Phân bón có vai trò rất quan trọng
trong sản xuất nông nghiệp. Từ hàng
ngàn năm nay, thế hệ cha ông đã đúc
kết: nhất nước, nhì phân. Để đảm
bảo an ninh lương thực và an ninh
dinh dưỡng, Việt Nam cần tiếp cận
nông nghiệp một cách thông minh,
đó là: i) Thông minh với thị trường, ii)
Thông minh với đặc thù điều kiện tự
nhiên và khí hậu để khai thác tốt nhất
lợi thế; và iii) Thông minh với năng
lực đầu tư, trình độ công nghệ của
doanh nghiệp, người dân, trong đó
có thông minh với nguồn chất dinh
dưỡng cung cấp cho cây trồng. Do
vậy, trong lĩnh vực phân bón, không
nên cực đoan vai trò của loại phân
bón nào. Mục đích của sản xuất nông
nghiệp là tạo ra sản phẩm an toàn,
đáp ứng tính đa dạng của nhu cầu
thị trường. Trên quan điểm này, cân
đối và cân bằng giữa các nguồn dinh
dưỡng phù hợp với đất đai, khí hậu,
cây trồng và thị trường sẽ có vai trò
quyết định.
Nhưng bón phân bao nhiêu và ở
dạng nào, tỷ lệ ra sao là cả một vấn
đề lớn. Chúng ta đã đảm bảo đủ về
số lượng và chủng loại phân bón vô
cơ, song còn thiếu rất nhiều phân
bón hữu cơ để đảm bảo sản xuất
nông nghiệp bền vững. Trong khi đó,
chúng ta lại đang lãng phí phần lớn
nguồn nguyên liệu hữu cơ, vừa gây
tổn thất về kinh tế lại tăng ô nhiễm
môi trường. Chúng tôi mong muốn,
vấn đề phân bón hữu cơ sẽ được
Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn quan tâm thật
sự với một đề án phát triển mang tính
khả thi cao, thu hút được sự tham gia
của các nhà khoa học, doanh nghiệp
và đặc biệt là người nông dân vì một
nền “nông nghiệp thịnh vượng, nông
dân giàu có và nông thôn văn minh”
như ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư,
Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại
Lễ khai giảng năm học mới của Học
viện Nông nghiệp Việt Nam ngày
30/9/2018
3 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 11 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vô cơ hóa hay hữu cơ hóa nông nghiệp ở Việt Nam?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
23
Diễn đàn khoa học và công nghệ
Số 4 năm 2020
đặt vấn đề
Chưa bao giờ vấn đề nông nghiệp
hữu cơ và phân bón hữu cơ được
quan tâm nhiều tại tất cả diễn đàn và
các cấp như hiện nay. Chỉ tính riêng
các Hội nghị cấp quốc gia có thể kể
đến: Diễn đàn quốc tế “Nông nghiệp
hữu cơ Việt Nam: phát triển và hội
nhập” ngày 16/12/2017 diễn ra tại
Hà Nội; Diễn đàn quốc gia: Phát triển
nông nghiệp hữu cơ lần thứ I với chủ
đề “Giải pháp phát triển nông nghiệp
hữu cơ Việt Nam” ngày 27/12/2017
tại TP Hồ Chí Minh; Hội nghị “Bàn
giải pháp thúc đẩy sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ”
ngày 4/4/2017 tại Hà Nội; Hội nghị
“Phát triển phân bón hữu cơ” ngày
9/3/2018 tại Hà Nội; Hội nghị “Thúc
đẩy sản xuất, sử dụng và nâng cao
chất lượng phân bón hữu cơ” ngày
28/8/2019 tại Hà Nội. Chưa kể, phân
bón hữu cơ và nông nghiệp hữu cơ
còn được đề cập trong Luật Trồng
trọt, Luật Chăn nuôi được Quốc hội
khóa XIV thông qua ngày 19/11/2018,
cũng như trong Nghị định 109/2018/
NĐ-CP ngày 29/8/2018 của Chính
phủ về nông nghiệp hữu cơ.
Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân,
gần đây có xu hướng cực đoan về vai
trò của nông nghiệp hữu cơ và phân
bón hữu cơ, coi phân bón vô cơ như
tội đồ làm suy thoái độ phì nhiêu của
đất, ô nhiễm nước ngầm và nước
mặt, tăng phát thải khí nhà kính, ảnh
hưởng đến chất lượng nông sản, sức
khỏe người tiêu dùng và kêu gọi loại
bỏ phân bón vô cơ. Nên nhớ rằng,
thế giới hiện vẫn đang sử dụng lượng
phân vô cơ rất lớn (187 triệu tấn N +
P2O5 + K2O năm 2018), trong khi chỉ
có 17 triệu tấn phân bón hữu cơ công
nghiệp được sản xuất và sử dụng.
Do vậy, việc xác định đúng và khách
quan vai trò của phân bón hữu cơ và
vô cơ (hóa học) là rất quan trọng, để
có cách tiếp cận phù hợp nhất trong
sản xuất nông nghiệp hiện nay.
Vô cơ hóa hay hữu cơ hóa nông nghiệp?
Mục đích của mọi phương thức
sản xuất là tạo ra sản phẩm an toàn
cho con người, ít tác động tiêu cực
nhất đến môi trường và duy trì được
đa dạng sinh học cho thế hệ sau. Mỗi
quốc gia sẽ ưu tiên lựa chọn phương
thức sản xuất phù hợp nhất với điều
kiện tự nhiên và các nguồn lực khác
của mình để đạt hiệu quả cao nhất.
Có một câu hỏi thường được nhắc
đến là phân bón vô cơ hay hữu cơ
an toàn hơn với chất lượng nông sản
và môi trường. Trước hết, chúng ta
cần hiểu rằng, dù được cung cấp từ
nguồn nào thì chất dinh dưỡng đều
phải chuyển về dạng vô cơ/ion thì cây
trồng mới hấp phụ được. Do vậy, nếu
nói sử dụng phân bón vô cơ là không
an toàn sẽ không thuyết phục. Không
lẽ các nước phát triển, sản xuất quy
mô lớn bằng phương thức thủy canh
mà trong đó gần như 100% chất dinh
dưỡng ở dạng vô cơ, lại không có sản
phẩm an toàn?
Lịch sử cho thấy, với dân số ít, chỉ
cần sử dụng các giống cây trồng bản
địa năng suất thấp cũng đủ đáp ứng
nhu cầu của loài người về lương thực
và thực phẩm. Khi đó, dinh dưỡng
vốn có trong đất, một số vùng lại
được bù đắp phù sa hàng năm thì
chỉ cần luân canh, bón phân hữu cơ
là đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng
của cây trồng. Tuy nhiên, khi dân số
tăng lên, diện tích đất sản xuất nông
nghiệp giảm do đô thị hóa, giao thông
và các nhu cầu khác thì áp lực thâm
canh tăng năng suất là bắt buộc. Các
giống lúa lai, lúa cao sản ra đời, số vụ
sản xuất tăng lên trong một năm làm
cho dinh dưỡng vốn có trong đất suy
giảm nhanh chóng, khi đó chỉ phân
hữu cơ không thể giúp cân bằng nhu
cầu dinh dưỡng của cây trồng và việc
sử dụng phân vô cơ tăng lên như một
quy luật tất yếu.
Hiện nay, những nước có diện tích
đất sản xuất nông nghiệp trên đầu
người thấp sẽ sử dụng nhiều phân bón
VÔ Cơ hóa hay hữu Cơ hóa nÔng nghiỆp ở ViỆt naM?
