều chỉnh về
nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và tên gọi quốc gia.
Đối với nhãn hiệu, quy định của Điều
10.4 chỉ bổ sung thêm hai nghĩa vụ đối với
các bên là mỗi quốc gia phải tạo cơ hội cho
các bên có liên quan để phản đối một đơn
đăng ký nhãn hiệu và yêu cầu hủy một nhãn
hiệu đã được đăng ký. Ngoài nghĩa vụ mang
tính chất nội dung này, Điều 10.4 cũng
khuyến khích các bên sử dụng Thỏa ước
Nice về phân loại quốc tế hàng hóa và dịch
vụ cho mục đích đăng ký nhãn hiệu năm
1979.
Đối với chỉ dẫn địa lý, Điều 10.5 dẫn
chiếu đến phụ lục 10.A về các chỉ dẫn địa lý
cho rượu và đồ uống của mỗi quốc gia được
thừa nhận chung và danh mục này có thể
được bổ sung trên cơ sở yêu cầu của mỗi
bên.
Đối với tên quốc gia, Điều 10.6 quy định
các bên phải có nghĩa vụ cung cấp các công
cụ pháp lý cho các bên có liên quan để ngăn
cản việc sử dụng thương mại tên quốc gia
đối với hàng hóa nhằm đảm bảo không gây
nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc
xuất xứ của hàng hóa đó.
Chính vì các quy định rất đơn giản trong
Hiệp định P4 mà các bên tham gia đàm phán
TPP đã quyết định cần phải đàm phán để tạo
nên một khung pháp lý với nhiều quy định
có thể vượt ra khỏi khuôn khổ đang được
điều chỉnh bởi TRIPs và các điều ước quốc
tế khác có liên quan đến quyền SHTT.
Tính đến tháng 03/2012, 11 vòng đàm
phán TPP đã diễn ra. Mỗi vòng đàm phán,
nhiều vấn đề, trong đó có SHTT, được mang
ra trao đổi, đàm phán. Vòng đàm phán thứ
12 của TPP diễn ra tại Dallas, Texas Hoa Kỳ
từ ngày 8-18/5/2012. Ở vòng đàm phán này,
các quốc gia đàm phán tiếp tục những vấn
đề còn tranh cãi ở vòng đàm phán trước và
chú trọng nhiều đến vấn đề thực thi quyền
SHTT và bằng sáng chế.
Sau chín vòng đàm phán, ngày
12/11/2011, các nhà lãnh đạo của chín quốc
gia tham gia đàm phán TPP, trong khuôn khổ
của Hội nghị Thượng đỉnh APEC tại Hon-
olulu đã ký kết Bản mô tả các lĩnh vực đàm
phán chính của Hiệp định TTP3.
Về cơ sở đàm phán, các thành viên TPP
đã đàm phán nội dung của TPP dựa trên quy
định của TRIPs cũng như dựa trên Tuyên bố
Doha liên quan đến TRIPs và Y tế công
cộng4 vào lời văn của chương này. Điều này
đồng nghĩa với việc những linh hoạt được
đưa ra trong Tuyên bố này liên quan đến việc
cấp bằng sáng chế đối với dược phẩm5 cũng
sẽ được xem xét và đưa vào trong nội dung
của TPP. Về nguyên tắc, có thể thấy được hai
nguyên tắc quan trọng nhất được nhắc đến
trong Bản mô tả, đó là nguyên tắc hiệu quả
và nguyên tắc cân bằng, nghĩa là hướng đến
việc thực thi có hiệu quả các quy định về
quyền SHTT nhưng vẫn phải đạt được sự
cân bằng giữa quyền lợi của người sở hữu
quyền và người tiêu dùng, cộng đồng; giữa
các thành viên của TPP. Về nội dung, các
tiếp cận của các thành viên TPP khá đầy đủ,
khi đề cập đến tất cả các đối tượng của
quyền SHTT như nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý,
quyền tác giả và các quyền có liên quan,
bằng sáng chế, bí mật kinh doanh và các dữ
3 Bộ Công thương, Bản mô tả các lĩnh vực đàm phán chính của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, tại:
tamwto.vn/tpp/ket-qua-dat-duoc-ve-hiep-dinh-doi-tac-xuyen-thai-binh-duong-tpp-tai-hoi-nghi-cap-cao-apec-19 (truy cập
ngày 01/03/2012); Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) - Báo cáo của các Bộ trưởng Thương mại trình các
Nhà Lãnh đạo, 12/11/2011, tại:
tpp-tai-hoi-nghi-cap-cao-apec-19 (truy cập ngày 01/03/2012)
4 WTO, Declaration on the TRIPs Agreement and Public Health, WT/MIN(01)/DEC/2, 20/11/2001, tại:
(truy cập ngày 01/03/2012).
5 Xem đoạn 5(a),(b),(c) của Tuyên bố này.
40 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01(233) T1/2013
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
liệu cần thiết để xin phê duyệt đối với một
số sản phẩm thuộc diện quản lý; đề cập đến
việc thực thi quyền SHTT, đến nguồn gien
và tri thức truyền thống. Với trình tự nội
dung được thể hiện ở đây, có thể thấy, cách
tiếp cận của Hoa Kỳ về quyền SHTT được
nêu trong Bản đề xuất của quốc gia này đã
được các quốc gia khác chấp nhận. Tuy
nhiên, những nội dung được tiết lộ ra bên
ngoài đã gây nên những phản ứng mạnh mẽ
từ cộng đồng, khi cho rằng nó sẽ ảnh hưởng
lớn đến lợi ích của người tiêu dùng, trong đó
có người bệnh.
2. Đề xuất của một số quốc gia
Trong các vòng đàm phán của TPP, đã có
một số quốc gia (Hoa Kỳ, New Zealand, Chi-
lê, Peru) đưa ra những đề xuất đối với
Chương về SHTT. Vì nội dung của các vòng
đàm phán được giữ bí mật, nên chỉ một số ít
các đề xuất đã được tiết lộ, trong đó có Bản
đề xuất của Hoa Kỳ, New Zealand và Chi-lê.
Đề xuất của Hoa Kỳ
Bản đề xuất đầu tiên của Hoa Kỳ được
đưa ra tháng 02/2011 và sau đó được sửa đổi
lần thứ nhất vào tháng 09/20116. Đây được
coi là một bản đề xuất chi tiết nhất để các
bên bàn luận trong tại các vòng đàm phán.
Nó cũng là một bản đề xuất chứa đựng nhiều
bước tiến so với khung pháp luật quốc tế
hiện tại về quyền SHTT. Một cách vắn tắt,
đề xuất của Hoa Kỳ đã:
- Mở rộng phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu
cho cả âm thanh, mùi thơm và nhãn hiệu
“nổi tiếng” mà nó không “nổi tiếng” ở nội
địa7, trong khi lại làm giảm sự bảo hộ đối với
chỉ dẫn địa lý8, được coi là trái ngược với
tính linh hoạt về lựa chọn chính sách trong
lĩnh vực này mà TRIPs cho phép.
- Mở rộng các nghĩa vụ quốc tế về nội
dung và thời gian bảo hộ quyền tác giả, bao
gồm việc mở rộng bảo hộ đối với những lưu
trữ “tạm thời” trên Internet9 và tăng gấp đôi
thời gian bảo hộ tối thiểu bắt buộc đối với
nhiều đối tượng thuộc quyền tác giả10.
- Yêu cầu chấp nhận hình thức gây tranh
cãi cao về trách nhiệm chống lừa đảo, theo
6 Xem: Trans-Pacific Partnership, Intellectual Property Rights Chapter February Draft, tại:
default/files/ tpp-10feb2011- us-text-ipr-chapter.pdf (truy cập ngày 20/02/2012); Trans-Pacific Partnership, Intellectual
Property Rights Chapter September 2011 Draft (Selected Provisions), xem tại:
tent/uploads/2011/10/TransPacificIP1.pdf (truy cập ngày 20/02/2012).
7 Điều 2 của Bản đề xuất: “Không một Bên nào có thể yêu cầu, như là một điều kiện để đăng ký, rằng một dấu hiệu phải
nhìn thấy được, không một Bên nào có thể từ chối đăng ký nhãn hiệu chỉ vì dấu hiệu tạo nên nhãn hiệu là âm thanh hoặc
mùi vị”. Quy định này mở rộng các dấu hiệu có thể được bảo hộ là nhãn hiệu từ những dấu hiệu nhìn thấy được sang cả
các dấu hiệu không nhìn thấy được. So với TRIPs, điều 2.1 nêu trên đã hoàn toàn loại bỏ tính linh hoạt được tạo ra bởi
điều 15.1 của TRIPs khi cho phép các Thành viên WTO có thể quy định trong hệ thống pháp luật quốc gia của mình rằng
“điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được”. Việt Nam cũng chỉ chấp nhận những dấu
hiệu nhìn thấy được để đăng ký làm nhãn hiệu (Điều 72, Luật SHTT 2005)
8 Điều 2.2 của Bản đề xuất yêu cầu các Bên tham gia TPP phải quy định là các chỉ dẫn địa lý sẽ được bảo hộ dưới dạng
nhãn hiệu. Đồng thời, ghi chú số 4 đi kèm điều khoản này đưa ra khái niệm về chỉ dẫn địa lý, theo đó, “Chỉ dẫn địa lý
được hiểu là các chỉ dẫn xác định hàng hóa có nguồn gốc từ lãnh thổ của một Bên, hoặc một khu vực, một vùng trên lãnh
thổ đó, mà chất lượng, danh tiếng hoặc một đặc tính khác của hàng hóa được coi là có được từ nguồn gốc địa lý của hàng
hóa đó. Bất kỳ dấu hiệu hoặc nhóm dấu hiệu nào (như chữ, bao gồm tên người và tên địa lý, cũng như các chữ cái, chữ
số, các yếu tố tượng hình và màu sắc, bao gồm cả màu đơn), ở bất kỳ hình thức nào, đều có thể được coi là chỉ dẫn địa
lý”. Khái niệm này rộng hơn định nghĩa về chỉ dẫn địa lý được nêu tại điều 22.1 của TRIPs cũng như tại Điều 79 của Luật
SHTT Việt Nam năm 2005, sửa đổi năm 2009
9 Điều 4.1 quy định: “Mỗi bên phải quy định rằng các tác giả, người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi có quyền cho phép
hoặc cấm mọi sự sao chép tác phẩm, biểu diễn hoặc bản ghi của mình dưới bất kỳ cách thức và hình thức nào, thường
xuyên hay tạm thời (bao gồm cả việc tạm thời lưu trữ dưới hình thức điện tử”. Theo các ghi chú đi kèm, “tác giả, người
biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi” được hiểu là bao gồm cả những người thừa kế của những người này; “quyền cho phép
hay cấm”, “quyền cho phép” được hiểu là quyền độc quyền; và “biểu diễn” được hiểu là việc biểu diễn gắn với một bản
ghi, trừ trường hợp có quy định đặc biệt khác.