Nguyễn Văn Bộ
nguyên giám đốc viện Khoa học nông nghiệp việt nam
Do nhiều nguyên nhân, gần đây có xu hướng cực đoan về vai trò của nông nghiệp hữu cơ và phân
bón hữu cơ, coi phân bón vô cơ như “tội đồ” làm suy thoái độ phì nhiêu của đất, ô nhiễm nguồn nước,
ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng và kêu gọi loại bỏ phân bón vô cơ... Tuy nhiên các nghiên
cứu cho thấy, với hầu hết cây trồng, việc sử dụng hài hòa phân bón hữu cơ và vô cơ là giải pháp tối
ưu để phát triển nông nghiệp bền vững, trong đó tỷ lệ dinh dưỡng vô cơ và hữu cơ hiệu quả nhất là
70:30. Để đảm bảo an ninh lương thực và an ninh dinh dưỡng, Việt Nam cần tiếp cận nông nghiệp
một cách thông minh, không nên cực đoan vai trò của loại phân bón nào.
24
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
Số 4 năm 2020
vô cơ hơn để thâm canh, tăng năng
suất, trừ vài nước khó khăn về kinh tế.
Ngược lại, những nước có bình quân
diện tích đất sản xuất nông nghiệp
trên đầu người cao sẽ sử dụng rất ít
phân bón vô cơ (như Australia, Nga),
mà chủ yếu sử dụng phân bón hữu
cơ, tái sử dụng tàn dư thực vật trong
luân canh, thậm chí còn bỏ hóa cách
năm vừa để ổn định thị trường (tránh
vượt cung) và cũng để cải thiện độ
phì nhiêu của đất. Các nước sử dụng
nhiều phân bón vô cơ có thể kể đến là
Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc với
mức bón cao gấp 3-4 lần trung bình
của thế giới. Tất nhiên, với Việt Nam,
do gieo trồng nhiều vụ trong năm nên
lượng bón bình quân một vụ sẽ thấp
hơn. Tại một số quốc gia phát triển, sử
dụng nhiều phân bón vô cơ đang có
xu hướng giảm lượng bón (tính theo
N, P2O5 và K2O) trên một đơn vị diện
tích, điển hình như Hàn Quốc, giảm từ
412 kg/ha năm 2002 xuống còn 369
kg/ha năm 2015 (-11%); tại Nhật Bản,
giảm tương ứng từ 333 kg/ha xuống
còn 223 kg/ha (-33%). Trong khi tại
Trung Quốc, lượng bón lại tăng trong
cùng thời gian từ 377 lên 506 kg/ha
(+34,2%) và tại Việt Nam tăng từ 305
lên 439 kg/ha (+43,9%). Riêng tại Mỹ,
lượng bón cũng tăng 22% (từ 112 lên
137 kg/ha) cho giai đoạn 2002-2015.
Để nuôi sống dân số đang tăng
lên, mỗi quốc gia có thể áp dụng một
hoặc nhiều biện pháp như : i) Tăng
diện tích thông qua khai hoang các
vùng đất mới; ii) Tăng vụ và iii) Thâm
canh (giống mới, bón phân, quản lý
sâu bệnh và áp dụng các biện pháp
thủy nông thích hợp). Tuy nhiên, với
Việt Nam, đất sản xuất nông nghiệp
nói chung và sản xuất cây lương
thực, thực phẩm nói riêng không
những không tăng mà còn đang giảm
đi nhanh chóng cả về số lượng và
chất lượng.
Có thể thấy rằng, sản lượng
nhiều loại cây trồng ở Việt Nam tăng
đáng kể trong thời gian qua (nhất là
cây lương thực) chủ yếu là do năng
suất cây trồng tăng. Lấy 3 cây trồng
đại diện, có diện tích lớn và tiêu thụ
nhiều phân bón là cây lúa, ngô và cà
phê. Ba cây trồng này phủ 9,3 triệu
ha gieo trồng (chiếm 61,63% tổng
diện tích gieo trồng cây nông nghiệp)
và tiêu thụ trên 80% lượng phân bón
toàn quốc. Tính từ năm 1921 đến
2018 (97 năm), diện tích gieo trồng
lúa tăng có 1,64 lần, song sản lượng
tăng 7,08 lần, nhờ năng suất tăng 4,4
lần. Với các cây trồng khác cũng có
chung quy luật: ngô năng suất tăng
4,1 lần trong 42 năm; cà phê tăng 3,7
lần trong 28 năm.