10 Điều 4.5 của đề xuất đưa ra quy định về thời hạn bảo hộ đối với quyền tác giả và các quyền có liên quan. Trên cơ sở tuổi
thọ của thể nhân, Hoa Kỳ đề xuất thời hạn bảo hộ này không ít hơn so với tuổi thọ của tác giả và 70 năm sau khi tác giả
chết.
41NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01(233) T1/2013
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
đó, sẽ trừng phạt những hành vi lừa đảo bằng
khóa điện tử với bất kỳ mục đích nào11.
- Gia tăng nội dung bảo hộ quốc tế bắt
buộc đối với bằng sáng chế, bao gồm cả việc
bảo hộ độc quyền cho các dạng và cách thức
sử dụng mới đối với sản phẩm đã được biết
đến12, đối với cây trồng, vật nuôi và quy
trình chế tạo dược phẩm13. Nhóm các tiêu
chuẩn này không tương thích với tính linh
hoạt được quy định tại Điều 27.3 của
TRIPs14 cũng như quy định hiện hành của
một số quốc gia tham gia đàm phán TPP
(như Việt Nam15, Australia16, Malaysia17).
Tuy nhiên, theo các tác giả Sean Flynn, Mar-
got Kaminski, Brook Baker and Jimmy Koo,
việc Hoa Kỳ đề xuất như vậy dường như
không nhắm vào các nước tham gia đàm
phán TPP mà là nhắm vào Ấn Độ. Các tác
giả này phân tích rằng Điều 8.1 được soạn
thảo nhằm chống lại một chính sách đã được
thực thi tại Ấn Độ theo quy định của điều 3.d
Luật Patent sửa đổi năm 2005. Điều 3.d cấm
việc cấp bằng sáng chế cho “chỉ việc phát
hiện một hình thức mới của một chất đã
được biết đến mà nó không dẫn đến việc
tăng cường hiệu quả đã được biết đến của
chất đó hoặc chỉ việc phát hiện ra bất kỳ
thành phần mới, cách sử dụng mới nào của
một chất đã được biết đến, hoặc chỉ là cách
sử dụng của một quy trình, thiết bị đã được
biết đến, trừ khi quy trình đó dẫn đến việc
tạo ra một sản phẩm mới hoặc sử dụng ít
nhất một chất phản ứng mới”. Điều 3.d này
được đưa ra nhằm làm giảm số lượng bằng
sáng chế được cấp cho lĩnh vực dược phẩm,
từ đó, làm tăng cơ hội tiếp cận đối với các
sáng chế về thuốc đã hết thời hạn bảo hộ, tức
là làm tăng cơ hội tiếp cận thuốc giá rẻ đối
với công chúng. Điều mà Hoa Kỳ lo ngại ở
đây chính là quy định của điều 3.d đã trở
thành khuôn mẫu để nhiều nước đang phát
11 Điều 4.9 cung cấp một khuôn khổ các biện pháp bảo hộ phù hợp và các biện pháp khắc phục hiệu quả về mặt pháp lý để
chống lại việc qua mặt các biện pháp công nghệ mà tác giả, người biểu diễn hoặc nhà sản xuất bản ghi sử dụng liên quan
đến việc thực hiện các quyền của họ để hạn chế các hành vi không được phép đối với tác phẩm, buổi biểu diễn và bản
ghi, Hoa Kỳ đề xuất các bên tham gia đàm phán TPP phải đưa ra các quy định để quy trách nhiệm cho một loạt những
người có liên quan. Trách nhiệm này đòi hỏi phải là trách nhiệm hình sự, đi kèm với các biện pháp khắc phục khác để đảm
bảo quyền lợi của người sở hữu quyền.
12 Điều 8.1 của Bản đề xuất quy định: “Mỗi Bên phải cấp patent cho mọi sáng chế, dù đó là một sản phẩm hay một quy
trình, trong mọi lĩnh vực công nghệ, với điều kiện là sáng chế mới, có trình độ sáng tạo, và có khả năng ứng dụng công
nghiệp. Ngoài ra, các Bên xác nhận rằng bằng sáng chế sẽ sẵn có đối với bất kỳ hình thức, sử dụng hoặc phương pháp
sử dụng mới đối với một sản phẩm đã được biết đến; và một hình thức, sử dụng, hoặc phương pháp sử dụng mới một
sản phẩm đã được biết đến có thể đáp ứng các tiêu chí về cấp bằng sáng chế, thậm chí nếu như sáng tạo đó không nhằm
mục đích tăng cường hiệu quả đã được biết đến của sản phẩm đó”.
13 Điều 8.2 quy định: “Mỗi bên phải cấp patent cho các sáng chế đối với: (a) cây trồng và vật nuôi; và (b) các phương pháp
phân tích, chữa bệnh và phẫu thuật để điều trị cho con người và động vật”.
14 Điều 27.3 của TRIPs quy định: “Các Thành viên cũng có thể loại trừ không cấp patent cho: (a) các phương pháp chẩn
đoán bệnh, phương pháp nội và ngoại khoa để chữa bệnh cho người và động vật; (b) thực vật và động vật khong phải
là các chủng vi sinh, các quy trình sản xuất thực vật và động vậtm chủ yếu mang tính chất sinh học và không phải là các
quy trình phi sinh học hoặc vi sinh”.
15 Xem điều 58, 59 Luật SHTT năm 2005, sửa đổi năm 2009 của Việt Nam. Đồng thời, xem các phân tích trong bài viết:
Public Citizen & Health Gap, Việt Nam và Hiệp định Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương: Các rủi ro về tiếp cận thuốc
đối với một đối tác của PEPFAR, tr.1-4, tại:
Partnership-Agreement-%28Vietnamese-Translation%29.pdf (truy cập ngày 25/02/2012); Dr. Burcu Kılıç & Peter Maybar-
duk, Dangers for Access to Medicines in the Trans-Pacific Free Trade Agreement: Comparative Analysis of the United States’
TPFTA Intellectual Property Proposal and Vietnamese Law,
the-US-TPFTA-IP-Proposal-and-Vietnamese-Law.pdf (truy cập ngày 25/02/2012).
16 Xem thêm Public Citizen, Dangers for Access to Medicines in the Trans-Pacific Partnership Agreement: Comparative Analysis
of the U.S. Intellectual Property Proposal and Australian law, pp.2-11, tại:
TPPA-chart.pdf (truy cập ngày 25/02/2012).
17 Xem thêm: Dr. Burcu Kılıç & Peter Maybarduk, Dangers for Access to Medicines in the Trans-Pacific Partnership Agreement:
Comparative Analysis of the U.S. Intellectual Property Proposal and Malaysian law, pp.2-15,
ments/Malaysia-Chart.pdf (truy cập ngày 25/02/2012); Malaysian Declaration on the Trans-Pacific Partnership Agreement
& Acces to Medicines, 09/2011, tại: (truy cập ngày
25/02/2012).
42 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01(233) T1/2013
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
triển học tập và nội luật hóa nhằm tăng cơ
hội tiếp cận thuốc giá rẻ cho người bệnh
nước mình18. Nói một cách khác, quy định
tại Điều 8.1 này làm cho việc cấp bằng sáng
chế trở nên dễ dàng hơn, từ đó, bảo vệ
quyền lợi cho người sở hữu bằng sáng chế,
trong đó có các công ty dược phẩm lớn của
Hoa Kỳ19.
- Sửa đổi khung pháp lý quốc tế về các
tiêu chuẩn đối với đơn đăng ký, phản đối,
hủy bỏ, công bố thông tin bắt buộc và lợi ích
của bằng sáng chế để làm cho việc đạt được
các bằng sáng chế trở nên dễ dàng hơn, việc
phản đối hoặc hủy bỏ bằng sáng chế khó
khăn hơn và làm cho việc chuyển giao công
nghệ mang lại ít lợi ích hơn.
- Loại bỏ việc tiếp cận với các linh hoạt
trong lĩnh vực dược phẩm20 được quy định
trong Luật Mới về Thương mại năm 2007
(2007 New Trade Deal Law) và Hiệp định
Thương mại Tự do giữa Hoa Kỳ và Peru và
thay vào đó là các quy định về mở rộng bảo
hộ đối với sáng chế và đăng ký bảo hộ độc
quyền đối với thuốc mà không quan tâm đến
khả năng chi trả của người bệnh. Các quy
định này sẽ dẫn đến giá thuốc tăng cao và
khả năng tiếp cận đối với các dược phẩm sẽ
giảm xuống, nhất là đối với người dân của
các nước đang phát triển.
- Đưa ra nhiều chế tài khác nhau, bao
gồm cả các chế tài hình sự và tư pháp21.
- Bổ sung các quy định hạn chế mới về
tính hiệu quả của đám phán giá trong
chương trình bồi hoàn giá thuốc, một
chương trình mà trước đó chưa bao giờ được
đề nghị cho các nước đang phát triển và cũng
chưa bao giờ được thực thi ngay tại chính
Hoa Kỳ22.
Như vậy, có thể thấy, những đề nghị của
Hoa Kỳ đưa ra trong Bản đề xuất tháng
02/2011, dù có được sửa đổi chút ít trong
tháng 09/2011, vẫn hàm chứa những đòi hỏi
rất cao, nhiều khi vượt quá khả năng thực thi
của một bộ phận các bên tham gia đàm phán
là các quốc gia đang phát triển, trong đó có
Việt Nam.
Đề xuất của New Zealand
Hiện tại, các đề xuất bị tiết lộ của New
Zealand được chứa đựng trong hai tài liệu,
18 Xem thêm: Sean Flynn, Margot Kaminski, Brook Baker and Jimmy Koo, tlđd, tr.20-21; Carlos Correa, Guidelines for the Ex-
amination of Pharmaceutical Patents: Developing a Public Health Perspective 6–25 (Jan. 2007), tại
docs/Correa_Patentability%20Guidelines.pdf (truy cập ngày 25/02/2012). Sudip
Chaudhuri, Chan Park & K. M. Gopakumar, Five years into the product patent regime: India’s response, tại:
(truy cập ngày 25/02/2012).
19 Xem thêm: Hội đàm Đối tác Xuyên Thái Bình Dương – Thỏa thuận tự do thương mại sẽ mang đến những lợi nhuận khổng
lồ cho các tập đoàn dược phẩm Mỹ và ảnh hưởng đến các chi phí trong các chương trình HIV/AIDS tại Việt Nam, tại:
(tuy cập
ngày 25/02/2012).
20 Điều 8.2 quy định: “Mỗi bên phải cấp patent cho các sáng chế đối với: (a) cây trồng và vật nuôi; và (b) các phương pháp
phân tích, chữa bệnh và phẫu thuật để điều trị cho con người và động vật”.
21 Điều 15.5(a) yêu cầu các Bên tham gia TPP phải quy định các chế tài bao gồm hình phạt tù và phạt tiền đủ cao để ngăn
ngừa các hành vi vi phạm trong tương lai và phù hợp với chính sách nhằm loại bỏ mọi động lực mang tính tài chính của
người vi phạm. Biện pháp này giống với quy định trong KORUS, US-Australia FTA, US-Singapore FTA, US-Peru FTA nhưng
không được quy định trong hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ hay của Việt Nam.