Thêm nữa, hai vùng sản xuất
nông nghiệp chính của Việt Nam là
Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng
sông Cửu Long đã không còn nhận
được lượng phù sa như vốn có. Đồng
bằng sông Hồng đã từ nhiều năm
nay không có phù sa, còn tại Đồng
bằng sông Cửu Long có xu thế giảm
lũ, lũ lớn hiếm khi xảy ra; gần 90%
số năm chỉ có lũ vừa và nhỏ. Theo
Đài Khí tượng thủy văn khu vực Nam
Bộ (2017), lượng phù sa chảy qua
Tân Châu và Châu Đốc trung bình
1997-2016 giảm 0,72.106 tấn/năm
(trung bình 2,3%/năm). Do vậy, cùng
với việc tăng 2-3 vụ lúa/năm thì thiếu
phù sa cũng làm cho nhu cầu sử
dụng phân bón vô cơ của Việt Nam
tăng lên.
Cân đối vô cơ - hữu cơ là nền tảng của
phát triển nông nghiệp bền vững
Ưu thế của phân bón vô cơ và hữu
cơ là rất khác biệt. Trong khi phân
bón vô cơ có tác dụng nhanh, tính
chuyên dùng rất cao, giúp cây trồng
sinh trưởng và phát triển với tốc độ
cao, bội thu năng suất lớn thì phân
bón hữu cơ lại có tác dụng đa chiều,
đa chức năng và chậm. Ngoài việc
cung cấp chất dinh dưỡng cân đối
đa, trung, vi lượng (mà phân vô cơ
không có được), phân hữu cơ còn bổ
sung chất hữu cơ và các vi sinh vật
có ích cho đất. Nhờ đó, độ phì nhiêu
của đất được cải thiện, hiệu quả sử
dụng phân bón vô cơ được nâng cao,
mức độ độc hại của sắt, nhôm cũng
được giảm nhẹ. Trên vùng đất dốc,
đất thành phần cơ giới nhẹ (đất cát,
đất xám), phân hữu cơ có tác dụng
làm giảm rửa trôi, xói mòn đất và dinh
dưỡng. Trong điều kiện thiếu nước,
phân hữu cơ còn giúp tăng cường khả
năng chịu hạn của cây trồng (tăng
sức chứa ẩm tối đa đồng ruộng nên
tăng lượng nước hữu hiệu). Ngoài ra,
những nghiên cứu gần đây còn cho
thấy, chất hữu cơ làm tăng khả năng
tích lũy cacbon trong đất, nên giảm
phát thải khí nhà kính. Khi bón phân
ủ (compost), mức độ hấp thu vào đất
có thể đạt 8,22 kg CO2/ha/năm
1. Như
vậy, với tổng diện tích đất sản xuất
nông nghiệp thế giới là 4,88 tỷ ha
(FAO, 2010), nếu bón 8,2 tấn phân
hữu cơ/ha sẽ có thể chôn lấp được 40
Gt CO2, bằng 80% tổng lượng phát
thải toàn cầu (49 Gt)2.
Tuy nhiên, sử dụng phân hữu
cơ cũng có những nguy cơ tiềm ẩn
gây ô nhiễm môi trường như tích lũy
kim loại nặng, vi sinh vật độc hại
(trứng giun, E. Coli) hay quá trình
phú dưỡng nguồn nước. Hiện nay,
nhiều người vẫn lầm tưởng rằng chỉ
có phân đạm vô cơ mới là nguồn tích
lũy nitrat trong nông sản. Thực ra,
nitrat có thể tạo ra từ hữu cơ của đất,
phân chuồng, từ phế phụ phẩm nông
nghiệp... Ở Runnels, bang Texas
(Mỹ) người ta phát hiện thấy trong
nước ngầm có tới 3.000 mg NO3/lít
1The World Oganic Agriculture (2014), The
rodale farm systems trial.
2Synthesis Report of the IPCC (2014), Fifth
assessment report.
Lúa là một trong những loại cây trồng sử dụng nhiều phân bón vô cơ.