Điều 15.5(b), được xây dựng trên cơ sở điều 25.1 của ACTA, yêu cầu các Bên tham gia TPP phải quy định rằng các cơ
quan tư pháp sẽ có thẩm quyền để ra lệnh tịch thu đối với hàng hóa bị “nghi ngờ” làm giả hoặc ăn cắp bản quyền và bổ
sung thêm rằng “các mặt hàng có thể bị tịch thu theo bất kỳ lệnh tòa án nào như vậy không cần phải được xác định một
cách riêng lẻ, miễn là chúng thuộc nhóm được xác định trong lệnh tòa án đó”. Trong khi đó, điều 61 của TRIPs chỉ quy
định “các biện pháp chế tài cũng bao gồm cả việc bắt giữ, tịch thu và tiêu hủy hàng hóa vi phạm”, tức là không nhắc đến
trường hợp của các hàng hóa bị “nghi ngờ” vi phạm. Cách quy định như vậy có thể dẫn đến việc lạm dụng của cơ quan
tư pháp, từ đó sẽ gây nên những tác động không tích cực đến lưu thông hàng hóa trên thị trường.
22 Về các đánh giá sâu hơn đối với Bản đề xuất này, xem thêm: Sean Flynn, Margot Kaminski, Brook Baker and Jimmy Koo,
Public Interest Analysis of the US TPP Proposal for an IP Chapter, Draft version 1.3, December 6, 2011, tại:
(truy cập ngày 28/02/2012).
43NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01(233) T1/2013
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
một tài liệu có tiêu đề: “TPP: Intellectual
Property Chapter: Horizontal Issues/Overall
Structure, General Provisions and Coopera-
tion”23 và tài liệu còn lại đề xuất nội dung cụ
thể liên quan đến Chương X về SHTT trong
TPP24. Cụ thể:
Vấn đề tiếp cận ngang/cấu trúc tổng thể,
các quy định chung về hợp tác. Trong văn
bản đệ trình từ sau phiên đàm phán thứ hai
này, xuất phát từ tầm quan trọng của TRIPs
trong việc thúc đẩy sự phát triển của thương
mại gắn liền với quyền SHTT, cũng như từ
những khó khăn mà các Thành viên WTO
đã gặp phải trong quá trình thực thi TRIPs,
New Zealand nhấn mạnh đến các vấn đề cần
đạt được khi xây dựng nội dung về SHTT
trong TPP bằng việc đưa ra các nguyên tắc
đàm phán và các vấn đề trọng tâm.
Về các nguyên tắc đàm phán, New
Zealand nêu lên ba nguyên tắc, bao gồm:
- Hợp tác được đàm phán trong các hiệp
định thương mại phải củng cố trực tiếp cho
việc thực thi hiệp định và trợ giúp các bên
có được nhiều lợi ích kinh tế;
- Các lĩnh vực trọng tâm đàm phán phải
hướng tới tạo ra nhiều lợi ích cho các bên
nhất có thể và bổ sung cho các quan hệ đối
tác kinh tế đang tồn tại cũng như các trợ giúp
phát triển đang được thực thi;
- Các thỏa thuận tạo lập thể chế phải
mang tính linh động, phù hợp với mục đích,
không đòi hỏi quá nhiều nguồn lực và gánh
nặng.
Từ ba nguyên tắc này, New Zealand đề
xuất ba lĩnh vực chính cần tập trung đàm
phán trong khuôn khổ nội dung về quyền
SHTT của TPP. Đó là:
- Thúc đẩy hiệu quả hoạt động trong lĩnh
vực SHTT. Để làm được điều này, New
Zealand đề nghị cần phải đàm phán nội dung
về SHTT trong TPP từ xuất phát điểm là các
quy định hiện hành của các điều ước quốc tế
cũng như từ hệ thống pháp luật của các nước
tham gia TPP về SHTT25.
- Hợp tác trong lĩnh vực thực thi quyền
SHTT. Sự hợp tác này hướng đến giải quyết
các vấn đề phát sinh và liên quan đến việc
xâm phạm các quyền SHTT diễn ra trong
mỗi nền kinh tế của các nước tham gia TPP.
- Hợp tác trong lĩnh vực xây dựng thể
chế/khả năng trong khu vực: vì các bên tham
gia TPP, nhất là các quốc gia đang phát triển,
đều phải đối mặt với nhiều thách thức trong
quá trình thiết lập và duy trì hoạt động của
các cơ quan nhà nước về SHTT, do đó TPP
cần phải củng cố và thúc đẩy hơn nữa sự hợp
tác giữa các bên để nâng cao hiệu quả hoạt
động của các cơ quan này.
Từ những đề xuất này, New Zealand cho
rằng, nếu được tập trung giải quyết, thì
chúng sẽ góp phần rất lớn vào giải quyết các
vấn đề tiếp cận ngang như hoạt động điều
phối trong quá trình thực thi các quy định về
SHTT, khả năng cạnh tranh, phát triển, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, và làm cho thỏa
thuận TPP “sống được” trong thực tế26.
Có thể nhận thấy, mục tiêu của đoàn
đàm phán New Zealand không tham vọng
như đề xuất của Hoa Kỳ27. Điều này có thể
dễ dàng giải thích là do vị thế của Hoa Kỳ
và New Zealand rất khác biệt, bởi lợi ích mà
Hoa Kỳ nhắm đến thông qua nội dung về
quyền SHTT trong TPP lớn hơn rất nhiều so
với New Zealand hay so với bất kỳ bên tham
gia TPP nào khác. Tuy nhiên, Bản đề xuất
23 Xem New Zealand, TPP: Intellectual Property Chapter: Horizontal Issues/Overall Structure, General Provisions and Coop-
eration, tại: (truy cập ngày 01/03/2012).