25
Diễn đàn khoa học và công nghệ
Số 4 năm 2020
(theo tiêu chuẩn của WHO là 50 mg
NO3/lít) mà nguyên nhân chính là do
phân giải chất hữu cơ sau khi cầy
vùi phế phụ phẩm. Các nghiên cứu
với 15N cho thấy, phần lớn NO3 bị rửa
trôi lại không phải trực tiếp từ phân
đạm khoáng bón cho cây trồng mà
từ chất hữu cơ. Kết quả nghiên cứu
của các nhà khoa học Anh cũng có
kết luận tương tự: nguồn NO3 rửa trôi
hầu hết là từ chất hữu cơ và tàn dư
thực vật. Đạm từ các nguồn này trong
chu trình phân giải lại dễ bị rửa trôi
và tích lũy lâu dài hơn so với từ phân
bón vô cơ. Do vậy, việc bón phân hữu
cơ, phế phụ phẩm nông nghiệp trong
điều kiện nhiệt độ cao, lượng mưa lớn
cũng sẽ là nguồn cung cấp NO3 rất
lớn.
Nhiều kết quả nghiên cứu đã
chứng minh trên hầu hết các loại đất,
phân bón vô cơ có mối quan hệ qua
lại rất chặt với phân hữu cơ. Bón phân
hữu cơ làm tăng hiệu suất sử dụng
phân đạm 30-40%, phân lân 20-25%
và thay thế được 30-40% phân kali
với lượng bón 10 tấn/ha. Như vậy,
cực đoan vô cơ hay hữu cơ đều mang
lại hiệu quả tiêu cực về kinh tế và môi
trường. Con đường duy nhất đúng là
cân đối giữa vô cơ và hữu cơ cả về tỷ
lệ và liều lượng cho mỗi loại cây trồng
trên mỗi loại đất... Theo nhiều nghiên
cứu, tỷ lệ dinh dưỡng 30% từ nguồn
phân hữu cơ và 70% từ nguồn phân
vô cơ là tối ưu cho phần lớn cây trồng
để vừa đảm bảo tăng năng suất,
chất lượng, vừa góp phần ổn định độ
phì nhiêu của đất. Do vậy, cung ứng
phân hữu cơ chất lượng tốt cũng như
phân vô cơ thế hệ mới, có hiệu quả
sử dụng cao sẽ là rất cần thiết.
Hiện tại, Việt Nam đang sử dụng
phân bón vô cơ dạng đơn hoặc NPK
chủ yếu dạng phối trộn, hiệu suất
sử dụng còn rất thấp, trung bình chỉ
45-50% với phân đạm, 35-40% với
phân lân, bao gồm cả hiệu lực tồn dư
và 55-60% với phân kali. Như vậy,
nhìn chung chúng ta mất đi khoảng
50% lượng phân bón vô cơ sử dụng.
Điều này không chỉ tổn thất về kinh
tế mà còn gây ô nhiễm môi trường và
tăng phát thải khí nhà kính. Xu thế
của thế giới hiện nay là sử dụng phân
bón vô cơ chậm tan (Slow release
fertilizer-SRF), phân bón có kiểm
soát (Controlled Release Fertilizer-
CRF) và phân bón mang tính ổn định
(Stabilized Fertilizer-SF). Chỉ riêng
việc sử dụng phân bón chậm tan,
phân bón có kiểm soát và đặc biệt
là phân bón ổn định có thể nâng cao
thêm hiệu quả sử dụng 15-20%, hay
nói cách khác, giảm sử dụng phân
bón 30-35%, vừa cải thiện thu nhập
cho nông dân, vừa góp phần giảm ô
nhiễm môi trường và giảm phát thải
khí nhà kính.