24 Xem tại: (truy cập ngày 01/03/2012).
25 Xem New Zealand, tlđd, p.2&4.
26 Xem New Zealand, tlđd, pp.3-4.
27 Xem thêm: Sanya Reid & Peter Maybarduk, Analysis of the Leaked New Zealand Paper on the Trans-Pacific Partnership
Agreement and Intellectual Property, 2010, tại: tpp/tpp-civil-society/ analysisoftheleaked-
newzealandpaper.pdf (truy cập ngày 01/03/2012).
của New Zealand cũng có một số điểm lưu
ý: Dù với số lượng điều khoản nhiều hơn, 22
điều so với 16 điều trong Bản đề xuất của
Hoa Kỳ, các quy định hàm chứa trong đó
khá đơn giản, không đi sâu, chi tiết vào quy
định chế độ pháp lý bảo hộ cho các đối
tượng của quyền SHTT. Ngoài việc đề cập
trực tiếp đến nhãn hiệu, kiến thức truyền
thống, biểu diễn văn hóa truyền thống và
nguồn gen, các quy định còn lại của Bản đề
xuất đều tập trung đi vào vấn đề thực thi. Về
cơ bản, một số mục tiêu này tương tự với
những mục tiêu mà TRIPs đề ra28. Tuy
nhiên, điểm khác biệt và khá quan trọng, đó
là mục tiêu đạt sự cân bằng giữa quyền lợi
của người sở hữu quyền và người sử dụng
cũng như cộng đồng, bởi việc điều phối mối
quan hệ này không hề dễ dàng trong khi một
số nước chỉ hướng tới bảo vệ quyền lợi của
người sở hữu quyền, một số nước khác thì
việc này lại không như vậy. Rộng hơn, mục
tiêu này đặt ra cũng sẽ giúp đạt được sự cân
bằng lớn hơn giữa quyền lợi của các nước
đang phát triển và của các nước phát triển
tham gia TPP.
Đề xuất của Chi-lê
Đề xuất ban đầu của Chi-lê29 đưa ra các
quy định về bốn vấn đề: định nghĩa; các
nguyên tắc chung về SHTT; các quy định
chung; và hợp tác. Nhìn tổng thể, Bản đề
xuất của Chi-lê rất đơn giản, chủ yếu được
xây dựng trên nghĩa vụ là các bên tiếp tục
tuân thủ khuôn khổ pháp luật về SHTT được
tạo ra trên cơ sở TRIPs và Tuyên bố Doha
về Sức khỏe cộng đồng năm 2011. Điểm
đáng chú ý nhất trong Bản đề xuất này đó là
Chi-lê, trong phần về hợp tác, đã vạch ra
những nội dung mà các bên cần phải lưu ý
trong khuôn khổ hợp tác giữa họ. Đây cũng
là nội dung khá quan trọng mà Việt Nam cần
lưu ý.
4. Triển vọng đàm phán và những vấn đề
đặt ra với Việt Nam
Đối với việc đàm phán TPP nói chung
và đàm phán về SHTT trong khuôn khổ TPP
nói riêng, về cơ bản, các nguyên thủ quốc
gia thành viên TPP đã cho thấy quyết tâm
chính trị rất cao để kết thúc đàm phán. Tuyên
bố của các nhà lãnh đạo các nước tham gia
Hiệp định TPP được đưa ra ngày 12/11/2011
trong khuôn khổ của Hội nghị Cấp cao
APEC lần thứ 19 tại Honolulu (Hoa Kỳ)30,
đã khẳng định: “chúng tôi hài lòng với
những tiến bộ mà giờ đây chúng tôi có thể
công bố để hướng tới mục tiêu cuối cùng là
hướng tới tự do thương mại tại khu vực Thái
Bình Dương”31 và “chúng tôi cam kết dành
những nguồn lực cần thiết để kết thúc hiệp
định mang tính biểu tượng này trong thời
gian sớm nhất có thể”32. Quyết tâm chính trị
cao sẽ là một trong những nhân tố quan
trọng thúc đẩy các quốc gia đạt được kết quả
cuối cùng về nội dung của TPP trong thời
gian tới.
Trong Tuyên bố này, các nhà lãnh đạo
cũng nhấn mạnh: “Chúng tôi đều rất quan
tâm đến việc mở rộng quan hệ đối tác hiện
tại của chín nước đa dạng về địa lý và trình
độ phát triển với các nước khác trong khu
vực. Trong quá trình đàm phán để kết thúc
hiệp định, chúng tôi đã và đang chỉ đạo các
đoàn đàm phán tiếp tục thảo luận với các đối
tác trên toàn khu vực xuyên Thái Bình
Dương đã bày tỏ quan tâm tham gia Hiệp
định TPP nhằm tạo thuận lợi cho sự gia nhập
của những nước này trong tương lai”33. Điều
44 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01(233) T1/2013
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
28 Xem Lời nói đầu của TRIPs.
29 Chile TPP Submission, Preliminary Considerations for TPP IP Chapter, xem tại: ChilePre-
liminaryConsiderationsforTPPIPChapter.pdf (truy cập ngày 10/03/2012).
30 Xem: Tuyên bố của các Nhà Lãnh đạo các nước tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), 12/11/2011, tại:
_INSTANCE_XbBg&p_p_action=1&p
_p_state=normal&p_p_col_id=column-2&p_p_col_pos=2&p_ p_col_ count =3&_cmsviewportlet_WAR_vsi_portlets_IN-
STANCE_XbBg_ catId=12&_cmsviewportlet_WAR_vsi_portlets _INSTANCE_XbBg_curPg=0&_cmsviewportlet _WAR_
vsi_portlets_INSTANCE_XbBg_arcId=7362 (truy cập ngày 01/03/2012).
31 Tlđd, đoạn 3.
32 Tlđd, đoạn 2.
45NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01(233) T1/2013
này có nghĩa là, trong thời gian tới, có thể sẽ
có thêm các quốc gia trong khu vực Thái
Bình Dương tham gia và trở thành một bên
của TPP. Ngày 11/11/2011, Nhật Bản34,
Canada35 và Mexico đều tuyên bố ý định
tham gia TPP. Tuy tại vòng đàm phán thứ 10
và thứ 11, ba quốc gia này chưa tham gia
đàm phán, nhưng có thể thấy, trong thời gian
tới, việc tham gia của ba quốc gia mới này
vào các phiên đàm phán sắp tới chắc chắn sẽ
diễn ra. Xuất phát từ việc cả ba nước này đều
có hệ thống pháp luật về SHTT khá phát
triển, nhất là Nhật Bản và Canada, có thể
thấy rõ là họ sẽ có những đề xuất mới đối
với nội dung về sở hữu trí tuệ trong TPP.
Ngoài ra, một số quốc gia khác, như Hàn
Quốc36, Trung Quốc cũng có thể tham gia và
đưa ra những đề xuất mới cho vấn đề này.
Do đó, trong tương lai, đàm phán về SHTT
trong TPP có thể đạt được kết quả nhưng có
thể sẽ có những thay đổi so với thời điểm
hiện tại.
Ngoài ra, trong nghiên cứu của mình, tác
giả Peter A. Petri, Micheal G. Plummer và
Fan Zhai phân tích cho thấy nội dung về
quyền SHTT đạt được khoảng 77% mức độ
ưu tiên mà các bên tham gia đàm phán TPP
dành cho các nội dung của hiệp định này37,
đứng thứ sáu trong số các ưu tiên hàng đầu38.
Điều này cho thấy, các quốc gia tham gia
đàm phán TPP cố gắng nhằm đạt được các
thỏa thuận về nội dung của quyền SHTT vừa
đảm bảo lợi ích của mình vừa hài hòa lợi ích
chung của các quốc gia khác.
Đối với Việt Nam, chúng ta đã tham gia
tích cực vào các vòng đàm phán gần đây của
TPP nói chung và về quyền SHTT nói riêng.
Tuy nhiên, để đi đến kết quả cuối cùng cũng
như bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, của
doanh nghiệp, của người tiêu dùng và của
cộng đồng nói chung, Việt Nam vẫn cần tiếp
tục đàm phán, đặc biệt là với đối tác Hoa Kỳ.
Những vấn đề cần phải được sửa đổi bao gồm:
- Chuyển các quy phạm được nêu trong
Điều 1.3 và Điều 1.5 Bản đề xuất của Hoa
Kỳ từ các quy phạm mang tính mệnh lệnh
sang các quy phạm mang tính tùy nghi. Việc
chuyển đổi này sẽ khiến cho nghĩa vụ gia
nhập các điều ước quốc tế mà Bản đề xuất
này nêu lên không còn là bắt buộc mà được
chuyển sang một quy định mang tính lựa
chọn, nói cách khác, không chỉ Việt Nam mà
một số nước khác như Malaysia, Brunei
có thể lựa chọn trong danh mục các điều ước
đó những điều ước phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội trong nước để gia nhập, từ
đó bảo vệ được lợi ích của mình.
- Sửa đổi quy định của Điều 2.1 bằng
cách bổ sung thêm một câu: “Trong trường
hợp pháp luật của một Bên đã quy định điều
kiện để đăng ký nhãn hiệu là dấu hiệu đó
phải nhìn thấy được trước khi Hiệp định này
có hiệu lực, thì Bên đó được áp dụng quy
định của pháp luật trong nước trong khoảng
thời gian 10 năm kể từ khi Hiệp định này có
hiệu lực”.
- Chỉ chấp nhận khái niệm về chỉ dẫn địa
lý như quy định tại điều 22.1 của TRIPs.
- Loại bỏ quy định về tiêu chuẩn “sử
dụng trong thương mại” đối với nhãn hiệu
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
33 Tlđd, đoạn 3.
34 Hiroko Tabuchi, Premier Says Japan Will Join Pacific Free Trade Talks, 11/11/2011, tại:
2011/11/12/world/asia/japan-to-join-talks-on-pacific-trade-pact.html (truy cập ngày 02/03/2012).
35 Jason Fekete, Canada to strike new trans-Pacific free trade deal: Harper, 13/11/2011, tại:
2011/ 11/13/canada-wants-to-join-u-s-and-asia-pacific-region-free-trade-deal-harper/ (truy cập ngày 02/03/2012).
36 Cần lưu ý là Hàn Quốc là một bên của KORUS, một hiệp định thương mại với những quy định rất khắt khe về quyền sở
hữu trí tuệ mà Hoa Kỳ, bên còn lại của KORUS, dựa vào để đưa ra đề xuất cho chương về quyền sở hữu trí tuệ trong TPP.
Do đó, một khi Hàn Quốc tham gia đàm phán TPP, tiếng nói của Hoa Kỳ trong các phiên đàm phán này sẽ được ủng hộ
nhiều hơn.