Đối với phân bón hữu cơ ở Việt
Nam, chúng ta có từ 5 nguồn chính:
i) Phân hữu cơ sản xuất công nghiệp
(hữu cơ sinh học, hữu cơ vi sinh, hữu
cơ khoáng); ii) Phân chuồng do nông
dân, trang trại tự ủ dạng compost;
iii) Phân bắc và nước tiểu; iv) Phân
xanh; và v) Tàn dư thực vật và phụ
phẩm. Nếu lấy tỷ lệ tối ưu dinh dưỡng
từ nguồn hữu cơ là 30% thì để cân đối
với khoảng 4 triệu tấn chất dinh dưỡng
(từ 9 triệu tấn phân bón vô cơ) đang sử
dụng, chúng ta cần khoảng 2 triệu tấn
chất dinh dưỡng từ nguồn phân hữu
cơ các loại, tương đương 50-60 triệu
tấn phân chuồng truyền thống3. Xét
về tiềm năng, chúng ta hoàn toàn có
thể sản xuất đủ số lượng phân hữu
cơ nêu trên để có trung bình 4 tấn
phân hữu cơ/ha gieo trồng với nguồn
nguyên liệu chất lượng cao là 60-
65 triệu tấn phân gia súc, gia cầm
(chứa khoảng 800 ngàn tấn chất dinh
dưỡng), 50-55 triệu tấn phụ phẩm
cây trồng (chứa khoảng 1 triệu tấn
chất dinh dưỡng). Đó là chưa kể một
lượng lớn phân bắc (khoảng 3,5-4
triệu tấn) chưa được tận dụng...
thay lời kết
Phân bón có vai trò rất quan trọng
trong sản xuất nông nghiệp. Từ hàng
ngàn năm nay, thế hệ cha ông đã đúc
kết: nhất nước, nhì phân... Để đảm
bảo an ninh lương thực và an ninh
dinh dưỡng, Việt Nam cần tiếp cận
nông nghiệp một cách thông minh,
đó là: i) Thông minh với thị trường, ii)
Thông minh với đặc thù điều kiện tự
nhiên và khí hậu để khai thác tốt nhất
lợi thế; và iii) Thông minh với năng
lực đầu tư, trình độ công nghệ của
doanh nghiệp, người dân, trong đó
có thông minh với nguồn chất dinh
dưỡng cung cấp cho cây trồng. Do
vậy, trong lĩnh vực phân bón, không
nên cực đoan vai trò của loại phân
bón nào. Mục đích của sản xuất nông
nghiệp là tạo ra sản phẩm an toàn,
đáp ứng tính đa dạng của nhu cầu
thị trường. Trên quan điểm này, cân
đối và cân bằng giữa các nguồn dinh
dưỡng phù hợp với đất đai, khí hậu,
cây trồng và thị trường sẽ có vai trò
quyết định.
Nhưng bón phân bao nhiêu và ở
dạng nào, tỷ lệ ra sao là cả một vấn
đề lớn. Chúng ta đã đảm bảo đủ về
số lượng và chủng loại phân bón vô
cơ, song còn thiếu rất nhiều phân
bón hữu cơ để đảm bảo sản xuất
nông nghiệp bền vững. Trong khi đó,
chúng ta lại đang lãng phí phần lớn
nguồn nguyên liệu hữu cơ, vừa gây
tổn thất về kinh tế lại tăng ô nhiễm
môi trường. Chúng tôi mong muốn,
vấn đề phân bón hữu cơ sẽ được
Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn quan tâm thật
sự với một đề án phát triển mang tính
khả thi cao, thu hút được sự tham gia
của các nhà khoa học, doanh nghiệp
và đặc biệt là người nông dân vì một
nền “nông nghiệp thịnh vượng, nông
dân giàu có và nông thôn văn minh”
như ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư,
Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại
Lễ khai giảng năm học mới của Học
viện Nông nghiệp Việt Nam ngày
30/9/2018 ?
3Tổng N, P2O5 và K2O trong phân chuồng
Việt Nam dao động trong khoảng 1,8-2,0%.
Trung Quốc đưa ra tiêu chuẩn là 4% và
chúng tôi lấy số liệu 4% dùng cho cả phân
hữu cơ truyền thống và phân hữu cơ chế
biến công nghiệp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
vo_co_hoa_hay_huu_co_hoa_nong_nghiep_o_viet_nam.pdf