37 Xem: Peter A. Petri, Micheal G. Plummer, and Fan Zhai, The Trans-Pacific Partnership and Asia-Pacific Intergration: A Quan-
titative Assessment, East-West Center Working Papers, Economics Series, No. 119, October 24, 2011, pp.10-11.
38 Theo nghiên cứu này, năm nội dung ưu tiên hàng đầu trên nội dung về sở hữu trí tuệ là: Hàng hóa (100%); Quy tắc xuất
xứ (94%); Dịch vụ (91%); Giải quyết tranh chấp (91%) và Thủ tục hải quan (86%). Xem thêm: Peter A. Petri, Micheal G.
Plummer, and Fan Zhai, tlđd, pp.10-11.
46 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01(233) T1/2013
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
nổi tiếng như được quy định tại Điều 2.6 của
Bản đề xuất.
- Sửa đổi quy định về tên miền trên In-
ternet theo hướng bổ sung một lộ trình thực
hiện dài để cơ quan quản lý nhà nước của
Việt Nam về internet có thời gian chuẩn bị
và thích nghi.
- Sửa đổi quy định về quyền độc quyền
sao chép đối với tác phẩm, cuộc biểu diễn
hay bản ghi như định nghĩa tại khoản 10
Điều 4 của Luật SHTT năm 2005, sửa đổi
năm 2009 của Việt Nam.
- Sửa đổi thời hạn bảo hộ đối với tác
phẩm, cuộc biểu diễn hay bản ghi được bảo
hộ bằng bản quyền hoặc quyền có liên quan
giống với thời hạn bảo hộ được quy định tại
Điều 27.2 của Luật SHTT Việt Nam năm
2005, sửa đổi năm 2009.
- Chuyển quy định về các ngoại lệ được
nêu tại Điều 4.9.d Bản đề xuất của Hoa Kỳ
từ quy phạm đóng sang quy phạm mở, từ đó
cho phép các bên tham gia TPP có thể bổ
sung các ngoại lệ phù hợp với điều kiện kinh
tế - xã hội của mình.
- Chuyển quy định tại Điều 8.2 từ một
quy phạm mệnh lệnh sang quy phạm tùy
nghi, theo đó, sửa đổi từ “phải” thành “có
thể”.
Ngoài ra, Việt Nam cũng cần bổ sung
một số nội dung đàm phán là:
Thứ nhất, cần có những quy định ưu đãi
cho các nước đang và kém phát triển
So với chín đối tác khác cùng đàm phán
trong TPP, có thể thấy Việt Nam ở vào địa vị
quốc gia đang phát triển ở trình độ thấp, có
thu nhập bình quân đầu người thấp nhất
trong các quốc gia. Vì thế, để đảm bảo sự
cân bằng về lợi ích giữa các quốc gia tham
gia TPP có trình độ phát triển khác nhau,
Việt Nam cần phải được hưởng những ưu
đãi trong việc thực thi các quy định về SHTT
nói riêng và các quy định khác của TPP nói
chung. Ưu đãi này bao gồm:
- Có một khoảng thời gian chuẩn bị
thích hợp: khoảng thời gian này ít nhất cũng
phải từ năm năm trở lên để Việt Nam có
những sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nhiều mặt
đảm bảo cho việc thực thi có hiệu quả các
quy định của Luật mới.
- Có sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật và tài
chính từ các quốc gia có trình độ phát triển
cao như Hoa Kỳ, Australia thông qua cơ chế
hợp tác được xây dựng trong khuôn khổ nội
dung của chương.
- Bổ sung một số ngoại lệ, nhất là trong
vấn đề về tiếp cận thuốc và dược phẩm đối
với người bệnh được bảo hộ bằng patent.
Thứ hai, bổ sung các quy định về hợp
tác
Về cơ bản, các nội dung về hợp tác đã
được Chi-lê nêu rất cụ thể trong Bản đề xuất
của mình. Do đó, nội dung này cần phải
được bổ sung vào trong bản tổng hợp các đề
xuất. New Zealand cũng có đề xuất về hợp
tác khi hoạch định các cơ chế hợp tác.
Thứ ba, bổ sung các quy định về tri thức
truyền thống và biểu diễn văn hóa truyền
thống
Việt Nam là một quốc gia giàu truyền
thống văn hóa, với nhiều di sản văn hóa vật
thể và phi vật thể đã được UNESCO công
nhận. Do đó, việc bổ sung các quy định về
tri thức truyền thống và biểu diễn văn hóa
truyền thống sẽ là yếu tố quan trọng giúp
Việt Nam có thể bảo vệ được chúng trước
làn sóng thương mại hóa làm ảnh hưởng đến
những giá trị cốt lõi mà tri thức truyền thống
và biểu diễn văn hóa truyền thống mang lại.
Việt Nam có thể kết hợp với New Zealand
bàn thảo và cụ thể hóa hơn nữa đề xuất của
New Zealand về vấn đề này.
Các đề xuất được đưa ra nói trên dựa
trên cơ sở nghiên cứu các đề xuất của Hoa
Kỳ, so sánh với TRIPs, với hệ thống pháp
luật trong nước của Việt Nam. Do đó, có thể
khẳng định nó sẽ góp phần tích cực trong
việc bảo vệ lợi ích của Việt Nam nói chung,
của các doanh nghiệp và cộng đồng nói
riêng. Đồng thời, nhờ đó, việc thực thi các
quy định của chương này tại Việt Nam cũng
sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn trong tương lai n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- viet_nam_voi_viec_dam_phan_ve_quyen_so_huu_tri_tue_trong_khu.pdf